Bài tập lớn luật dân sự 1- Hình thức của di chúc

Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc còn được gọi là chúc thư do cá nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người còn sống khác. Hình thức của di chúc cũng cần phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Hình thức di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại tài sản ra bên ngoài thế giới khách quan, là sự chứa đựng nội dung của di chúc theo một trình tự kết cấu nhất định. Vì vậy hình thức của di chúc là một phần rất cơ bản và quan trọng trong việc thừa kế theo di chúc, nếu hình thức của di chúc không tuân thủ đúng những điều kiện có hiệu lực được quy định trong luật thì di chúc được xem là vô hiệu và không có bất kì một giá trị nào về mặt pháp lý. Bởi lý do đó, việc nghiên cứu về hình thức của di chúc là rất quan trọng, sẽ giúp cá nhân hiểu rõ và có thể chọn cho mình một hình thức để lại di chúc phù hợp, nhờ đó thực hiện được đầy đủ quyền sở hữu, định đoạt đối với tài sản của mình ngay cả khi đã chết.

doc18 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2616 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập lớn luật dân sự 1- Hình thức của di chúc, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục Trang LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………….1 NỘI DUNG………………………………………………………………….1 Lí luận chung về di chúc và hình thức của di chúc………………………1 di chúc…………………………………………………………………….1 khái niệm………………………………………………………………….1 Điều kiện của di chúc……………………………………………...……...2 Hình thức của di chúc………………………………………………….4 Hình thức di chúc theo quy định của BLDS 2005………………………...….4 di chúc bằng văn bản…………………………………………………...…...4 Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng( điều 655)………….....7 di chúc bằng văn bản có người làm chứng ( Điều 656) …………..………8 Di chúc có công chứng hoặc chứng thực của UBND xã phường thị trấn...9 Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng chứng thực (điều 660)…………………………………………………………..………9 Di chúc miệng ( điều 651, khoản 5 điều 652)……………………………11 thực tiễn áp dụng……………………………………………………………13 Phương hướng hoàn thiện…………………………………………………..15 hoàn thiện các quy định của pháp luật……………………………………15 Tuyên truyền, phổ biến kiến thức về pháp luật…………………………..16 KẾT THÚC VẤN ĐỀ……………………………………………………….16 Danh mục tài liệu tham khảo……………………………………………………17 LỜI MỞ ĐẦU Điều 664 Bộ luật Dân sự năm 2005 quy định: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Di chúc còn được gọi là chúc thư do cá nhân còn sống tự nguyện lập ra với mục đích dịch chuyển tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho người còn sống khác. Hình thức của di chúc cũng cần phải tuân thủ theo những quy định của pháp luật. Hình thức di chúc là sự thể hiện ý chí của người để lại tài sản ra bên ngoài thế giới khách quan, là sự chứa đựng nội dung của di chúc theo một trình tự kết cấu nhất định. Vì vậy hình thức của di chúc là một phần rất cơ bản và quan trọng trong việc thừa kế theo di chúc, nếu hình thức của di chúc không tuân thủ đúng những điều kiện có hiệu lực được quy định trong luật thì di chúc được xem là vô hiệu và không có bất kì một giá trị nào về mặt pháp lý. Bởi lý do đó, việc nghiên cứu về hình thức của di chúc là rất quan trọng, sẽ giúp cá nhân hiểu rõ và có thể chọn cho mình một hình thức để lại di chúc phù hợp, nhờ đó thực hiện được đầy đủ quyền sở hữu, định đoạt đối với tài sản của mình ngay cả khi đã chết. NỘI DUNG 1.Lí luận chung về di chúc và hình thức của di chúc 1.1.di chúc 1.1.1.khái niệm Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết. Theo quy định này thì di chúc phải có các yếu tố sau: Đó là sự thể hiện ý chí của cá nhân mà không phải là của bất cứ chủ thể nào khác. Mục đích của việc lập di chúc là việc chuyển tài sản là di sản của mình cho người khác Chỉ có hiệu lực sau khi người đó chết. Di chúc là hành vi pháp lí đơn phương của người lập di chúc, do đó di chúc phải tuân thủ các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nói chung và điều kiện có hiệu lực của di chúc nói riêng. Vì vậy, một người muốn định đoạt tài sản của mình bằng di chúc cần phải tuân theo các quy định của pháp luật về thừa kế theo di chúc. Thừa kế theo di chúc là sự chuyển dịch tài sản của người đã chết cho người khác còn sống theo quyết định của người đó trước khi chết được thể hiện trong di chúc. Nội dung cơ bản của thừa kế theo di chúc là chỉ định người thừa kế ( cá nhân, tổ chức ) và phân định tài sản và quyền tài sản cho họ, giao cho họ nghĩa vụ tài sản…. 