Bài tập cá nhân luật hình sự đề số 6

A có ý định giết B vì ghen tuông, A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng. A rút dao đâm B liền ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống . Toà án xác định A phạm tội giết người theo điều 93 khoản 2 Bộ luật hình sự.

doc12 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2299 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập cá nhân luật hình sự đề số 6, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài Tập 6 : A có ý định giết B vì ghen tuông, A rủ B đi chơi, đến chỗ vắng. A rút dao đâm B liền ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống . Toà án xác định A phạm tội giết người theo điều 93 khoản 2 Bộ luật hình sự. Câu hỏi : Căn cứ vào điều 8 khoản 3 Bộ luật hình sự, Hãy phân loại tội phạm đối với tội giết người. Giải thích ? Hành vi đã thực hiện của A thuộc giai đoạn phạm tội nào ? Giải thích? Hãy chỉ ra đối tượng tác động của tội phạm và công cụ phạm tội trong vụ án. Giả sử rằng A mới chỉ đâm B một nhát. Thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết . B bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự không? Giải thích ? Giả sử rằng A đâm B liền ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống . Toà án tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù. Toà án quyết định hình phạt có đúng không ? Giải thích ? Giả sử rằng A là người nước ngoài. A đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. A có bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam không ? Giải thích ? Giải quyết vấn đề : Do đề bài chưa quy định rõ về A nên ta mặc nhiên thừa nhận A đã đầy đủ năng lực hành vi và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. 1./ Tội giết người được quy định tại điều 93 , ở khoản 1 là tội đặc biệt nghiêm trọng và khoản 2 là tội rất nghiêm trọng, bởi các lí do sau : Phân loại tội phạm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc quy định các nguyên tắc xử lý, quy định tuổi chịu trách nhiệm hình sự, thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự, thời hiệu thi hành bản án và các quy định khác về điều kiện áp dụng một số loại hình phạt hoặc biện pháp tư pháp. Phân loại tội phạm còn là cơ sở để cụ thể hoá trách nhiệm hình sự, quy định khung hình phạt, bảo đảm nguyên tắc cá thể hoá trách nhiệm hình sự và hình phạt. Ngoài ra, việc phân loại tội phạm còn có ý nghĩa đối với việc quy định một số chế đinh tạm giam, tạm giữ trong bộ luật tố tụng hình sự. Tội giết người là hành vi cố ý gây ra cái chết cho người khác một cách trái pháp luật. Tội này xâm phạm quyến sống của con người - quyền thiêng liêng bất khả xâm phạm. Mỗi khi hành vi giết người xảy ra đều gây đau thương tang tóc cho gia đình nạn nhân, phá vỡ tế bào của xã hội, gây mất trật tự trị an ở địa phương và tạo tâm lý hoang mang lo sợ cho quần chúng nhân dân. Vì vậy, đường lối xử lý của Nhà nước ta đối với tội giết người rất nghiêm khắc. Để phân loại tội phạm đối với tội giết người điều 93 Bộ luật hình sự năm 1999 (BLHS) ta phải căn cứ vào định nghĩa các nhóm tội phạm được quy định tại khoản 3 - điều 8 BLHS năm 1999 thì cần dựa vào 2 dấu hiệu về mặt: + Nội dung chính trị - xã hội ( tính nguy hiểm cho xã hội ) + Hậu quả pháp lý (tính chịu hình phạt) Trong 2 dấu hiệu này thì dấu hiệu về mặt nội dung chính trị xã hội quyết định dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý. Tội giết người được quy định tại điều 93 BLHS năm1999 như sau: “1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tug từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình: Giết nhiều người; Giết phụ nữ mà biết là có thai; Giết trẻ em; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại phạm một tội rất nghiêm trọng hoặc tội đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm. 3. