Bài tập Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự

Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự (QTĐĐCĐS) trong TTDS là nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam, theo đó đương sự (ĐS) được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm cho ĐS thực hiện được quyền tự định đoạt của họ trong TTDS.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2080 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Bài tập Quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự theo quy định của bộ luật tố tụng dân sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC NỘI DUNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ. 1. Khái niệm nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự (QTĐĐCĐS) trong TTDS là nguyên tắc cơ bản của luật TTDS Việt Nam, theo đó đương sự (ĐS) được quyền tự do thể hiện ý chí của mình trong việc lựa chọn thực hiện các hành vi tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, quyết định quyền, lợi ích của mình trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự và trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm cho ĐS thực hiện được quyền tự định đoạt của họ trong TTDS. 2. Cơ sở của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. 2.1 Cơ sở lí luận của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự. Trong TTDS, nguyên tắc QTĐĐCĐS thể hiện ở khả năng những người tham gia tố tụng tự do định đoạt các quyền dân sự của mình và các quyền về phương tiện tố tụng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm hại. Có thể thấy rằng nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS chính là các quyền được quy định trong các quy phạm pháp luật hình thức, được phái sinh bởi các nguyên tắc trong giao lưu dân sự do pháp luật nội dung quy định. Mặt khác nguyên tắc QTĐĐCĐS được đặt ra do yêu cầu bảo đảm quyền bảo vệ của đương sự. Theo như quy định tại Điều 9 BLTTDS thì đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ luật sư hay người khác có đủ điều kiện theo quy định của BLTTDS bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. TA có trách nhiệm bảo đảm cho ĐS thực hiện quyền bảo vệ của họ. Pháp luật cho phép ĐS có quyền bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Và để bảo đảm cho ĐS bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì pháp luật phải có những quy định nhằm giúp ĐS thực hiện tốt quyền này. ĐS sẽ có quyền khởi kiện, quyền yêu cầu TA giải quyết vụ việc dân sự khi quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Việc khởi kiện và yêu cầu này hoàn toàn dựa trên sự tự do ý chí của ĐS. Hơn nữa, để bảo đảm được quyền bảo vệ của ĐS, pháp luật còn quy định trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự các ĐS được quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu, được quyền tham gia phiên toà… Nếu không có những quy định về QTĐĐCĐS trong TTDS thì sẽ không thể bảo đảm được việc thực thi nguyên tắc bảo đảm quyền bảo vệ của ĐS. Chính vì vậy mà pháp luật TTDS đã đưa ra quy định về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS tại Điều 5 BLTTDS. ĐS được quyền tự mình quyết định việc khởi kiện hoặc yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Đây là một trong những quyền tố tụng quan trọng của ĐS, nhờ vào quyền tự định đoạt này mà ĐS được quyền chủ động trong việc khởi kiện, yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự. Như vậy, các vụ việc dân sự sẽ được giải quyết một cách nhanh chóng, đúng đắn và khách quan hơn. Cho nên, việc ghi nhận QTĐĐCĐS trong tố tụng dân sự là một vấn đề cấp thiết. 