Bài tập nhóm Kế thừa và phát triển tư tưởng Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam

Sự phủ định nghĩa là sự thay thế những sự vật, hiện tượng cũ bằng những sự vật, hiện tượng mới trong quá trình vận động và phát triển. Theo lịch sử triết học, tuỳ vào thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và các trường phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ định. Những người theo quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của sự phủ định ở bên ngoài sự vật, ở một lực lượng siêu nhiên nào đó. Có quan niệm lại cho rằng sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ nhưng hầu như lặp lại toàn bộ quá trình của sự vật cũ. Còn theo quan điểm duy vật biện chứng thì sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo thành sự vận động, phát triển không ngừng mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Vậy sự phủ định là tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật, hiện tượng cao mới, tiến bộ hơn. V.I.Lênin có viết về phủ định biện chứng: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”.

pdf15 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1980 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập nhóm Kế thừa và phát triển tư tưởng Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN VIỆN ĐÀO TẠO SAU ĐẠI HỌC _______________________ BÀI TẬP NHÓM MÔN TRIẾT HỌC Kế thừa và phát triển tư tưởng Phật giáo trong quá trình đổi mới ở Việt Nam Giáo viên hướng dẫn: TS. Lê Thị Hồng PHẦN 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUY LUẬT PHỦ ĐỊNH CỦA PHỦ ĐỊNH 1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng Sự phủ định nghĩa là sự thay thế những sự vật, hiện tượng cũ bằng những sự vật, hiện tượng mới trong quá trình vận động và phát triển. Theo lịch sử triết học, tuỳ vào thế giới quan và phương pháp luận, các nhà triết học và các trường phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ định. Những người theo quan điểm siêu hình coi sự phủ định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định sạch trơn, chấm dứt hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của sự phủ định ở bên ngoài sự vật, ở một lực lượng siêu nhiên nào đó. Có quan niệm lại cho rằng sự vật mới ra đời thay thế sự vật cũ nhưng hầu như lặp lại toàn bộ quá trình của sự vật cũ. Còn theo quan điểm duy vật biện chứng thì sự chuyển hoá từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thường xuyên của các mặt đối lập làm cho mâu thuẫn được giải quyết, từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự vật mới ra đời. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo thành sự vận động, phát triển không ngừng mang tính chu kỳ của thế giới khách quan. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ định sự vật cũ. Vậy sự phủ định là tiền đề, tạo điều kiện cho sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định biện chứng. Phủ định biện chứng là quá trình khách quan, tự thân, là quá trình kế thừa cái tích cực đã đạt được từ cái cũ, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời của sự vật, hiện tượng cao mới, tiến bộ hơn. V.I.Lênin có viết về phủ định biện chứng: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng… mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định”. 