1.1.2.Điều kiện của di chúc. Về người lập di chúc Theo quy định tại Điều 647 BLDS 2005, người để lại di sản phải đảm bảo các điều kiện sau: Trước hết, người để lại di sản phải là người đã thành niên, không mắc các bệnh tâm thần hoặc bệnh nào khác mà không thể nhận thức được và không thể làm chủ hành vi của mình. Theo như Điều 18 bộ luật này người thì người thành niên là người đủ 18 tuổi trở lên. Người tuy chưa đủ 18 tuổi nhưng đã đủ 15 tuổi cũng có thể được lập di chúc với điều kiện phải có sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ vào việc lập di chúc. Đây là quy định phù hợp, đúng tinh thần như Bộ luật lao động về độ tuổi tối thiểu có thể tham gia lao động là 15 tuổi trở lên. Người từ đủ 15 tuổi trở lên có thể có tài sản riêng, bởi vậy họ có quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên, vì người 15 tuổi trở lên và chưa đủ 18 tuổi là người chưa thành niên, để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người chưa thành niên, pháp luật quy định việc lạp di chúc phải được sự đồng ý của cha mẹ hoặc người giám hộ về việc lập di chúc. Người bị hạn chế về thể chất hoặc người không biết chữ nhưng đã thành niên cũng có quyền lập di chúc,. Tuy nhiên, việc lập di chúc của đối tượng này phải được người làm chứng lập thành văn bản và có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng thực của Uỷ ban xã, phường, thị trấn. Tiếp theo, ngưòi để lại di sản khi lập di chúc chỉ được phép định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, quyền sử dụng hợp pháp (là quyền sử dụng đất..), một phần trong khối tài sản chung với đồng chủ sở hữu khác. Di chúc hợp pháp. Theo điều 652 BLDS thì di chúc được coi là hợp pháp khi có đủ các điều kiện sau đây: Thứ nhất, người để lại di sản lập di chúc phải ở trong tình trạng minh mẫn, sáng suốt; không bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép. Lập di chúc là hành vi của chủ sở hữu (chủ sử dụng tài sản) định đoạt tài sản của mình nên họ phải nhận thức được hành vi đó, không một ai có quyền điều khiển hay ép buộc họ làm theo ý chí của người khác. Thứ hai, nội dung của di chúc không trái với pháp luật, không đúng với lợi ích của xã hội. ý chí của người lập di chúc phải phù hợp với ý chi của Nhà nước, đạo đức xã hội, tuân thủ các quy định tại điểm 3 điều 8 BLDS. Vi phạm các điều đó, di chúc sẽ bị vô hiệu. Thứ ba, hình thức của di chúc không được trái với quy định của pháp luật. Như đã nêu thì di chúc của người chưa thành niên thì phải có sự đồng ý cuả cha mẹ hoặc ngời giám hộ. Về di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải có người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng, chứng thực. Di chúc miệng chỉ được coi là hợp pháp nếu người ngời lập di chú miệng thể hiện ý chí của mình trước ít nhất hai người làm chứng, ngưòi làm chứng phải ghi rõ đầy đủ nội dung của di chúc này và cùng ký tên; đồng thời bản di chúc phải được công chứng, chứng thực trong thời hạn năm ngày kể từ ngày người lập di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng. Người làm chứng. Điều 654, Bộ luật dân sự 2005 quy định về điều kiện của người làm chứng như sau: “Mọi người đều có thể là chứng cho việc lập di chúc, trừ những trường hợp sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan tới nội dung của di chúc; Người chưa đủ mười tám tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự. Đây là một quy định nhằm đảm bao sự công bằng, khách quan, tính chính xác và nội dung đầy đủ của di chúc. 1.2.Hình thức của di chúc Hình thức của di chúc là phương thức biểu hiện lí trí của người lập di chúc ( nội dung của di chúc) là căn cứ pháp lí làm phát sinh quan hệ thừa kế theo di chúc, là căn cứ để bảo vệ quyền lợi cho người được chỉ định trong di chúc. Vì vậy di chúc phải được lập dưới một hình thức nhất định. Pháp luật