2.2 Cơ sở thực tiễn của nguyên tắc quyền tự định đoạt của đương sự trong tố tụng dân sự Khi các tranh chấp dân sự xảy ra trong đời sống xã hội, bên nào nhận thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì phải tiến hành khởi kiện hoặc yêu cầu Toà án giải quyết vụ việc dân sự. Nếu người có quyền và lợi ích bị xâm phạm không yêu cầu TA giải quyết thì TA không được quyền giải quyết. Việc khởi kiện, hoặc yêu cầu nêu trên hoàn toàn dựa trên sự tự do ý chí của họ. Một khi đã nhận được yêu cầu của ĐS thì TA phải tiến hành xem xét và giải quyết vụ việc để đảm bảo quyền lợi cho người có quyền và lợi ích bị xâm phạm. Tuy nhiên, trên thực tế vấn đề này còn rất nhiều bất cập. Một mặt, người dân không có hiểu biết về pháp luật, nên không biết là mình có quyền yêu cầu TA giải quyết khi nhận thấy quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Hoặc có trường hợp có yêu cầu nhưng ĐS lại hiểu sai quy định của pháp luật nên yêu cầu đó là trái pháp luật và đạo đức xã hội. Và còn nhiều trường hợp, ĐS đưa ra yêu cầu không đầy đủ. Vì vậy, cần phải quy định ĐS hoàn toàn có quyền chấm dứt, thay đổi, hoặc bổ sung yêu cầu. Mặt khác, bên cạnh đó, từ phía TA cũng còn tồn tại nhiều sai sót. Có trường hợp, nhận được yêu cầu của ĐS mà TA vẫn không tiến hành giải quyết hoặc là TA giải quyết không đúng, vượt quá phạm vi yêu cầu của ĐS. Vì vậy mà việc quy định QTĐĐCĐS trong TTDS trong đó ghi nhận trách nhiệm của TA trong việc bảo đảm QTĐĐCĐS là một yêu cầu cấp thiết. Cho nên BLTTDS năm 2004 đã đưa ra quy định về nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS (Điều 5). Việc quy định QTĐĐCĐS là hoàn toàn phù hợp với thực tiễn khách quan. Góp phần bảo đảm được tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS, tăng cường pháp chế XHCN. II. NỘI DUNG NGUYÊN TẮC QUYỀN TỰ ĐỊNH ĐOẠT CỦA ĐƯƠNG SỰ TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ THEO QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ. 1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc đưa ra yêu cầu giải quyết vụ việc dân sự Theo quy định tại Điều 5 BLTTDS năm 2004 ĐS có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự. Theo Điều 60 BLTTDS bị đơn có quyền định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố. Và theo Điều 61 BLTTDS người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu đối với nguyên đơn, bị đơn. 1.1. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc khởi kiện vụ án dân sự, yêu cầu giải quyết việc dân sự Thứ nhất, về QTĐĐCĐS trong việc khởi kiện vụ án DS. Tại Điều 161 BLTTDS quy định: “Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền tự mình hoặc thông qua người đại diện hợp pháp khởi kiện vụ án dân sự (sau đây gọi chung là người khởi kiện) tại toà án có thẩm quyền để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình”. Và theo Điều 162 BLTTDS quy định cụ thể về quyền khởi kiện vụ án dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng và lợi ích của Nhà nước. Với các quy định đó, Nhà nước chính thức ghi nhận quyền khởi kiện vụ án DS của cá nhân, cơ quan, tổ chức trong việc yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình và của các chủ thể khác như cơ quan dân số, gia đình và trẻ em, hội liên hiệp phụ nữ, công đoàn… trong việc khởi kiện yêu cầu TA bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác. Quyền khởi kiện vụ án dân sự là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật dân sự theo nghĩa rộng, khi họ cho rằng quyền lợi của họ bị xâm phạm. Việc ghi nhận quyền khởi kiện vụ án dân sự, trước hết cho phép cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền, lợi ích bị xâm hại hoặc có tranh chấp yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Thực hiện quyền khởi kiện chính là một trong những biểu hiện của nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. Theo đó, ĐS được quyền tự định đoạt trong việc khởi kiện vụ án dân sự, nộp đơn yêu cầu TA bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay của người khác. Thứ hai, về quyền tự định đoạt trong việc yêu cầu giải quyết việc dân sự. Trong các việc dân sự, không có tranh chấp trực tiếp giữa các bên. Thông thường trong các việc DS một bên công nhận hay bác bỏ một quyền lợi hay thực hiện một trách nhiệm DS nào đó nên không xuất hiện khái niệm bị đơn và nguyên đơn DS mà được thay thế bằng thuật ngữ người yêu cầu và người bị yêu cầu. Người yêu cầu trong việc DS là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của người yêu cầu việc DS cũng chủ động như nguyên đơn trong vụ án DS. Người yêu cầu trong vụ việc DS có lợi ích pháp lý độc lập nên được đưa ra yêu cầu cho TA giải quyết như nguyên đơn trong VADS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu TA công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ. Quyền yêu cầu giải quyết việc DS là một trong những