2. Các đặc trưng của phủ định biện chứng 2.1. Tính kế thừa của phủ định biện chứng Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra đời trên nền tảng cái cũ, chúng là sự phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lạc hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại, cải tạo những mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Vậy phủ định đồng thời cũng là khẳng định. Chẳng hạn trong lịch sử triết học, sự phát triển của phép biện chứng là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ phép biện chứng tự phát thời cổ đại qua phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức đến phép biện chứng duy vật. Sự phát triển của các học thuyết khoa học là kết quả của những sự phủ định liên tục những tri thức về sự vật, hiện tượng hay quá trình của thế giới. Nhờ đó ta thấy phủ định biện chứng không chỉ là sự khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, sự vật cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định và sự phủ định, quá khứ với hiện thực. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của kế thừa và phát triển. 2.2. Tính khách quan của phủ định biện chứng Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là giải quyết những mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ thế sự vật luôn luôn phát triển. Đương nhiên mỗi sự vật có phương thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân chúng. Do đó phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý muốn của con người, mà con người chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của sự vật. 3. Nội dung của quy luật phủ định của phủ định Một chu kỳ, một vòng khâu của sự vận động phát triển của sự vật bao gồm hai lần phủ định và ba giai đoạn: giai đoạn khẳng định, giai đoạn phủ định, giai đoạn phủ định của phủ định. Qua hai lần phủ định sự vật hoàn thành được một chu kỳ phát triển cùa nó. Sự phủ định lần thứ nhất tạo ra cái đối lập với sự vật ban đầu, đó là một bước trung gian trong sự phát triển, sự phủ định lần thứ hai tái lập lại cái ban đầu, nhng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện bước tiến của sự vật. Sự phủ định lần thứ hai này được gọi là phủ định của phủ định. Phủ định của phủ định xuất hiện với tư cách là tổng hợp tất cả các yếu tố tích cực đã được phát triển từ trước trong cái khẳng định ban đầu và trong cái phủ định lần thứ nhất. Phủ định của phủ định kết thúc một chu kỳ phát triển đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển về sau. Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng phát triển tất yếu của sự vật. Nhưng phát triển đó không theo hướng thẳng mà theo đường “xoáy ốc”. Sự phát triển “xoáy ốc” thể hiện tính kế thừa, tính lặp lại nhưng không quay trở lại mà có tính chất tiến lên. Tính vô tận của sự phát triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp từ dưới lên của các vòng trong đường “xoáy ốc”. 4. Ý nghĩa phương pháp luận - Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu hướng phát triển của sự vật. Bất kỳ sự vật nào cũng không bao giờ phát tr iển theo một đường thẳng, mà diễn ra rất phức tạp, trong đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Đồng thời chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. - Cần phải có quan điểm biện chứng trong quá trình kế thừa và phát triển. Quan điểm đó đòi hỏi không được phủ định hoàn toàn cái cũ, phủ định sạch trơn nhưng cũng không được kế thừa toàn bộ cái cũ mà phải kế thừa các yếu tố hợp lý của cái cũ cho sự phát triển của cái mới, tức là kế thừa một cách khoa học. - Trong sự phát triển của sự vật cái mới sẽ ra đời thay thế cái cũ, cái tiến bộ nhất định