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ một năm đến năm năm.” Khoản 3 Điều 8 BLHS năm 1999 quy định: “Tội phạm ít nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hiểm không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; tội phạm nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến bảy năm tù; tội phạm rất nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại rất lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến mười lăm năm tù; tội phạm đặc biệt nghiêm trọng là tội phạm gây nguy hại đặc biệt lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt là trên mười lăm năm tù, tù chung thân hoặc tử hình”. Xét về tính nguy hiểm cho xã hội : Hành vi phạm tội giết người là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội, xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ của công dân là một loại quan hệ nhân thân được Luật Hình Sự Việt Nam bảo vệ. Cụ thể ở đây tội giết người xâm phạm quyền sống của con người - quyền tự nhiên, thiêng liêng bất khả xâm phạm. Theo khoản 1 điều 93 thì người nào giết người có các tình tiết định khung tăng nặng như: “giết nhiều người, giết phụ nữ mà biết là có thai; giết trẻ em; giết ông bà, cha mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình…….”. Hành vi giết người ở đây không chỉ xâm hại đến tính mạng con người mà đồng thời còn xâm phạm đặc biệt nghiêm trọng đến trật tự công cộng, cản trở hoạt động chung xã hội, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an. Các đối tượng tác động tội này theo như khoản này đã nêu đều là những đối tượng đặc biệt, có quan hệ đặc biệt với người phạm tội ; cách thực hiện tội phạm một cách man rợ, dã man, đặc biệt tàn ác. Điều đó cho thấy hành vi giết người thuộc khoản này gây nguy hại đặc biệt nghiêm trọng cho xã hội. Khoản 2 điều 93 quy định phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1. Tức là khoản này được áp dụng cho trường hợp giết người không có tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại khoản 1, tính chất gây nguy hiểm cho xã hội đã được giảm bớt hơn – mức độ gây nguy hiểm rất nghiêm trọng cho xã hội Xét về hậu quả pháp lý : Sự xác định dấu hiệu về mặt hậu quả pháp lý biểu hiện ở mức cao nhất của khung hình phạt. Tuy nhiên đó chỉ là kết quả của quá trình đánh giá đầy đủ và toàn diện của các nhà làm luật về sự cần thiết khách quan của các biện pháp TNHS đối với những hành vi phạm tội có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau. Nhận thấy: Tại khoản 1 điều 93 có mức hình phạt tù cao nhất của khung hình phạt này là đến hai mươi năm, tù chung thân, tử hình và đây là mức hình phạt dành cho tội đặc biệt nghiêm trọng. Đối với khoản 2 điều 93 có mức hình phạt tù cao nhất của khung này là đến mười lăm năm tù - mức hình phạt dành cho tội rất nghiêm trọng. Còn lại khoản 3 là khoản quy định hình phạt bổ sung với tội giết người. Như vậy, từ những phân tích trên ta có thể kết luận khẳng định về việc phân loại tội phạm đối với tội giết người - điều 93 ở trên là đúng. 2./ Hành vi đã thực hiện của A thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành, bởi vì : A đã có ý định dùng dao để đâm B. A nhận thức rõ hành vi của mình là gây nguy hiểm cho B, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn cho hậu quả xảy ra. Vì vậy, lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp. Theo luật hình sự Việt Nam, vấn đề các giai đoạn thực hiện tội phạm chỉ đặt ra đối với tội cố ý trực tiếp nên vấn đề xác định hành vi mà A đã thực hiện thuộc giai đoạn phạm tội nào được đặt ra. Các giai đoạn thực hiện tội phạm là các mức độ thực hiện tội phạm cố ý, bao gồm chuẩn bị phạm tội, phạt tội chưa đạt và phạm tội hoàn thành. Căn cứ vào điều 18 BLHS quy định: “ Phạm tội chưa đạt là cố ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Người phạm tội chưa đạt phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt”. Phạm tội chưa đạt đã hoàn thành là trường hợp phạm tội chưa đạt, trong đó người phạm tội đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà họ cho là cần thiết để gây ra hậu quả, nhưng vì nguyên nhân khách quan mà hậu quả đó đã không xảy ra (chưa đạt về hậu quả, hoàn thành về hành