Bài thảo luận Tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012

Trong ngân hàng thanh khoản bao gồm nhiều phương diện: Trong ngắn hạn: Thanh khoản là khả năng ngân hàng có thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán ngay thời điểm chúng phát sinh  liên quan đến khả năng sinh lãi  đảm bảo thanh khoản. Trong dài hạn: Thanh khoản là khả năng vay đủ vốn dài hạn với lãi suất hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng tài sản (thanh khoản theo cấu trúc, hiện rất được các ngân hàng chú trọng). Theo những nghiên cứu những năm 90 về khả năng thương mại thì thanh khoản là khả năng trao đổi thường trực các sản phẩm trên thị trường vốn mà không làm giảm giá quá mức. (Khả năng thanh khoản tài sản). Thanh khoản thị trường là khả năng của thị trường trong việc tạo cơ sở cho hoạt động vay mượn tại các thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Chính sách ngân hàng trung ương). Vậy, thanh khoản là đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghiệp vụ thanh toán khi đến hạn – đến mức tối đa và bằng đơn vị tiền tệ được quy định. Do thực hiện bằng tiền mặt nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền tệ. Việc không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khả năng hay mất tính thanh khoản. Do đó, thanh khoản không phải là một số tiền nào đó, cũng không phải là một tỷ lệ. Thay vào đó, nó thể hiện phạm vi khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán của một ngân hàng. Trái ngược với nó là “thiếu khả năng thanh khoản”, nghĩa là: ngân hàng thiếu khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo nghĩa này thì thanh khoản đại diện cho yếu tố định tính về sức mạnh tài chính của một ngân hàng. ( Duttweiler, 2008, trang 30).

pdf38 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1673 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Bài thảo luận Tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM ------------ Môn: Quản Trị Ngân Hàng Đề tài: TÌNH HÌNH THANH KHOẢN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 – 2012. GVHD: PGS. TS Trương Quang Thông NTH: Nhóm 3. Lớp Ngân hàng - Đêm 2 - Khóa 22. Danh sách nhóm 1. Trần Thị Duyên 2. Phạm Văn Linh 3. Văn Tấn Ngọc 4. Nguyễn Văn Phương 5. Lê Trung Quốc 6. Phạm Thanh Thủy 7. Đặng Thị Phương Trang TPHCM, tháng 10 năm 2013. Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 2 Mục lục I. TỔNG QUAN TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI .................. 3 1. Tính thanh khoản trong ngân hàng: ................................................................................. 3 2. Rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại: ....................................................... 3 3. Vai trò tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: ............................................. 6 4. Một số nguyên nhân làm giảm tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: ... 7 4.1. Chạy theo lợi nhuận ngắn hạn: ...................................................................................... 7 4.2. Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản:................................................................................ 7 4.3. Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém:....................................................... 8 4.4. Mất cân đối trong cơ cấu tài sản:................................................................................... 8 4.5. Một số nguyên nhân khác:............................................................................................... 9 5. Các phương pháp quản lý rủi ro thanh khoản: ........................................................... 10 II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH THANH KHOẢN CỦA HỆ THỐNG NGÂN HÀNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2008 – 2012......................................................................... 12 1. Bối cảnh kinh tế giai đoạn 2008 – 2012 .......................................................................... 12 2. Thực trạng tình hình thanh khoản của hệ thống NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 – 2012: ........................................................................................................................................... 