sẽ chiến thắng cái lạc hậu. Do đó cần biết phát hiện cái mới đích thực, tạo điều kiện cho cái mới ra đời và cho sự phát triển của cái mới. PHẦN 2: KẾ THỪA VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG PHẬT GIÁO TRONG QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI Ở VIỆT NAM 1. Nguồn gốc ra đời của Phật giáo Phật giáo là một trào lưu triết học tôn giáo xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ VI trước công nguyên, ở miền Bắc Ấn Độ, phía Nam dãy Himalaya, vùng biên giới giữa Ấn Độ và Nêpan bây giờ. Phật giáo được ra đời trong làn sóng phản đối sự ngự trị của đạo Bàlamôn và chế độ phân biệt đẳng cấp xã hội khắc nghiệt, có thể nói rằng, ngay từ lúc mới ra đời, đạo Phật với triết lý đạo đức nhân sinh sâu sắc đã trở thành một trong những ngọn cờ trong phong trào đòi tự do tư tưởng và bình đẳng xã hội Ấn Độ đương thời. Quá trình du nhập Phật giáo vào Việt Nam được chia làm 3 thời kỳ chính: - Thời kỳ từ đầu công nguyên - Thời kỳ độc lập tự chủ qua các triều đại Đinh, Lê, Lý, Trần đến triều Nguyễn - Thời kỳ Pháp thuộc và sau 1954 Ở thời kỳ đầu công nguyên: Phật giáo được xác định là du nhập vào nước ta thế kỷ II-SCN bằng đường biển và đường bộ từ Ấn Độ và Trung Quốc tại Giao Chỉ và Chăm Pa; Trước nhà Đường xuất hiện dòng thiền đầu tiên là Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi (do ngài Tì-Ni-Đa-Lưu-Chi người Ấn Độ sáng lập) ở nhà nước Vạn Xuân của Lý Nam Đế, với tư tưởng thiền là “Tức tâm tức phật”. Thời nhà Đường xuất hiện dòng thiền thứ hai là Vô Ngôn Thông (do ngài Vô Ngôn Thông người Trung Quốc sáng lập), với tư tưởng “Tức tâm tức phật” và có bổ sung phần y báo đức Phật trong tâm. Điểm nổi bật của dòng thiền này là sự xuất hiện hình thức Cư sĩ - Thiền sư. Ở thời kỳ độc lập tự chủ, nhà Đinh và Tiền Lê đã đưa Phật giáo lên thành quốc giáo với chức tăng thống và thiền sư có vai trò cố vấn cho các nhà vua. Thời nhà Lý, Phật giáo phát triển cực thịnh, là quốc đạo và xuất hiện dòng thiền thứ ba là Thảo Đường (do ngài Thảo Đường người Trung Quốc sáng lập). Điểm nổi bật của dòng thiền này là vai trò của giới cư sĩ được khẳng định một cách chính thức. Giai đoạn này có sự hiện diện của cả 3 dòng thiền và Phật giáo có xu hướng nhập thế mạnh mẽ. Nhà Trần là triều đại của Phật giáo với vai trò nổi bật của Trần Nhân Tông - Người sáng lập ra dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Thời Hậu Lê Phật giáo chính thức bước vào thời kỳ suy thoái với nhiều nguyên nhân, trong đó nổi bật là do Hồ Quý Ly ra sức phát triển Nho giáo vào cuối thế kỷ XIV. Sau khi Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê thì nước ta chia cắt thành xứ đàng trong (vua Lê-chúa Trịnh) và đàng ngoài (chúa Nguyễn). Xứ đàng trong Phật giáo phát triển mạnh trên cơ sở một nền học lý mới nhờ vai trò của chúa Nguyễn Phúc Chu (được ví là Trần Nhân Tông thứ hai trong lịch sử Phật giáo), nền học lý mới đó là dòng Tào Động, dòng Lâm Tế. Xứ đàng ngoài ảnh hưởng mạnh mẽ dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử. Khi Gia Long lên ngôi vào đầu thế kỷ XVIII, xã hội Việt Nam lâm vào cuộc khủng hoảng tư tưởng trầm trọng, đất nước rơi vào họa ngoại xâm, phật tử và nhân dân tự đứng dậy khởi nghĩa. Ở thời kỳ Pháp thuộc và sau năm 1954: Thời Pháp thuộc, Thiên Chúa giáo được hậu thuẫn và Phật giáo bị khủng bố, đàn áp gắt gao. Sau 1954, trên cả hai miền Nam Bắc, Phật giáo đều chưa có cơ hội để phát triển, nhưng sau 1975 nhờ chính sách tự do