quyền cơ bản của ĐS trong TTDS. Việc BLTTDS ghi nhận quyền này của ĐS đã góp phần thể hiện việc thực thi nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS thực tế. Từ các phân tích trên cho thấy quyền khởi kiện vụ án DS và quyền yêu cầu giải quyết việc DS là quyền tố tụng quan trọng của các chủ thể, là cơ sở pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật TTDS, không có hành vi khởi kiện, hành vi yêu cầu giải quyết vụ việc DS thì cũng không có quá trình TTDS cho các giai đoạn tiếp theo. Quy định này xuất phát từ trách nhiệm của Nhà nước và xã hội đối với việc bảo vệ những quyền và lợi ích hợp pháp trong xã hội, thể hiện sự quan tâm của xã hội đối với cá nhân con người. Tuy nhiên, để việc thực hiện trách nhiệm của xã hội không làm xâm phạm đến những vấn đề riêng tư mang tính chất cá nhân, chỉ một số những vụ án nhất định thì pháp luật mới quy định những người không phải là cá nhân, cơ quan, tổ chức bị xâm phạm hoặc người đại diện hợp pháp của các chủ thể này mới có quyền khởi kiện. Đây là phương thức đặc trưng trong việc thực hiện quyền tự định đoạt trong TTDS được thể hiện bằng việc ĐS có thể hành động ngay tức khắc để tự bảo vệ các quyền DS của mình tránh nguy cơ xâm phạm xảy ra như khởi kiện đòi lại tài sản hoặc khởi kiện yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật… 1.2. Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu phản tố của bị đơn. Về quyền yêu cầu phản tố, nếu như nguyên đơn có quyền quyết định việc khởi kiện và nội dung khởi kiện thì bị đơn cũng có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn. Trong TTDS, phản tố được hiểu là việc bị đơn khởi kiện ngược lại nguyên đơn về một quan hệ pháp luật khác với quan hệ pháp luật nguyên đơn đã khởi kiện bị đơn, nhưng có liên quan đến quan hệ pháp luật mà nguyên đơn đã khởi kiện. BLTTDS năm 2004 đã dành một số điều luật quy định cụ thể về quyền phản tố của bị đơn trong TTDS, cụ thể tại điểm c khoản 1 Điều 60 BLTTDS quy định bị đơn có quyền đưa ra yêu cầu phản tố đối với nguyên đơn nếu có liên quan đến yêu cầu của nguyên đơn hoặc đề nghị đối trừ với nghĩa vụ của nguyên đơn. Ngoài ra BLTTDS cũng quy định cho bị đơn có quyền bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung và bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng. Sự bác bỏ yêu cầu theo luật nội dung là sự giải thích và lập luận của bị đơn về tính không có căn cứ của yêu cầu khởi kiện về mặt pháp lý cũng như về mặt thực tế. Sự bác bỏ yêu cầu về mặt tố tụng là sự lý giải và chứng minh của bị đơn về tính không hợp pháp của việc giải quyết vụ án hoặc là về sự vi phạm thủ tục tố tụng trong việc thụ lý và giải quyết vụ án. Với việc quy định quyền phản tố, quyền bác bỏ của bị đơn đối với yêu cầu của nguyên đơn là thể hiện sự ghi nhận của pháp luật đối với QTĐĐCĐS. 1.3 Quyền tự định đoạt trong việc đưa ra yêu cầu của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Trong TTDS, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng vào vụ án DS đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên cũng có quyền đưa ra yêu cầu của mình hoặc bác bỏ yêu cầu của người khác. Việc tham gia tố tụng của họ trong vụ án DS là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến VADS. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quant ham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng đứng về phía nguyên đơn hoặc bị đơn. Theo quy định tại Điều 177 BLTTDS thì trong trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan không tham gia tố tụng với bên nguyên đơn hoặc với bên bị đơn thì họ có quyền yêu cầu độc lập khi có các điều kiện sau đây: Việc giải quyết vụ án có liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ liên của họ; yêu cầu độc lập của họ có liên quan đến vụ án đang được giải quyết và yêu cầu độc lập của họ được giải quyết trong cùng một vụ án làm cho việc giải quyết vụ án được chính xác và nhanh hơn. Như vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập với nguyên đơn, bị đơn hay nói cách khác người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có yêu cầu độc lập là người tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa những người kahcs để bảo vệ quyền, lợi ích độc