quy định có 2 loại hình thức Hình thức văn bản: là loại di chúc được thể hiện dưới dạng chữ viết ( viết tay, đánh máy, in ) có chứng nhận hoặc không có chứng nhận của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Hình thức miệng: toàn bộ ý chí của người lập di chúc thể hiện bằng lời nói 2.Hình thức di chúc theo quy định của BLDS 2005 2.1.di chúc bằng văn bản Theo quy định của pháp luật, tất cả các di chúc được thể hiện bằng hình thức văn bản phải đáp ứng các yêu cầu chung về nội dung, đồng thời mỗi hình thức cụ thể của di chúc viết phải tuân theo một trình tự tương ứng. Để bản di chúc thể hiện dưới hình thức bằng văn bản có hiệu lực pháp luật là cơ sở pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích cho các chủ thể, người lập di chúc cần phải đáp ứng các yêu cầu về nội dung đối với mọi di chúc viết như sau: - di chúc phải ghi rõ ngày, tháng, năm lập di chúc Đây là một nội dung hết sức quan trọng và có ý nghĩa thiết thực trong việc xác định tính hiệu lực của di chúc, vì thông qua ngày, tháng, năm lập di chúc sẽ xác định được tại thời điểm đó người lập di chúc có năng lực hành vi dân sự, minh mẫn, sáng suốt hay không… Mặt khác, trong trường hợp người quá cố để lại nhiều bản di chúc thì sẽ căn cứ vào ngày tháng năm trong di chúc để chúng ta xác định đâu là biểu hiện ý chí sau cùng của người chết và là di chúc có hiệu lực pháp luật. Vì theo quy định tại khoản 5 điều 667 BLDS thì “khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực pháp luật” do vậy tất cả những bản di chúc lập trước đều bị hủy bỏ. Bản di chúc sau cùng thể hiện ý chí sau cùng mới có hiệu lực pháp luật. di chúc phải ghi rõ họ tên, nơi cư trú của người lập di chúc Theo quy định của pháp luật thì địa điểm mở thừa kế, thẩm quyền giải quyết của Tòa án khi có tranh chấp đều được xác định thông qua nơi cư trú của người lập di chúc do đó di chúc phải xác định rõ nơi cư trú của người lập di chúc là một yêu cầu quan trọng. Hơn nữa do di chúc là sự thể hiện ý chí đơn phương của một bên chủ thể trong một giao dịch dân sự nên cần phải ghi rõ họ tên đầy đủ của người thể hiện ý chí đó. di chúc phải ghi rõ họ, tên người, tên cơ quan, tổ chức được hưởng di sản Khác với những người hưởng thừa kế theo pháp luật là những người nằm trong diện, hàng thừa kế có quan hệ huyết thống, quan hệ nuôi dưỡng theo quy định của pháp luật trong khi những người được hưởng thừa kế theo di chúc lại không bị giới hạn phạm vi như trên. Những người được hưởng thừa kế theo di chúc cũng có thể là tổ chức, cá nhân bất kì, bằng ý chí của mình lập di chúc có thể định đoạt cho bất kì ai hưởng di sản của mình. di chúc phải ghi rõ di sản và nơi có di sản Di sản thừa kế chỉ là những di sản thuộc sở hữu của người chết, và chỉ với những tài sản thuộc sở hữu của mình thì người lập di chuc mới định đoạt người thừa kế. Do vậy nếu di sản được ghi rõ ràng trong di chú sẽ giúp chúng ta xác định được người lập di chúc họ có những tài sản nào và được phân định ra sao. Ngoài ra, theo quy định tại khoản 2 điều 633 BLDS có quy định: “… nếu không xác định được nơi cư trú cuối cùng thì địa điểm mở thừa kế là nới có toàn bộ hoặc phần lớn di sản” nên việc ghi rõ nơi có di sản là rất cần thiết, hơn nữa nhờ vào địa điểm ghi trong di sản mà những người được thừa kế dễ dàng xác định được địa điểm tồn tại của di sản sau khi người lập di chúc chết. di chúc phải ghi rõ việc chỉ định người thực hiện nghĩa vụ và nội dung của nghĩa vụ Theo nguyên tắc chung, tất cả những người hưởng di sản thừa kế đều phải thực hiện nghĩa vụ về tài sản do người chết để lại trên cơ sở tương ứng với kỉ phần tài sản mà họ được hưởng. Ngoài ra việc giao nghĩa vụ cho những người thừa kế là một trong những quyền định đoạt của người lập di chúc. Vì vậy trong di chúc, người lập di chúc có thể giao nghĩa vụ riêng cho từng người được hưởng thừa kế để họ thực hiện, người lập di chúc phải ghi rõ cơ quan cá nhân tổ chức nào thực hiện nghĩa vụ mà người chết để lại. Tuy nhiên nếu trong di chúc mà không có sự định đoạt nghĩa vụ riêng cho từng người thì tất cả những người hưởng thừa kế sẽ cùng nhau thực hiện nghĩa vụ mà người lập di chúc để lại. Di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu; nếu