vi). Hành vi đã thực hiện của A thể hiện đầy đủ 3 dấu hiệu của giai đoạn phạm tội chuă đạt đã hoàn thành như sau: +) A đã bắt đầu thực hiện việc phạm tội tức là A đã thực hiện hành vi khách quan được mô tả trong cấu thành tội phạm (CTTP). Ở đây, A có ý định thực hiện giết B, nên đã rút dao đâm B liền ba nhát. Thời điểm bắt đầu phạm tội là lúc mà A rút dao ra để đâm B. A tưởng rằng B đã chết nên bỏ đi. Xét thấy A đã thực hiện đầy đủ những hành vi mà A cho rằng là cần thiết để làm cho B chết làm thoả mãn mong muốn của mình vì ghen tuông. +) Người phạm tội đã không thực hiện được tội phạm đến cùng (về mặt pháp lý), tức là hành vi của A chưa thoả mãn hết các dấu hiệu thuộc mặt khách quan của CTTP. Điều đó thể hiện ở chỗ : hậu quả phạm tội đã xảy ra nhưng không phải là hậu quả mà A mong muốn. A muốn đâm chết B nhưng B đã không chết do được cứu sống kịp thời. +) Người phạm tội - A không thực hiện tội phạm được đến cùng là do những nguyên nhân ngoài ý muốn của A. Bản thân A vẫn muốn thực hiện tội phạm đến cùng (hoàn thành) nhưng tội phạm không hoàn thành là do : B đã được phát hiện và cấp cứu kịp thời. Trong vụ án này, A chưa đạt về hậu quả nhưng đã hoàn thành về hành vi. Hành vi mà A đã thực hiện thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu của giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Vì vậy, hành vi của A đã thực hiện thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. 3./ * Đối tượng tác động của tội phạm trong vụ án trên là con người đang sống - cụ thể là B, bởi các nguyên nhân sau Trước tiên ta cần tìm hiểu thế nào là đối tượng tác động : Đối tượng tác động của tội phạm là bộ phận khách thể của tội phạm, bị hành vi phạm tội tác động đến để gây thiệt hại hoặc đe doạ gây thiệt hại cho những quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Đối tượng tác động của tội phạm gồm 3 loại: - Con người : Tội phạm làm biến đổi về tình trạng bình thường của con người thì đối tượng tác động là con người. - Các đối tượng vật chất: Tội phạm làm biến đổi tình trạng bình thường của tài sản một cách trái phép, gây thiệt hại đến quan hệ sở hữu. - Hoạt động bình thường của chủ thể : Tội phạm làm biến dạng xử sự của người khác hoặc của chính mình thì đối tượng tác động chính là hoạt động bình thường của chủ thể. Trong trường hợp này, A đã thực hiện hành vi giết người xâm phạm quyền sống của con người thông qua sự tác động làm biến đổi tình trạng bình thường của đối tượng tác động – con người đang sống, cụ thể là B. Những hành vi đó của A có thể tước đoạt tính mạng, gây tổn hại đến sức khoẻ của B. Vì vậy, đối tượng tác động của tội phạm trong trường hợp này là con người, cụ thể là B còn quyền sống của B là khách thể của tội phạm này. * Công cụ phạm tội mà A đã sử dụng để thực hiện tội phạm là dao Công cụ phạm tội là những đối tượng được chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội. Ở trong trường hợp này, A đã sử dụng dao để đâm vào B, nên công cụ phạm tội trong vụ án này là con dao mà A đã chuẩn bị sẵn. Trong tổng số các công cụ phương tiện được người phạm tội sử dụng thì dao là công cụ vừa dễ có (do dễ mua, dễ mượn, dễ lấy được, tìm được…) vừa dễ giấu, vừa dễ sử dụng lại vừa dễ gây ra hậu quả chết người. Đây có thể được coi là nét đặc thù của tội phạm giết người ở Việt Nam. Bởi lẽ theo các nghiên cứu tình hình tội phạm giết người ở Nhật, Mỹ và các nước Châu âu cho thấy số vụ giết người bằng súng chiếm tỷ lệ cao hơn số vụ giết người bằng dao. 4./ Giả sử rằng A mới chỉ đâm B một nhát. Thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết . B bị thương tích với tỷ lệ thương tật là 21%. A có phải chịu trách nhiệm hình sự bởi lẽ: Trong trường hợp này A đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, tức là A đã tự kiềm chế để không thực hiện việc đâm chết B tuy không có gì ngăn cản. Do thấy B bị thương, máu ra nhiều, A sợ quá bỏ đi không tiếp tục đâm B đến chết. Lúc này A không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội của mình cho dù không có gì ngăn cản. Sau đó A bỏ đi, đến đây A mới chỉ gây ra thương tích cho B chứ chưa làm B chết. Hành vi của A đã thực hiện thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Vì nguyên nhân khách quan A chưa thực hiện hết hành vi cần thiết để gây ra hậu quả nên hậu quả đã không xảy ra. Hành vi tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội chỉ có thể xảy ra trong giai đoạn chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành. Còn ở những giai đoạn khác, không thể có trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội mà chỉ có thể là tự ý chấm dứt việc phạm tội. Bởi ở giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành và giai đoạn tội phạm hoàn thành, người phạm tội đã thực hiện đầy đủ các dấu hiệu thuộc mặt khách quan và chủ quan của tội phạm. Việc A tự ý nửa chừng chấm dứt chấm dứt không đâm chết B hoàn toàn do động lực bên trong của A thúc đẩy A chấm dứt việc đâm chết B chứ không phải do trở ngại khách quan bên ngoài chi phối làm A không tiếp tục phạm tội. Sự tự ý nửa chừng chấm dứt của A là hoàn toàn tự nguyện và dứt khoát mặc dù biết rằng mình hoàn toàn có khả năng thực hiện tội phạm đến cùng trong khi không có gì ngăn cản A tiếp tục phạm tội. Từ những phân tích trên ta thấy A đã tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội. Căn cứ vào điều 19: “Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có gì ngăn cản. Người tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được miễn trách nhiệm hình sự về tội định phạm; nếu hành vi thực tế đã thực hiện có đủ yếu tố cấu thành của một tội khác, thì người đó phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này.” Như vậy, A sẽ được miễn chịu trách nhiệm hình sự về tội định phạm, đó là tội giết người. Tuy nhiên, hành vi của A đã thực hiện trên thực tế đã có đủ các yếu tố để cấu thành tội phạm độc lập. Đó là tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác (điều 104 BLHS). Xét các yếu tố cấu thành tội cố ý gây thương tích của A đã thực hiện: Mặt chủ thể : Do đề bài không quy định rõ về A nên ta mặc nhiên thừa nhận A đã có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định. Chủ thể của tội này chính là A. Mặt khách thể : Khách thể của tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khoẻ. Hành vi của A đã xâm phạm đến quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khoẻ của B.Và ở đây A đã gây thương tích cho B. Mặt khách quan : + Hành vi đâm B của A là hành vi có khả năng gây ra thương tích hoặc tổn thương khác là tổn hại đến sức khoẻ của B. Mà công cụ A đã sử dụng trực tiếp là dao (hung khí có chứa đựng khả năng gây thương tích cho người khác). + Hậu quả : A đã có hành vi gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 21%. Dấu hiệu hậu quả gây thương tích luôn là dấu hiệu bắt buộc của tội này. + Mối quan hệ nhân quả : Hành vi đâm và hậu quả là gây thương tích cho B với tỷ lệ thương tật là 21% phải có mối quan hệ nhân quả với nhau. B bị thương tích, tổn hại cho sức khoẻ do chính hành vi đâm của A gây ra. Đây là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Mặt chủ quan : Hành vi của A đã thực hiện do cố ý tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của B. Mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. So với tội giết người, thì sự cố ý ở đây có mức độ nguy hiểm thấp hơn vì A chỉ mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn nạn nhân chết. A đã có đầy đủ năng lực và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự Từ các lí lẽ trên và căn cứ vào điều 19, điều 104 ta có thể kết luận A phải chịu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích. 5./ Giả sử rằng A đâm B liền ba nhát. Tưởng rằng B đã chết, A bỏ đi. Do được phát hiện và cấp cứu kịp thời, B đã được cứu sống . Toà án tuyên hình phạt đối với A là 13 năm tù. Theo quan điểm của cá nhân thì Toà án quyết định hình phạt trên là sai, bởi : Theo như sự phân tích ở câu 2 ở trên thì A phạm tội thuộc giai đoạn phạm tội chưa đạt đã hoàn thành. Căn cứ vào khoản 3 - điều 52 BLHS năm 1999: “Đối với trường hợp phạm tội chưa đạt,.................nếu là mức tù có thời hạn thì mức hình phạt không quá ba phần tư mức phạt tù mà điều luật quy định.”