lập của mình đối với đối tượng tranh chấp mà TA đang xem xét và giải quyết. Trong vụ án DS lợi ích pháp lý của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập luôn độc lập với lợi ích pháp lý của nguyên đơn, bị đơn nên yêu cầu của họ có thể chống cả nguyên đơn, bị đơn. Có thể thấy rằng việc quyết định có tham gia vào vụ kiện đã phát sinh giữa nguyên đơn, bị đơn hay không phải tuỳ thuộc vào sự lựa chọn và tự định đoạt của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập. Còn người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị đơn, lợi ích pháp lý của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn, bị đơn nên việc tham gia tố tụng của họ bị phụ thuộc vào nguyên đơn và họ không có các quyền và nghĩa vụ tố tụng như nguyên đơn, bị đơn được. Tuy vậy, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập cũng có quyền cùng nguyên đơn hoặc bị đơn thoả thuận với bên đương sự kia được, không có quyền thừa nhận một phần hay chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bên đương sự kia. Đối với người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của họ. Việc tham gia tố tụng của họ cũng giống như việc tham gia tố tụng của người có liên quan trong vụ án dân sự có thể do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của TA. 2. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu và thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự. 2.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thay đổi, bổ sung và rút yêu cầu Bằng phương thức khởi kiện, yêu cầu giải quyết việc dân sự, nguyên đơn, người yêu cầu đã thực hiện việc yêu cầu TA có thẩm quyền giải quyết để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Khi ĐS thực hiện hành vi khởi kiện, yêu cầu thì họ hoàn toàn có quyền quyết định các hành vi tố tụng tiếp theo của mình. ĐS có quyền chấm dứt, thay đổi hoặc bổ sung yêu cầu của mình. Tuy nhiên, tuỳ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng mà việc thay đổi, bổ sung yêu cầu có thể được TA chấp nhận hay không chấp nhận. Trước khi mở phiên toà thì quyền này là quyền tuyệt đối của ĐS, theo đó ĐS có thể thay đổi, bổ sung yêu cầu tuỳ ý. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 218 BLTTDS thì tại phiên toà việc thay đổi yêu cầu chỉ được chấp nhận nếu không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố hoặc yêu cầu độc lập ban đầu. Trước khi mở phiên toà xét xử sơ thẩm, BLTTDS không có quy định giới hạn phạm vi thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Như vậy, nguyên đơn có thể thay đổi, bổ sung đối tượng khởi kiện, thay đổi, bổ sung những yêu cầu mới đối với bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Theo quy định tại Mục 6 Phần III Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 hướng dẫn thi hành các quy định trong phần thứ hai “Thủ tục giải quyết vụ án tại toà án cấp sơ thẩm” của BLTTDS thì tại phiên toà xét xử sơ thẩm, việc thay đổi, bổ sung yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bị giới hạn là không được vượt quá so với phạm vi yêu cầu ban đầu. Đối với việc rút đơn khởi kiện, rút đơn yêu cầu trong mọi giai đoạn tố tụng đều có thể được TA chấp nhận. Theo nguyên tắc chung việc rút đơn khởi kiện, đơn yêu cầu là hành vi định đoạt của nguyên đơn, người yêu cầu được biểu hiện ở hai khía cạnh đó là sự từ bỏ yêu cầu (dựa trên luật nội dung) và là sự từ bỏ phương tiện bảo vệ yêu cầu bằng con đường tố tụng (thông qua TA). Nguyên đơn có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu khởi kiện (điểm b khoản 1 Điều 59 BLTTDS). Người yêu cầu trong việc dân sự cũng có thể rút một phần hoặc toàn bộ yêu cầu của mình. Theo quy định tại khoản 1 Điều 193, khoản 2 Điều 269 của BLTTDS thì việc TA ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án trong trường hợp nguyên đơn rút đơn khởi kiện không làm mất quyền của nguyên đơn được khởi kiện yêu cầu TA giải quyết lại vụ án DS đó nếu thời hiệu khởi kiện vẫn còn. Quyền thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu của ĐS là những quyền tố tụng rất quan trọng của ĐS. Tuy nhiên việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu phải dựa vào ý chí tự nguyện của ĐS và TA sẽ không chấp nhận việc thay đổi, bổ sung, rút yêu cầu do ĐS bị ép buộc. 2.