Bài tập hình sự học kỳ về tội cướp tài sản

Trên đường đi uống rượu về; H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng; H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết; chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q: 1. H và Q phạm tội cướp tài sản 2. H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản 3. H và Q phạm tội trộm cắp tài sản Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào là đúng; ý kiến nào là sai và giải thích?

doc7 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4733 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập hình sự học kỳ về tội cướp tài sản, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tình huống: Trên đường đi uống rượu về; H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng; H và Q lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng. Gần sáng cơn say hết; chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an. Về vụ án này có các ý kiến sau đây về tội danh của H và Q: H và Q phạm tội cướp tài sản H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản H và Q phạm tội trộm cắp tài sản Anh (chị) hãy xác định ý kiến nào là đúng; ý kiến nào là sai và giải thích? Bài làm: * Chủ thể: Giả sử; H và Q thỏa mãn đầy đủ dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định thì ta có xét thấy rằng H và Q phải chịu trách nhiệm về hành vi trái pháp luật do mình gây ra theo quy định của BLHS1999. *Mặt chủ quan: Ở đây xác định rằng H và Q đã lợi dụng lúc chị B không ý thức được mà thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản tức là H và Q đã cố ý thực hiện hành vi phạm tội. Hơn nữa khi thực hiện hành vi H và Q hoàn toàn có thể thấy trước được hậu quả xảy ra thậm chí mong muốn nó xảy ra hay nói cách khác người phạm tội nhận thức rõ tính chất nguy hiểm cho xã hội. Mục đích hành vi của H và Q đã được xác định là nhằm chiếm đoạt tài sản; nó thể hiện qua hậu quả đã xảy ra. Vậy lỗi của A là lỗi cố ý trực tiếp. * Mặt khách quan: Căn cứ vào hành vi của H và Q là “H và Q phát hiện chị B cùng với hai người bạn đang say rượu nằm mê mệt bên lề đường. Thấy chị B đeo nhiều nữ trang bằng vàng; H và Q lấy đi toàn bộ tài sản...” ta có thể xét được những điểm sau: Thứ nhất; nếu ta xác định hành vi của H và Q phạm tội cướp tài sản theo quy định tại Điều 133 BLHS “ Người nào dùng vũ lực; đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc có hành vi khác làm cho người khác bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhắm chiếm đoạt tài sản...” thì: Theo như quy định của pháp luật hành vi của người phạm tội cướp tài sản là bắt buộc phải thuộc một trong 3 hành vi là dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc hoặc làm cho người khác bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được nhằm chiếm đoạt tài sản thì mới được coi là cướp tài sản. Hay nói cách khác hành vi của H và Q phải thuộc một trong ba hành vi đã được mô tả ở trên mới có thể xác định H và Q phạm tội cướp tài sản. Ở đây; H và Q thấy chị B nằm mê mệt mới tới lấy tài sản; như vậy ta xác định được: - Hành vi của H và Q không phải là hành vi dùng vũ lực vì hành vi dùng vũ lực là hành vi mà người phạm tội đã thực hiện tác động vào cơ thể của nạn nhân như: đấm đá; bóp cổ; trói.... - Hành vi của H và Q cũng không phải là hành vi đe dọa dùng vũ lực vì hành vi đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là hành vi dùng lời nói hoặc hành động đe dọa người bị hại nếu không đưa tài sản thì sẽ dùng vũ lực ngay tức là người bị hại có thể lực chọn hai hình thức bị dùng vũ lực hay không bị dùng vũ lực. Tuy nhiên trong trường hợp này chị B lại ngủ mê mệt trước khi H và Q có hành vi đe dọa. - Tiếp nữa; khi xem xét dạng hành vi khách quan thứ ba của tội cướp tài sản là hành vi làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được ta thấy hành vi ở dạng này tuy không phải là dùng vũ lực cũng như không phải là lời đe dọa nhưng có khả năng như những hành vi đó – khả năng làm cho người bị tấn công không thể ngăn cản được việc chiếm đoạt. Hành vi đầu độc; hành vi dùng thuốc gây mê là những ví dụ thuộc dạng hành vi này. Căn cứ vào đó ta cũng xác định được rằng hành vi của H và Q cũng không phải là làm cho người bị tấn công lâm vào tình trạng không thể chống cự được. Như vậy; ý kiến thứ nhất cho rằng H và Q phạm tội cướp tài sản là hoàn toàn sai. Thứ hai; nếu ta xác định H và Q trong trường hợp này phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản theo quy định tại Điều 137 BLHS 1999: “Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là lợi dụng chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản công nhiên chiếm đoạt tài sản của họ” thì hành vi của H và Q phải mang những đặc điểm là: có tính chất công khai và việc công khai đó nó xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản. Về phía người phạm tội cũng không dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực hay uy hiếp tinh thần nạn nhân hay nhanh chóng chiếm đoạt và nhanh chóng lẩn tránh. Trong tình huống trên hành vi của H và Q đã thỏa mãn đặc điểm thứ hai đó là việc chiếm đoạt tài sản xảy ra trong hoàn cảnh người chủ tài sản không có điều kiện ngăn cản. Như vậy; ta cần xem xét việc hành vi của H và Q có tính chất công khai hay không để thỏa mãn dấu hiệu của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Dấu hiệu công khai vừa chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt vừa thể hiện ý thức chủ quan của người phạm tội. Hành vi chiếm đoạt được coi là có tính chất công khai nếu hình thức thực hiện cho phép chủ tài sản có khả năng biết ngay khi thực hiện hành vi này xảy ra. Ý thức công khai của người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt có nghĩa: Người phạm tội biết hành vi chiếm đoạt của mình có tính chất công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó. Trong tình huống này; H và Q không hề có ý định công khai hành vi chiếm đoạt của mình ra ngoài bởi lúc H và Q thực hiện hành vi là lúc chị B nằm mê mệt; tức bản thân chị B không hề biết rằng có người lấy tài sản của mình. Điều này được chứng minh qua việc tới tận “Gần sáng cơn say hết; chị B tỉnh giấc mới biết mình bị mất tài sản và đi báo công an” tức là đến khi hành vi chiếm đoạt tài sản hoàn thành một thời gian chị B phát hiện ra. Như vậy; ý kiến thứ hai cho rằng H và Q phạm tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là sai. Thứ ba; nếu ta xác định hành vi của H và Q phạm tội trộm cắp tài sản; ta sẽ thấy; hành vi của H và Q thỏa mãn các dấu hiệu sau đây: - Theo quy định của điều 138 BLHS về tội trộm cắp tài sản thì tội trộm cắp tái sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ và thuộc một trong các trường hợp sau: + Tài sản trộm cắp có giá trị từ 500.000 đồng trở lên + Gây hậu quả nghiêm trọng + Đã bị xử phạt hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản + Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản và chưa được xóa án tích Ở đây; H và Q đã “lấy toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng” của chị B tức là đã thuộc một trong các trường hợp được xét đến trong tội trộm cắp tài sản. - H và Q đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản: Với việc “lấy đi toàn bộ tài sản trị giá 10 triệu đồng”, H và Q đã dịch chuyển trái pháp luật tài sản đang thuộc sự quản lý của người khác thành tài sản của mình. Hành vi trộm cắp tài sản không chỉ cần có dấu hiệu hành vi chiếm đoạt mà còn cần xét đến tính chất của hành vi - tính chất lén lút. Hành vi chiếm đoạt được coi là lén lút nếu được thực hiện bằng hình thức mà có khả năng không cho phép chủ tài sản biết có hành vi chiếm đoạt khi hành vi này xảy ra. Ý thức chủ quan của người phạm tội là lén lút nếu khi thực hiện hành vi chiếm đoạt người có hành vi trộm cắp có ý thức che giấu hành vi đang thực hiện của mình. Việc che giấu hành vi trộm cắp này chỉ đòi hỏi bắt buộc đối với chủ tài sản. Còn đối với những người khác, ý thức chủ quan của người có hành vi trộm cắp vẫn có thể là công khai, không cần thiết phải che giấu mà vẫn đạt được mục đích chiếm đoạt tài sản. Ở đây, H và Q nhìn thấy B nằm mê mệt và thấy B có nhiều đồ trang sức mới thực hiện hành vi chiếm đoạt tức là đã thể hiện ý định che giấu hành vi chiếm đoạt tài sản của mình, lại trong thời điểm đêm tối nên hành vi của A cũng khó có thể bị những người xung quanh phát hiện được, cho nên hành vi của H và Q có tính chất lén lút đối với chủ tài sản là chị B và có thể là lén lút cả đối với những người xung quanh. - Thứ nữa, tài sản H và Q chiếm đoạt là tài sản đang có chủ. Hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản ở tội trộm cắp phải là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có chủ. Hành vi lấy tài sản của mình hoặc đang do mình quản lý cũng như hành vi lấy tài sản không có hoặc chưa có chủ đều không phải là hành vi trộm cắp. Tài sản đang có chủ là tài sản đang ở trong sự chiếm hữu của người khác (đang nằm trong sự chi phối về mặt thực tế của chủ tài sản hoặc người có trách nhiệm) hoặc tài sản đó còn trong khu vực quản lý, bảo quản của chủ tài sản. Các tài sản mà H và Q chiếm đoạt ở đây được xác định là vẫn thuộc quyền sở hữu của chị B. Như vậy; hành vi của H và Q đã thỏa mãn hai dấu hiệu pháp lý bắt buộc của tội trộm cắp tài sản. Từ những phân tích trên ý kiến thứ ba cho rằng H và Q phạm tội trộm cắp tài sản theo quy định của Điều 138 BLHS 1999 là đúng. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình “Luật hình sự Việt nam” tập 2 – Trường đại học luật Hà Nội – NXB CAND Luật hình sự năm 1999