tôn giáo của Đảng và nhà nước nên Phật giáo có điều kiện phát triển mạnh mẽ và dần lấy lại vị thế của mình. Có thể nói rằng, trong hơn 20 thế kỷ qua, Phật giáo đã có một vai trò, vị trí quan trọng nhất định trong lịch sử dân tộc. Nếu như Nho giáo là công cụ của đội quân xâm lược nên không nhận được cảm tình của dân tộc ta thì Phật giáo được dân tộc ta tiếp nhận một cách hòa bình, tự giác trên tinh thần thân thiện, cởi mở. Những vấn đề về quản lý xã hội, những phạm trù đạo đức của xã hội, của cá nhân nhằm duy trì trật tự xã hội của Nho giáo đã đáp ứng nhu cầu ổn định xã hội của triều đình phong kiến. Tuy nhiên, trong đời sống xã hội, nhu cầu về sự kiến giải vấn đề sống-chết, may-rủi, họa-phúc, vấn đề tâm linh của con người… thì Nho giáo không thể đáp ứng được. Cho nên với nội dung tư tưởng của mình Phật giáo đã đáp ứng được nhu cầu đó. 2. Sự kế thừa tư tưởng Phật giáo trong quá trình đổi mới của Việt Nam 2.1. Nhân sinh quan Tư tưởng căn bản của Phật Giáo là đạo lý Duyên Khởi, Tứ Diệu Đế và Bát chánh Đạo. Ba đạo lý này là nền tảng cho tất cả các tông phái phật giáo đã ăn sâu vào lòng của người dân Việt. 2.1.1. Duyên Khởi Đạo lý Duyên Khởi là một cái nhìn khoa học và khách quan về thế giới hiện tại. Duyên khởi nghĩa là sự nương tựa lẫn nhau mà sinh tồn và tồn tại. Không những các sự kiện thuộc thế giới con người như thành, bại, thịnh, suy mà tất cả những hiện tượng về thế giới tự nhiên như cỏ, cây, hoa, lá cũng điều vâng theo luật duyên khởi mà sinh thành, tồn tại và tiêu hoại. Có 4 loại duyên cần được phân biệt: Thứ nhất là Nhân Duyên. Nhân tức là hạt giống từ đó sinh ra quả. Duyên là một điều kiện. Nói về thứ nhân duyên trong kinh Phật có câu: “Cái này có thì cái kia có Cái này sinh thì cái kia sinh Cái này không thì cái kia không Cái này diệt thì cái kia diệt”. Tất cả các pháp đều sinh, diệt và tồn tại trong sự liên hệ mật thiết với nhau, không một pháp nào có thể tồn tại độc lập tuyệt đối. Thứ hai là Tăng Thượng Duyên tức là những điều kiện có tư liệu cho nhân duyên vì Tăng tức là thêm, Thượng tức là trồi lên. Thứ ba là Sở Duyên Duyên. Sở duyên là đối tượng. Nếu không có đối tượng thì không có chủ thể; như niềm tin thì có đối tượng của niềm tin, niềm tuyệt vọng cũng có đối tượng của niềm tuyệt vọng. Đối tượng đó gọi là Sở Duyên Thứ tư là Đẳng Vô Gián Duyên. Đẳng tức là bằng nhau, bình thường, đều đều, Vô gián nghĩa là không gián đoạn. Sự hình thành nào cũng cần được liên tục, không gián đoạn. Phật chủ trương không bao giờ tự nhiên mà có, mà sinh ra và cũng cho rằng không một thần quyền nào hay một đấng thiêng liêng nào tạo ra sự vật. Sự vật sinh ra là có nhân nguyên nhân. Cái nguyên nhân một mình cũng không tạo ra được sự vật mà phải có đủ duyên thì mới tạo ra quả được. Nhưng Phật nhấn mạnh: Quả có thể khác nhân sinh ra nó. Quả có thể hơn nhân nếu gặp đủ duyên tốt, trái lại có thể kém nhân nếu gặp duyên xấu. Nhân gặp đủ duyên thì sẽ biến thành quả, quả sinh ra nếu hội đủ duyên lại có thể biến thành nhân rồi để s inh ra quả khác. Sự vật là một chuỗi nhân quả, là một tràng nhân quả nối tiếp nhau, ảnh hưởng lẫn nhau không bao giờ đứt quãng, không bao giờ ngừng. Khi đã mắc vào sự chi phối của Luật nhân quả thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi, luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt. Nghiệp là cái do những hoạt động, do hậu quả việc làm của con người được gọi là “ thân nghiệp”. Còn hậu quả của những lời nói, phát ngôn của con người thì được gọi là “khẩu nghiệp”. Hay những cái do ý nghĩ, do tâm tuệ con người gây nên được gọi là “ý nghiệp”. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do tham dục mà thành, do con người muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Cuộc đời con người là sự gánh chịu hậu quả của nghiệp đương thời và các kiếp sống trước rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau. Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu hay tốt, thiện hay ác. Luân hồi: Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo phật cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có thể là con người, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành động của những kiếp trước gây ra. Giáo lý này đương nhiên đã trở thành nếp sống tín ngưỡng hết sức sáng tỏ đối với người Việt Nam có hiểu biết, có suy nghĩ. Người ta biết lựa chọn ăn ở hiền lành, dù tối thiểu thì đó cũng là kết quả tự nhiên âm thầm của lý nghiệp báo, nó chẳng những thích hợp với giới bình dân mà còn ảnh huởng đến giới trí thức. Có thể nói mọi người dân Việt điều ảnh hưởng ít nhiều qua giáo lý này. Vì thế, lý nghiệp báo luân hồi đã in dấu đậm nét trong văn chương bình dân, trong văn học chữ nôm, chữ hán, từ xưa cho đến nay để dẫn dắt từng thế hệ con người biết soi sáng tâm trí mình vào lý nhân quả nghiệp báo mà hành động sao cho tốt đẹp đem lại hòa bình an vui cho con người. Mặt khác họ hiểu rằng nghiệp nhân không phải là định nghiệp mà có thể làm thay đổi, do đó họ tự biết sửa chữa, tu tập cải ác tùng thiện. Sống ở đời, đột nhiên những tai họa, biến cố xảy ra cho họ, thì họ nghĩ rằng kiếp trước mình vụng đường tu nên mới gặp khổ nạn này. Không than trời trách đất, cam chịu và tự cố gắng tu tỉnh để chuyển hóa dần ác nghiệp kia. Nguyễn Du đã thể hiện ý này trong truyện Kiều rằng: “Cho hay muôn sự tại trời Trời kia đã bắt làm người có thân Bắt phong trần phải phong trần Cho thanh cao mới được phần thanh cao” Nếu ta nắm vững nguyên tắc nhân quả nghiệp báo như trên, thì chúng ta có thể chuyển nghiệp ngay trong hiện kiếp. Từ những hành nghiệp thiện, giảm bớt điều ác, dần dần ta sẽ chuyển hóa và tạo cho ta có một cuộc sống yên vui cho hiện tại và mai sau. 2.1.2. Tứ diệu đế Tứ diệu đế là là bốn chân lí cao cả được Đức Phật khám phá để giải thoát con người khỏi khổ đau. Gồm: - Khổ Đế: Chân lý về đau khổ - Tập Đế: Chân lý về sự phát sinh ra đau khổ - Diệt Đế: Chân lý về cách diệt đau khổ - Đạo Đế: Chân lý về con đường dẫn đến diệt đau khổ (Bát Chánh Đạo) Đạo Phật quan niệm về con người một cách thực tế. Đời là khổ, sinh là khổ, già là khổ, chết là khổ, ưu phiền, ta thán, đau đớn, âu sầu và thất vọng là khổ, gặp gỡ người ưa thích, xa lìa người thân, cũng đều là khổ, không đạt được điều mong muốn cũng là khổ… Đó không phải là thái độ bi quan của nhà Phật, mà đó là triết lý về đời sống nhân sinh. Đó là thái độ dũng cảm, nhìn thẳng vào thực tế cuộc sống của Phật giáo. Không tô hồng, không bi phẫn. Và Phật không dạy trốn tránh đau khổ, mà dạy ta cam đảm, đối diện với đau khổ để sống vui vẻ. Đau khổ không chỉ bao gồm bệnh hoạn, chết chóc mà còn bao gồm những gì khó chịu xảy ra trong tâm thức. Bệnh tật và cõi chết là những thực tế không tránh khỏi. Có sinh thì có tử, có sức khỏe thì có bệnh tật, có tuổi trẻ sẽ có tuổi già, có thành công sẽ có thất bại, có vui thú sẽ có buồn đau, có hội tụ sẽ có chia ly. Như vậy mọi người đều không tránh khỏi đau khổ, và đau khổ sẽ đeo đuổi ta