di chúc gồm nhiều trang thì mỗi trang phải được đánh số thứ tự và có chữ kí hoặc điểm chỉ của người lập di chúc. Do di chúc là sự thể hiện ý chí của người chết, vì vậy để di chúc được rõ ràng cụ thể, tránh sự tranh cãi giữa những người thừa kế về sau này thì người lập di chúc không được viết tắt hoặc viết bằng kí hiệu để biểu đạt ý chí của mình. Ngoài ra pháp luật còn quy định để đảm bảo tính khách quan và chính xác cho bản di chúc và ý chí của người lập trong trường hợp bản di chúc có nhiều trang thì pháp luật yêu cầu người lập di chúc phải đánh số trang theo thứ tự và phải kí hoặc điểm chỉ vào từng trang của di chúc nhằm tránh tình trạng người khác thêm, bớt, giả mạo hoặc thay thế từng trang của di chúc làm sai lệch ý chí của người lập di chúc. Hình thức di chúc bằng văn bản bao gồm các loại sau: Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng ,di chúc bằng văn bản có người làm chứng, di chúc bằng văn bản có chứng thực của UBND xã, phường, thị trấn, di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc đã được chứng thực. Mỗi loại hình thức di chúc lại được pháp luật quy định cụ thể trong các điều luật như sau: 2.1.1.Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng( điều 655) Đối với loại di chúc này, điều 655 bộ luật dân sự có quy định như sau: “Người lập di chúc phải tự tay viết và kí vào bản di chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản không có người làm chứng còn phải tuân theo quy định tại điều 653 của bộ luật này”. Di chúc bằng văn bản không có người làm chứng phải do người lập di chúc phải tự tay viết hoặc kí vào bản di chúc. Nói cách khác, di chúc đánh máy không có gái trị pháp lý, dù rằng người lập di chúc biết đánh máy chữ và tự tay đánh máy di chúc. Xuất phát từ thực tế là có rất nhiều trường hợp vì một lí do hay trở ngại nào đó mà người lập di chúc muốn giữ kín bí mật nội dung của bản di chúc hoặc do trình độ hiểu biết pháp luật chưa cao nên người lập di chúc không đi công chứng chứng thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc nhờ bất kì một người nào đó xác nhận làm chứng nên để thực hiện đúng nguyên tắc đảm bảo quyền định đoạt tài sản của người lập di chúc thì pháp luật vẫn thừa nhận giá trị pháp lí của di chúc lập ra trong trường hợp trên nếu nó đáp ứng được đầy đủ các điều kiện cần thiết. 2.1.2.di chúc bằng văn bản có người làm chứng ( Điều 656) Xuất phát từ điều kiện hoàn cảnh khách quan như người lập di chúc ốm, không biết chữ… mà không thể tự mình viết di chúc được thì họ có thể nhờ người khác viết hộ và bản di chúc này vẫn được chấp nhận và có giá trị pháp lý nên nó đáp ứng được các yêu cầu tại điều 656 BLDS như sau : “ trong trường hợp người lập di chúc không thể tự mình viết bản di chúc thì có thể nhờ người khác viết, nhưng phải có ít nhất là 2 người làm chứng. Người lập di chúc phải kí tên hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt người làm chứng; những người làm chứng xác nhận chữ kí, điểm chỉ của người lập di chúc và kí vào bản di chúc”. Nhưng không phải ai cũng có thể là người làm chứng trong việc lập di chúc vi vậy để đảm bảo tính khách quan những người làm chứng trong di chúc cần phải đáp ứng những tiêu chuẩn quy định tại điều 654 BLDS như sau: “ Mọi người đều có thể làm chứng cho việc lập di chúc trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc. Người có quyền, nghĩa vụ tài sản lien quan đến nội dung di chúc Người chưa đủ 18 tuổi, người không có năng lực hành vi dân sự.” Nếu thiếu một trong những yếu tố trên thì tư cách của người làm chứng sẽ không được thừa nhận, điều này đồng nghĩa là loại di chúc bằng văn bản có người làm chứng sẽ không có hiệu lực pháp luật. 2.1.3. Di chúc có công chứng hoặc chứng thực của UBND xã phường thị trấn Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc UBND xã phường thị trấn phải tuân theo đúng điều 658 của BLHS. Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây: “1. Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực phải ghi chép lại nội dung mà người lập di chúc đã tuyên bố. Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc sau khi xác nhận bản di chúc đã được ghi chép chính xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn ký vào bản di chúc; 2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn. Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng.” Ngoài ra cũng giống như những người làm chứng cho loại di chúc có người làm chứng thì công chứng viên và những người có thẩm quyền chứng thực tại UBND xã phường thị trấn cần phải đáp ứng các yêu cầu theo quy định tại điều 659 BLDS về người không được công chứng, chứng thực để đảm bảo tính khách quan cho bản di chúc. “Công chứng viên, người có thẩm quyền của Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn không được công chứng, chứng thực đối với di chúc, nếu họ là: 1. Người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật của người lập di chúc; 2. Người có cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con là người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật; 3. Người có quyền, nghĩa vụ về tài sản liên quan tới nội dung di chúc.” Di chúc bằng văn bản có giá trị như di chúc được công chứng chứng thực (điều 660) Pháp luật dân sự Việt Nam đã dự liệu các trường hợp người lập di chúc không thể đến các cơ quan công chứng hoặc UBND để chứng thực, chứng nhận di chúc, thì nhứng người có thẩm quyền chứng nhận theo quy định tại Điều 660 của Bộ luật dân sự 2005 như sau: di chúc của quân nhân tại ngũ có xác nhận của thủ trưởng đơn vị từ cấp đại đội trở lên, nếu quân nhân không thể yêu cầu công chứng chứng thực Xuất phát từ lí do do người lập di chúc là quân nhân đang làm nhiệm vụ, đóng quân ở xa nơi công chứng, chứng thực hoặc do nhiệm vụ đặc biệt. Mặt khác quyền lập di chúc là quyền luôn được pháp luật ưu tiên và đảm bảo thực hiện vì vậy với những lí do chính đáng mà cá nhân không thể lập di chúc theo thủ tục chứng thực thì di chúc của họ chỉ cần có xác nhận là vẫn có hiệu lực pháp luật. di chúc của người đang đi trên tàu biển, máy bay có xác nhận của người chỉ huy phương tiện đó Quy định này mang tính chất dự phòng do đặc thù của 2 loại phương tiện trên khiến cho những hành khách trên phương tiện không có khả năng tiền hành công chứng và chứng thực tại cơ quan có thẩm quyền được khi mà hai phương tiện này chưa cập cảng hoặc hạ cánh. Do vậy trong trường hợp cá nhân đang đi lại hoặc làm việc trên 2 phương tiện này nếu có nhu cầu làm di chúc thì chỉ cần cơ trưởng hoặc thuyền trưởng có thẩm quyền xác nhận di chúc trong lúc máy bay chưa hạ cánh hoặc tàu biển chưa cập bến là bản di chúc đó cũng được thừa nhận và có hiệu lực pháp luật. di chúc của người đang điều trị tại bệnh viện, cơ sở chữa bệnh, điều dướng khác có xác nhận của người phụ trách bệnh viện, cơ sở đó. Khi đã nằm viện hoặc ở trong cơ sở chữa bệnh thì họ có thể bị ốm đau bệnh tật, vì vậy khi có nhú cầu lập di chúc thì dù cơ sở chữa bệnh hoặc bệnh viện có gần cơ sở công chứng, chứng thực nhưng họ cũng không thể đến để yêu cầu công chứng chứng thực di chúc được do vậy nếu di chúc trong hoàn cảnh trên thì chỉ cần có xác nhận của người phụ trách bệnh viện hoặc cơ sở chữa bệnh tại nơi họ đang điều trị. di chúc của người đang làm công việc khảo sát, thăm dò, nghiên cứu ở vùng rừng núi hải đảo có xác nhận của người phụ trách đơn vị Do yêu cầu công việc mà nhiều người đang phải làm việc ở những nơi mà điều kiện cho việc công chứng, chứng thực gặp nhiều khó khăn. Công việc tại vùng rừng núi hải đảo không phải lúc nào cũng gặp thuận lợi, thuyền xuyên phải đối mặt với nguy hiểm. Vì thế, pháp luật đã quy định trong điều kiện trên nếu cá nhân muốn lập di chúc thì chỉ cần có xác nhận của Tổ trưởng tổ công tác hoặc Trưởng nhóm nghiên cứu là được. di chúc của công dân Việt Nam đang ở nước ngoài có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước đó Để đảm bảo cho tất cả mọi công dân được bình đẳng thực hiện quyền như nhau thì những công dân Việt Nam đang làm việc, sinh sống, học tập ở nước ngoài cũng có quyền lập di chúc và chỉ cần có chứng nhận của cơ quan lãnh sự, đại diện ngoại giaio của Việt Nam ở nước đó là có hiệu lực pháp luật. di chúc của người đang bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, người đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở giáo
Luận văn liên quan