15 III. GIẢI PHÁP........................................................................................................................... 31 1. Đối với Chính Phủ và NHNN............................................................................................ 31 2. Đối với NHTM ..................................................................................................................... 34 Tài liệu tham khảo...................................................................................................................... 38 Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 3 I. TỔNG QUAN TÍNH THANH KHOẢN NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1. Tính thanh khoản trong ngân hàng: Trong ngân hàng thanh khoản bao gồm nhiều phương diện: Trong ngắn hạn: Thanh khoản là khả năng ngân hàng có thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán ngay thời điểm chúng phát sinh  liên quan đến khả năng sinh lãi  đảm bảo thanh khoản. Trong dài hạn: Thanh khoản là khả năng vay đủ vốn dài hạn với lãi suất hợp lý nhằm hỗ trợ cho việc tăng tài sản (thanh khoản theo cấu trúc, hiện rất được các ngân hàng chú trọng). Theo những nghiên cứu những năm 90 về khả năng thương mại thì thanh khoản là khả năng trao đổi thường trực các sản phẩm trên thị trường vốn mà không làm giảm giá quá mức. (Khả năng thanh khoản tài sản). Thanh khoản thị trường là khả năng của thị trường trong việc tạo cơ sở cho hoạt động vay mượn tại các thị trường vốn và thị trường tiền tệ. (Chính sách ngân hàng trung ương). Vậy, thanh khoản là đại diện cho khả năng thực hiện tất cả các nghiệp vụ thanh toán khi đến hạn – đến mức tối đa và bằng đơn vị tiền tệ được quy định. Do thực hiện bằng tiền mặt nên thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền tệ. Việc không thực hiện được nghĩa vụ thanh toán sẽ dẫn đến tình trạng thiếu khả năng hay mất tính thanh khoản. Do đó, thanh khoản không phải là một số tiền nào đó, cũng không phải là một tỷ lệ. Thay vào đó, nó thể hiện phạm vi khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán của một ngân hàng. Trái ngược với nó là “thiếu khả năng thanh khoản”, nghĩa là: ngân hàng thiếu khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Theo nghĩa này thì thanh khoản đại diện cho yếu tố định tính về sức mạnh tài chính của một ngân hàng. ( Duttweiler, 2008, trang 30). 2. Rủi ro thanh khoản trong ngân hàng thương mại: Rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với một tổ chức kinh tế, đặc biệt quan trọng đối với các tổ chức tài chính. Trong thực tế có không ít trường hợp, một tổ Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 4 chức kinh tế có tài sản nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố rủi ro thanh khoản của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể. Rủi ro thanh khoản là trường hợp không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ thanh toán; việc không thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đó sẽ gây ra những hậu quả không mong muốn, thậm chí có thể khiến công ty gặp thất bại. Chúng ta có thể chia rủi ro thanh khoản làm bốn nhóm theo cấu trúc như sau: Rủi ro thanh khoản rút tiền trước hạn: Điều này liên quan đến cả tài sản và nợ. Việc rút tiền dựa trên cơ sở quyền chọn có thể được thực hiện. Những khoản tiền gửi có thể được rút mạnh tay vào ngày sớm nhất thay vì đợi đến hạn. Rủi ro thanh khoản có kỳ hạn: Điều kiện thanh toán theo đúng hợp đồng. Rủi ro thanh khoản tài trợ: Nếu một tài sản không được tài trợ hợp lý, việc tài trợ theo sau đó có thể phải được thực hiện trong những điều kiện bất lợi, nghĩa là với giá chênh lệch cao hơn. Trong trường hợp xấu, thậm chí quỹ tiền có thể bị rút mạnh tay như trường hợp trên. Rủi ro thanh khoản thị trường: Các điều kiện thị trường bất lợi có thể làm giảm khả năng chuyển các tài sản khả nhượng thành tiền mặt hoặc để tài trợ cần thiết. Hoặc theo nguồn gốc dẫn tới rủi ro thanh khoản ngân hàng, các nhà nghiên cứu thống nhất có thể chia rủi ro thanh khoản thành 3 nhóm: Rủi ro thanh khoản đến từ bên tài sản nợ có thể phát sinh bất cứ lúc nào khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn, nhưng NHTM không sẵn có nguồn vốn để thanh toán, để chi trả. Với một lượng tiền gửi được yêu cầu rút ra lớn và đột ngột buộc NHTM