. Nên A sẽ phải chịu mức hình phạt không quá 3/4 mức phạt tù mà điều luật A phải chịu quy định. Theo đề bài, toà án xác định A phạm tội giết người theo khoản 2 điều 93 BLHS năm 1999 : “ Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 điều này, thì bị phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.” . Suy ra A có thể chịu mức phạt tù trong khoảng từ 7 năm đến 15 năm. Từ những căn cứ trên ta thấy, Toà án quyết định hình phạt cụ thể đối với A phải chịu mức hình phạt tù không quá 11 năm 3 tháng tù (3/4 của 15 năm ). Xét thấy 13 năm tù >11năm 3 tháng nên không nằm cho giới hạn cho phép trên vì vậy ta có thể kết luận Toà án quyết định hình phạt với A là sai. 6./ Giả sử rằng A là người nước ngoài. A đang là nhân viên làm thuê cho một công ty liên doanh ở Hà Nội. Hành vi nói trên của A xảy ra trên lãnh thổ Việt Nam. Về nguyên tắc A có bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam ngoại trừ trường hợp A là đối tượng được hưởng đặc miễn ngoại giao. Thứ nhất, A đã có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Thứ hai, hành vi của A được thực hiện một cách có ý thức mặc dù trong trường hợp này A không chịu bất kỳ một áp lực tinh thần nào và có thể lựa chọn cách giải quyết khác phù hợp với yêu cầu của xã hội. Căn cứ vào tình tiết xảy ra thì hành vi của A đã gây nguy hại lớn cho xã hội, cụ thể hơn đó là xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của công dân ( công dân B). Đó là quan hệ xã hội được pháp luật hình sự quy định được bảo vệ ( căn cứ khoản 1 điều 8 BLHS 1999: “Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong bộ luật hình sự,…………, xâm phạm tính mạng, sức khoẻ của công dân…..” ). Nên hành vi của A đã đủ bị coi là tội phạm. A được toà án xác định là phạm tội giết người theo khoản 2 điều 93 BLHS 1999, theo đó A phải bị xử lý. Mặt khác, theo điều 5 BLHS 1999 có quy định: “ Hiệu lực của BLHS đối với những hành vi phạm tội trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam BLHS được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.”. Vì những lẽ trên ta nhận thấy, trong tình huống này A là người nước ngoài đang cư trú và làm việc trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (A đang làm việc cho một công ty liên doanh tại Hà Nội). Nhưng A đã có hành vi giết người như đã nói ở trên nên A có bị xử lý theo luật hình sự Việt Nam trừ trường hợp A là người thuộc đối tượng được hưởng đặc miễn ngoại giao. Như vậy, A sẽ bị xử lý theo khoản 2 - điều 93 BLHS năm 1999. * Trường hợp A là người thuộc đối tượng được hưởng đặc miễn ngoại giao thì hành vi của A vẫn bị coi là phạm tội. Giả sử A là thành viên trong gia đình có người được hưởng đặc miễn ngoại giao (ví dụ: A có vợ là người đứng đầu cơ quan ngoại giao của một nước nào đó…..). A đi cùng người đó đến Việt Nam công tác và đã có hành vi phạm tội giết người như trên. Theo công ước Viên năm 1961; 1963; Pháp lệnh về quyền ưu đãi và miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan đại diện các tổ chức quốc tế tại Việt Nam; Pháp lệnh lãnh sự của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1990. Và căn cứ theo khoản 2 điều 5 BLHS 1999 thì vấn đề trách nhiệm hình sự của A sẽ được giải quyết theo con đường ngoại giao. Khoản 2- điều 5 BLHS1999: “ Đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thuộc đối tượng được hưởng các quyền miễn trừ ngoại giao hoặc quyền ưu đãi và miễn trừ lãnh sự theo pháp luật Việt Nam, theo các điều ước quốc tế mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký kết hoặc tham gia hoặc theo tập quán quốc tế, thì vấn đề trách nhiệm hình sự của họ được giải quyết theo con đường ngoại giao.” A có thể bị xử lý theo pháp luật của nhà nước mà A mang quốc tịch. Và nếu các điều ước quốc tế c
Luận văn liên quan