suốt cuộc đời. Đứng trước đau khổ, ta không thể chối bỏ mà phải chấp nhận để tìm hiểu nguồn gốc phát sinh của nó. Phải duy trì đức tính tự trọng và lòng can đảm bởi vì sự giác ngộ được tìm thấy trong niềm đau khổ. Nếu mục đích của con người là sống để hưởng thụ các lạc thú và tiện nghi vật chất... thì những thứ này là «không giới hạn». Nhiều người thường tích lũy tài sản vì cho rằng tài sản khiến họ được kính trọng. Nhưng nhiều khi cách làm giàu cũng đi kèm theo tội lỗi, khiến họ có thể bị khinh rẻ. Các tu sĩ khất thực là những người sống cao thượng vì không còn bận tâm tới vẻ bên ngoài, không bị lo lắng bởi thăng trầm của hoàn cảnh, cao thượng vì đã chọn lựa cảnh sống thanh bần mà trong sạch. Điều quan trọng và cần thiết là sống một cuộc đời cao thượng vì trong tâm tư người biết sống này đã có sự an lànht buồn phiền, không lo lắng. Và đây là Niết Bàn. Lời Phật dạy: Nơi nào không có phiền não, nơi đó là Niết Bàn. Chân lý thứ hai là Tập đế đề cập tới những cảm xúc biểu hiện bên trong Tâm chúng ta. Tập là gom góp, tóm hợp các điều vướng mắc mà thành ra khổ. Tập Đế còn được gọi là Tập Khổ Đế có nghĩa là “phản ứng từ đau khổ”, tức là những gì xẩy ra đồng thời với đau khổ. Trước các đau khổ, chúng ta thường tránh né, lánh xa những phiền não, ước mong một cuộc đời không khổ đau, nhưng các cố gắng tránh né này thường mang lại nhiều rắc rối hơn. Chân lý thứ ba là Diệt Đế hay chân lý về trạng thái chấm dứt đau khổ, với kết quả là Niết Bàn. Nếu tham ái (hay ái dục) là nguồn gốc của đau khổ thì khi không còn tham ái nữa, chắc chắn đau khổ cũng không còn. Phật khuyên chúng ta nên hiểu rõ hoàn cảnh sống rồi thực hành sự hiểu biết này bởi vì hạnh phúc từ bên trong tâm mà sinh ra. Tham ái là một gánh nặng mà chúng ta mang theo suốt đời người, đây là một món đồ phụ thuộc rất tai hại cần vứt bỏ, quẳng đi để có một cuộc đời suôn sẻ. Phật giáo chỉ ra con đường thoát khổ là Đạo đế hay Bát Chánh Đạo. Bát Chánh Đạo gồm 8 phần: - Chính kiến (hiểu đúng): gồm việc gìn giữ một quan niệm xác đáng về Tứ Diệu Đế và giáo lý (vô ngã), hiểu rõ bản chất của kiếp sinh tồn, của chánh và tà. Đây cũng là giai đoạn đầu và cuối cùng của Bát Chánh Đạo. - Chính tư duy (nghĩ đúng): suy nghĩ hay có một mục đích đúng đắn, suy xét về ý nghĩa của bốn chân lý (Tứ diệu đế) một cách không sai lầm, tức là có tư tưởng chân chính, biết từ khước, xuất ly và dứt bỏ (tham, sân, si). - Chính ngữ (nói đúng): không nói dối, không nói phù phiếm, không nói lời độc hại. - Chính nghiệp (làm đúng): không phạm các giới luật. - Chính mệnh (sống đúng): tránh làm những nghề giết hại như đồ tể, thợ săn, buôn ma túy. - Chính tinh tấn (cố gắng đúng cách): ngăn chặn không cho khởi sinh các bất thiện chưa có, diệt trừ các bất thiện đã có, phát triển tâm thiện đã có và chưa có, duy trì nghiệp tốt, diệt trừ nghiệp xấu. - Chính niệm (nhớ đúng): tỉnh giác về ba mặt thân - miệng - ý. - Chính định (tâm đúng đắn): tập trung tâm ý, đạt bốn định xuất thế gian (bốn xứ) Trên con đường dằng dặc đến Niết Bàn, Phật giáo khuyên ta đi con đường Giới, Định, Tuệ. Giới là bước đầu trên con đường tu học, là nền tảng vững chắc của mọi tiến bộ. Mục tiêu của Giới là giúp phát triển tâm Định và thành đạt Trí Tuệ tối thượng. Giới hạnh càng trong sạch, tâm càng sáng suốt nhờ đó mà thành đạt Trí Tuệ, tìm ra chân lý cao thượng của đời sống. Tuệ là diệt trừ tham, sân, si. Tuệ giống như ngọn đèn chiếu đến đâu, xua tan bóng tối đến đó
Luận văn liên quan