phải đi vay bổ sung trên thị trường tiền tệ, phải huy động vốn đột xuất với chi phí vượt trội, hoặc bán bớt tài sản để chuyển hoá thành vốn khả dụng đáp ứng nhu cầu chi trả. Để đáp ứng nhu cầu ngay lập tức NHTM có thể phải bán tài sản với giá thấp hơn thị trường hoặc vay trên thị trường với lãi suất cao để có lượng vốn khả dụng cần thiết. Rủi ro thanh khoản từ bên tài sản có, chủ yếu phát sinh liên quan đến việc thực hiện các Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 5 cam kết tín dụng, cho vay. Có cam kết tín dụng cho phép người vay vốn tiến hành rút tiền bất cứ lúc nào trong thời hạn theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khi một người vay yêu cầu NHTM thực hiện cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo đủ tiền ngay lập tức để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không NH sẽ phải đối mặt với uy tín trên thương trường, thậm chí đối mặt với mất khả năng thanh toán. Tương tự, nguyên nhân rủi ro đến từ bên tài sản Nợ, khi đó NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp. Rủi ro thanh khoản từ hoạt động ngoại bảng: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các công cụ tài chính phái sinh, rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra như cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng quyền chọn. Các hợp đồng đó đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó, NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu không có kế hoạch chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, không có những tài sản nhanh chóng hay dễ dàng chuyển thành tiền, những công cụ có thể giao dịch trên thị trường tiền tệ. Dấu hiệu ngân hàng đang phải đối mặt với rủi ro thanh khoản: Lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã có những diễn biến bất thường. Lãi suất huy động vốn các kỳ hạn ngắn lại cao hơn lãi suất huy động các kỳ hạn dài, các ngân hàng chỉ tập trung huy động vốn hạn ngắn. Xét về bản chất thì hiện tượng này phản ánh việc hệ thống ngân hàng đang thiếu thanh khoản, mục đích huy động vốn của các ngân hàng lúc này chủ yếu là nhằm đảm bảo khả năng thanh khoản chứ không phải vì mục tiêu sinh lời. Lãi suất vay trên thị trường liên ngân hàng tăng lên nhanh chóng. Ở Việt Nam có những thời điểm lãi suất vay qua đêm lên đến 30-40%/năm, nhưng cũng không có ngân hàng nào cho vay. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là do các ngân hàng đều đang có vấn về thanh khoản, trong điều kiện tình hình huy động vốn từ dân cư và doanh nghiệp không thuận lợi buộc họ phải chấp nhận vay với lãi suất cao trên thị trường liên ngân hàng để giải quyết nhu cầu thanh khoản trước mắt. Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 6 3. Vai trò tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: Cũng giống như tất cả các chỉ tiêu khác gây ảnh hưởng và hình thành nên trạng thái thanh khoản, thanh khoản không là yếu tố dẫn đầu mà chỉ là yếu tố đi theo. Như vậy chúng ta đặt ra câu hỏi: thanh khoản có vai trò quan trọng như thế nào trong khuôn khổ mở rộng các vấn đề và rủi ro. Những nghiên cứu kinh nghiệm cho thấy thanh khoản luôn dồi dào. Có những giai đoạn thanh khoản có phần thiếu thốn và do đó cái giá phải trả là khá đắt. Trong dài hạn, những biến động chênh lệch giá không hề lạ lẫm gì với những ngân hàng đã từng trải qua giai đoạn thanh khoản thiếu thốn trong nhiều phân khúc thị trường khác nhau. Ngân hàng có thể trả được khoản chi phí này và đó là vấn đề tối đa hóa lợi nhuận chứ không phải vấn đề sống còn. Tuy nhiên, một đặc tính của thanh khoản là nó phải luôn có mặt vào mọi lúc, không phải trung bình và cũng không phải hầu như mọi lúc. Các khoản thanh toán phải được chi trả vào ngày đến hạn, hoặc nếu không thể trả được, ngân hàng sẽ bị xem như không có khả năng thanh khoản. Theo thống kê thì khả năng này xảy ra rất thấp. Nhưng nếu điều này xảy ra, ảnh hưởng của nó sẽ rất nghiêm trọng và có thể khai tử ngân hàng. Không có nhà quản lý nào dám nhận rủi ro như vậy, cũng không ai dám đùa giỡn với các khoản đầu tư của cổ đông. Mặc dù, ta không nên chỉ tập trung vào những trường hợp tiêu cực khi thiếu khả năng thanh khoản xảy ra. Nhưng đây là một trong những mối quan tâm chính của giám đốc tài chính (hay giám đốc thanh khoản), vì: Thứ nhất, trường hợp xấu nhất có