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc thoả thuận giải quyết vụ việc dân sự Trong quá trình TA giải quyết vụ việc dân sự các bên vẫn có quyền thương lượng, hoà giải với nhau việc giải quyết vụ việc. Xuất phát từ bản chất của quan hệ dân sự được giải quyết trong vụ việc, theo đó các bên bình đẳng với nhau, được tự do cam kết, xác lập thoả thuận các quyền, nghĩa vụ dân sự không trái pháp luật và đạo đức xã hội. Điểm a Khoản 2 Điều 180 BLTTDS quy định việc hoà giải được tiến hành theo nguyên tắc sau: “Tôn trọng sự tự nguyện thoả thuận của các ĐS, không được dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực, bắt buộc các ĐS phải thoả thuận không phù hợp với ý chí của mình”. Mọi sự tác động từ bên ngoài trái với ý muốn của ĐS đều bị coi là trái pháp luật và không được công nhận. Cơ sở hoà giải là QTĐĐCĐS. Điều 10 BLTTDS quy định: “Toà án có trách nhiệm tiến hành hoà giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thoả thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này”. Nguyên tắc QTĐĐCĐS trong việc hoà giải thể hiện ở quyền tự thoả thuận của ĐS. Theo đó các ĐS có quyền tự thoả thuận, dàn xếp, thương lượng với nhau về các vấn đề cần giải quyết trong vụ án mà không thông qua TA, trong trường hợp này TA không phải là người chủ động đưa vụ án ra hoà giải mà các ĐS tự thoả thuận với nhau. Với ý nghĩa là một nội dung cơ bản của QTĐĐCĐS, quyền thoả thuận giải quyết vụ việc DS của ĐS là một quyền tố tụng rất quan trọng của ĐS được thực hiện ở tất cả các giai đoạn sơ thẩm, phúc thẩm trừ những trường hợp BLTTDS quy định không được tiến hành hoà giải. 3. Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình và kháng cáo bản án, quyết định của toà án 3.1 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc lựa chọn người đại diện, người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình Xét trên phương diện tố tụng, nếu hiểu theo nghĩa rộng thì quyền cử người đại diện, quyền nhờ luật sư bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của mình cũng thuộc nội dung QTĐĐCĐS. Khoản 3 Điều 73 BLTTDS quy định: “Người …tố tụng”. Việc cử người đại diện theo uỷ quyền hoàn toàn dựa trên sự tự định đoạt của ĐS. Theo điều 63 BLTTDS để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình ĐS có quyền nhờ Luật sư hoặc người khác được TA chấp nhận tham gia tố tụng. Người tham gia tố tụng này được gọi là người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS. Quyền nhờ người khác bảo vệ lợi ích hợp pháp cho mình là biểu hiện của nguyên tắc QTĐĐCĐS được pháp luật tôn trọng. Người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐS khi tham gia tố tụng phải bảo đảm được các điều kiện quy định tại Khoản 2 Điều 63 BLTTDS. Việc tham gia tố tụng vào vụ việc dân sự của người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của ĐS có ý nghĩa lớn trong việc thể hiện sự tôn trọng nguyên tắc QTĐĐCĐS trong quá trình tố tụng. Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của ĐS tham gia tố tụng theo yêu cầu của ĐS nên việc thay đổi, chấm dứt việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho ĐS của họ do hai bên quyết định. Đây cũng là một quy định thể hiện rất rõ việc thực thi nguyên tắc QTĐĐCĐS trong TTDS. 3.2 Quyền tự định đoạt của đương sự trong việc kháng cáo bản án, quyết định của toà án Quyền kháng cáo là một quyền tố tụng cơ bản của ĐS được quy định tại Điểm o khoản 2 Điều 58 BLTTDS. Tuy nhiên, theo quy định của pháp luật thì ĐS được tự quyết định việc thực hiện quyền này nên theo nghĩa rộng quyền kháng cáo cũng thuộc nội dung QTĐĐCĐS. Ngoài việc quy định ĐS có quyền kháng cáo thì pháp luật cũng quy định ĐS có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo. Theo quy định tại khoản 1 Điều 256 BLTTDS thì ĐS có quyền thay đổi, bổ sung, rút kháng cáo trước khi bắt đầu phiên toà hoặc tại phiên toà nhưng không được vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu, nếu thời hạn kháng cáo đã hết và TA cấp phúc thẩm sẽ ra quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với những phần rút kháng cáo. Có thể thấy rằng, quyền kháng cáo là một phương tiện pháp lý để
Luận văn liên quan