thể xảy ra theo sau đó là không còn khả năng thanh khoản. Thật khó tưởng tượng một giám đốc tài chính có thể bỏ qua việc này. Thứ hai, nếu trường hợp này xảy ra thì việc kinh doanh sẽ gặp khó khăn, thu nhập giảm sút. Một lần nữa chắc chắn các nhà quản lý không thích điều này. Và cuối cùng, những khó khăn thanh khoản vẫn thường xuyên xảy ra dù không quá nghiêm trọng để giết chết ngân hàng nhưng vẫn đủ nguy hiểm để cản trở công việc kinh doanh trong một thời gian, khiến doanh nghiệp phải thay đổi chiến lược kinh doanh, hoặc ít ra là thay đổi các yếu tố cấu thành của chiến lược đó. Những cá nhân và ban phụ trách đảm bảo trạng thái thanh khoản phù hợp trong ngân Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 7 hàng sẽ tìm cách duy trì các loại rủi ro ở mức có thể chấp nhận được, cũng như dưới hình thức cân bằng. Nếu tính đến các mục tiêu này, bất kỳ chính sách thanh khoản nào cũng phải vừa cân nhắc việc đảm bảo nghĩa vụ thanh toán, vừa cho phép thực hiện một chiến lược kinh doanh có liên quan đến lợi nhuận tiếp sau đó. Có hai nguyên nhân giải thích tại sao thanh khoản lại có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với ngân hàng. Thứ nhất, cần phải có thanh khoản để đáp ứng yêu cầu vay mới mà không cần phải thu hồi những khoản cho vay đang trong hạn hoặc thanh lý các khoản đầu tư có kỳ hạn. Thứ hai, cần có thanh khoản để đáp ứng tất cả các biến động hàng ngày hay theo mùa vụ về nhu cầu rút tiền một cách kịp thời và có trật tự. Do ngân hàng thường xuyên huy động tiền gửi ngắn hạn (với lãi suất thấp) và cho vay số tiền đó với thời hạn dài hạn (lãi suất cao hơn) nên ngân hàng về cơ bản luôn có nhu cầu thanh khoản rất lớn. Ngoài ra thanh khoản còn ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền Thanh khoản ảnh hưởng đến lòng tin của người gửi tiền và người cho vay. Thanh khoản kém, chứ không phải là chất lượng tài sản có kém, mới là nguyên nhân trực tiếp của hầu hết các trường hợp đổ vỡ ngân hàng. 4. Một số nguyên nhân làm giảm tính thanh khoản trong ngân hàng thương mại: 4.1. Chạy theo lợi nhuận ngắn hạn: Những bài học nhẵn tiền ở nước Mỹ, châu Âu mới đây là những bài học không hề rẻ trong việc quản lý rủi ro, nhất là rủi ro thanh khoản. Lý do đơn giản giải thích cho khủng hoảng vừa qua trong hệ thống ngân hàng là lòng tham. Vì lợi nhuận trước mắt, các nhà quản lý thay vì đầu tư vào danh mục an toàn với lợi nhuận thấp như trái phiếu chính phủ để có thể trở thành vật cầm cố tại ngân hàng nhà nước bù đắp tính thanh khoản khi cần thiết; lại lựa chọn những danh mục rủi ro cao với tỷ suất sinh lợi cao tương đương, như các hợp đồng cho vay thế chấp mua nhà tại thị trường Mỹ. 4.2. Bùng nổ cho vay và sụt giá tài sản: Theo một số trường phái kinh tế, khủng hoảng ngân hàng do việc cho vay với số lượng lớn và tài trợ vốn không hiệu quả trong giai đoạn mở rộng của chu kỳ kinh doanh; một cuộc khủng hoảng xảy ra khi “bong bóng” bị nổ. Ba đặc điểm sau của những cuộc khủng hoảng gần Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 8 đây đã chứng minh cho quan điểm nói trên: cả bùng nổ cho vay của ngân hàng và giảm giá cổ phiếu thường diễn ra trước khủng hoảng ngân hàng; những nước mới nổi có dòng vốn đầu tư lớn là những nước mở rộng khu vực ngân hàng thương mại nhanh nhất; sự lạc quan quá mức về hiệu quả của cải cách chính trị tại những nước mới nổi. Quan điểm này dựa theo giả thiết rằng khó phân biệt những khoản tín dụng rủi ro thấp và những khoản tín dụng rủi ro cao khi nền kinh tế mở rộng quá nhanh bởi vì người đi vay thường có lợi nhuận và tính thanh khoản tạm thời rất cao; thay đổi đột ngột về giá tài sản cố định và cổ phiếu làm căng thẳng khủng hoảng, bởi vì tập trung cho các khoản vay quá nhiều; và giảm giá tài sản đẩy giá trị thị trường của tài sản thế chấp xuống. Tại Mỹ La Tinh cũng như một số nước công nghiệp phát triển như: Phần Lan, Nauy, Thụy Điển, Nhật Bản và Mỹ, khủng hoảng ngân hàng xảy ra sau bùng nổ cho vay. Bùng nổ cho vay dưới tiêu chuẩn của Mỹ dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính – ngân hàng năm 2008, và nghiêm trọng hơn đã lan rộng trên toàn cầu. Các ngân hàng đầu tư như Lehman Brothers tại Mỹ và các ngân hàng bán lẻ như Northern Rock tại Anh đã phải đóng cửa vào năm 2008. Tháng 2/2009, một vài ngân hàng chính của Anh như Lloyds TSB và Barcllys Bank, đã gần sụp đổ khi giá cổ phiếu giảm trầm trọng tại thị trường chứng khoán London. 4.3. Cơ cấu khách hàng và chất lượng tín dụng kém: Ngân hàng tập trung tín dụng vào một số khách hàng lớn hoặc tỷ trọng tín dụng cho một ngành, một địa phương nào đó chiếm phần lớn trong tổng dư nợ hoặc trong tổng huy động có một khách hàng chiếm tỷ trọng lớn, đến khi họ rút một cách bất ngờ thì dẫn đến rủi ro thanh khoản. 4.4. Mất cân đối trong cơ cấu tài sản: Điều này xuất phát hầu hết từ áp lực lợi nhuận ngắn hạn của cổ đông lên ban điều hành mà quên mất những nguyên tắc trong quản trị tài sản nợ và tài sản có. Trong danh mục tài sản của mình, ngân hàng có phần đầu tư vào cổ phiếu và trái phiếu, trong đó quan trọng nhất là trái phiếu chính phủ và/hoặc tín phiếu kho bạc. Trái phiếu chính phủ/tín phiếu kho bạc mặc dù lãi suất không hấp dẫn nhưng nó lại là một nguồn cực kỳ quan trọng cho ngân hàng để nhận chiết khấu từ ngân hàng nhà nước một khi thanh khoản có vấn đề. Điều này, bất cứ ngân hàng nào, đặc biệt là ngân hàng nhỏ, đều hiểu nhưng với tiềm lực tài chính yếu thì khó có thể cạnh tranh với các ngân hàng lớn hơn trong việc đấu thầu các loại tài sản trên. Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 9 4.5. Một số nguyên nhân khác: Ngoài những nguyên nhân nêu trên, chúng ta còn có thể tìm thấy những yếu tố khác, không kém phần quan trọng tác động ảnh hưởng đến tính thanh khoản ngân hàng thương mại, như: Tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống. Quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. PGS.TS. Nguyễn Thị Mùi cho rằng, “do sự yếu kém từ quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu…Ngân hàng Nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình”. Xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến “các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân hàng”. Chu kỳ kinh doanh là một tác nhân quan trọng. Theo thời vụ ở những tháng cuối năm phát sinh nhu cầu nguồn tiền lớn để các doanh nghiệp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh, quyết toán công nợ cho những doanh nghiệp khác, chi trả lương thưởng cho cán bộ nhân viên, thực hiện cam kết giải ngân cho các đối tác, giải quyết hàng tồn kho, nhập khẩu hàng hóa...tạo nên một chu kỳ căng thẳng nguồn vốn vào những tháng cuối năm. Khi ngân hàng hạn chế cho vay vào thời điểm này nên có thể có một nguyên nhân tâm lý khác, đó là việc găm giữ tiền mặt cũng như chậm thanh toán các khoản nợ đến hoặc sắp đến hạn, chấp nhận trễ hạn để tận dụng nguồn vốn vay. Điều này làm cho dòng tiền quay trở lại ngân hàng không cao mặc dù lãi suất tiếp tục tăng nóng. Rủi ro từ tính lỏng của tài sản không ổn định. Một tổ chức tài chính (ngân hàng) có thể mất khả năng thanh khoản nếu chỉ số tín nhiệm tín dụng của tổ chức này giảm sút, tổ chức này đối mặt với t ình trạng lượng tiền ra ồ ạt không dự kiến được trước hay một sự Môn: Quản trị ngân hàng GVHD: PGS.TS Trương Quang Thông 10 kiện nào đó khiến cho các đối tác không muốn giao dịch hoặc cho vay đối với tổ chức đó. Tổ chức này cũng đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu thị trường hoạt động của tổ chức này có nguy cơ mất khả năng thanh khoản. Rủi ro thanh khoản thường đi kèm với nhiều rủi ro khác. Nếu một đối tác vay tiền của ngân hàng có nguy cơ vỡ nợ thì ngân hàng sẽ phải huy động tiền từ những nguồn khác để thanh toán khoản đi vay của ngân hàng, bù đắp vào chi trả này. Nếu ngân hàng không có khả năng huy động tiền từ các nguồn khác để thanh toán khoản nợ thì chính ngân hàng này cũng phải đối mặt với rủi ro vỡ nợ. Như vậy, rủi ro thanh khoản gắn liền với rủi ro tín dụng. Và còn nhiều những nguyên nhân khác, tùy thuộc vào từng đặc điểm của từng thời kỳ và ở mỗi quốc gia, mỗi ngân hàng khác nhau. 5. Các phương pháp quản lý rủi ro thanh khoản: 5.1 Vốn điều lệ ( vốn đã được cấp, vốn đã góp): Là nguồn vốn ban đầu của ngân hàng có được khi mới hoạt động và được ghi vào bản điều lệ hoạt động của ngân hàng. Theo quy định của pháp luật, một tổ chức tín dụng để được phép hoạt động thì vốn điều lệ thực tế > vốn điều lệ tối thiểu (vốn pháp định). 5.2 Hệ số CAR (tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu): Vốn tự có CAR = x 100% Tổng tài sản “ Có” rủi ro quy đổi
Luận văn liên quan