Báo cáo Tăng Áp Tua-Bin Khí

Với những ưu điểm nổi bật của mình như tăng công suất, tăng hiệu suất cháy, giảm khí thải động cơ tăng áp ngày càng được sử dụng phổ biến. Kể từ khi Gottlieb nhận bằng phát minh sáng chế số DRP 34.926 về tăng áp cho động cơ đốt trong cưỡng bức năm 1885 cho đến nay tăng áp đã trả qua một qua trình phát triển lâu dài. 06/03/1896 Rudolf Diesel nhận bằng phát minh sáng chế sô DRP 95.680 về tăng áp cho động cơ tự bốc cháy. Phát minh chỉ ra khả năng thực hiện nén nhiều cấp trong động cơ 1 xylanh bằng cách bố trí thêm một bơm nén trước đường nạp. Tuy nhiên người đã thực sự gắn liền tên tuổi của mình với tăng áp chính là kỹ sư người Thụy Sĩ Alfred Buchi. Ngày 16/11/1905, Alfred Buchi nhận bằng phát minh sáng chế mang số DRP 204630 từ văn phòng phát minh Reich, Đức.Tuy kết cấu đầu tiên này của Alfred Buchi chưa được hoàn chỉnh nhưng cũng là nền móng cho những cải tiến sau này của ông. Càng ngày công nghệ tăng áp càng phát triển, nhất là trong vòng 3 thập kỉ trở lại đây. Kéo theo đó là hàng loạt những cải tiến trên các phương tiện vận tải. Công nghệ tăng áp động cơ đốt trong sử dụng máy nén là công nghệ tăng áp được sử dụng rất phổ biến ngày nay. Tăng áp dùng máy nén gồm 2 loại : tăng áp cơ khí (Mechanical Supercharging) và tăng áp tuabin khí (Exhaust Gas Turbocharging). Trong tăng áp cơ khí, máy nén được dẫn động từ trục khuỷu động cơ. Còn trong tăng áp tuabin khí máy nén được dẫn động nhờ tuabin tận dụng năng lượng khí xả của động cơ đốt trong. Với những kiến thức đă học và đọc thêm ở các tài liệu chuyên ngành em xin được trình bày các hiểu biết của em về công nghệ tăng áp sử dụng tuabin khí. Tuy nhiên do trình độ và kiến thức còn hạn chế nên trong thời gian làm đồ án không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận sự chỉ bảo của thầy để vốn kiến thức của em về tăng áp có thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn.

doc24 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 3143 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Tăng Áp Tua-Bin Khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài báo cáo đề tài: Tăng Áp Tua-Bin Khí MỤC LỤC Phần I: khái quát chung Các phương pháp tăng áp chủ yếu Phương pháp tăng áp tuabin khí. Tăng áp tuabin khí Bộ tuabin tăng áp Phần II: Các hệ thống tăng áp tuabin khí Các hệ thống tăng áp chính Làm mát trung gian cho không khí tăng áp Một số hư hỏng thường gặp và biện pháp khắc phục Lời kết Tài liệu tham khảo LỜI NÓI ĐẦU Với những ưu điểm nổi bật của mình như tăng công suất, tăng hiệu suất cháy, giảm khí thải động cơ tăng áp ngày càng được sử dụng phổ biến. Kể từ khi Gottlieb nhận bằng phát minh sáng chế số DRP 34.926 về tăng áp cho động cơ đốt trong cưỡng bức năm 1885 cho đến nay tăng áp đã trả qua một qua trình phát triển lâu dài. 06/03/1896 Rudolf Diesel nhận bằng phát minh sáng chế sô DRP 95.680 về tăng áp cho động cơ tự bốc cháy. Phát minh chỉ ra khả năng thực hiện nén nhiều cấp trong động cơ 1 xylanh bằng cách bố trí thêm một bơm nén trước đường nạp. Tuy nhiên người đã thực sự gắn liền tên tuổi của mình với tăng áp chính là kỹ sư người Thụy Sĩ Alfred Buchi. Ngày 16/11/1905, Alfred Buchi nhận bằng phát minh sáng chế mang số DRP 204630 từ văn phòng phát minh Reich, Đức.Tuy kết cấu đầu tiên này của Alfred Buchi chưa được hoàn chỉnh nhưng cũng là nền móng cho những cải tiến sau này của ông. Càng ngày công nghệ tăng áp càng phát triển, nhất là trong vòng 3 thập kỉ trở lại đây. Kéo theo đó là hàng loạt những cải tiến trên các phương tiện vận tải. Công nghệ tăng áp động cơ đốt trong sử dụng máy nén là công nghệ tăng áp được sử dụng rất phổ biến ngày nay. Tăng áp dùng máy nén gồm 2 loại : tăng áp cơ khí (Mechanical Supercharging) và tăng áp tuabin khí (Exhaust Gas Turbocharging). Trong tăng áp cơ khí, máy nén được dẫn động từ trục khuỷu động cơ. Còn trong tăng áp tuabin khí máy nén được dẫn động nhờ tuabin tận dụng năng lượng khí xả của động cơ đốt trong. Với những kiến thức đă học và đọc thêm ở các tài liệu chuyên ngành em xin được trình bày các hiểu biết của em về công nghệ tăng áp sử dụng tuabin khí. Tuy nhiên do trình độ và kiến thức còn hạn chế nên trong thời gian làm đồ án không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em kính mong nhận sự chỉ bảo của thầy để vốn kiến thức của em về tăng áp có thể hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cám ơn. Phần I: Khái quát chung. - Động cơ không tăng áp, trực tiếp hút không khí từ ngoài trời, do bị hạn chế về số lượng không khí hút vào xilanh nên tiềm lực nâng cao công suất động cơ không lớn. Nếu dùng một máy nén riêng để nén trước không khí rồi đưa vào xilanh động cơ xẽ có thể làm tăng mật độ không khí, qua đó làm tăng khối lượng không khí nạp vào xilanh mỗi chu trình, vì vậy xẽ có thể làm tăng công suất động cơ. Cách làm ấy được gọi là tăng áp. - Tăng áp đối với không khí đưa vào xilanh có thể làm tăng công suất động cơ rất nhiều. tuy nhiên đối với động cơ xăng khi tăng áp thường dễ gây kích nổ, tạo nên nhiều khó khăn trong sử dụng thực tế, nên rất ít dùng. Với động cơ điêden không có khó khăn trên, nên tăng áp là biện pháp cường hóa pe tốt nhất. Đặc biệt thời gian gần đây, do có tiến bộ nhanh về kĩ thuật tuabin và máy nén nên phạm vi sử dụng tăng áp ngày một mở rộng và áp suất tăng áp ngày một nâng cao làm cho không những tính năng động lực học của động cơ tốt hơn động cơ không tăng áp mà còn hạ thấp suất tiêu hao nhiên liệu. Tuy nhiên càng nâng cao mức độ tăng áp, động cơ điêden được cường hóa càng nhanh về Pe xẽ làm tăng phụ tải cơ khí cũng như phụ tải nhiệt của động cơ, do đó phải đặt ra những yêu cầu càng khắt khe khi chế tạo các chi tiết của nhóm pistong, các loại bạc trục, xupap, nắp xilanh… ngoài ra cũng đòi hỏi tạo ra hệ thống nhiên liệu mới với quy luật cấp nhiên liệu khắt khe hơn, vòi phun có áp suất cao hơn và hệ thống tăng áp tuabin khí hoàn hảo hơn. I. Các phương pháp tăng áp chủ yếu. Dựa vào nguồn năng lượng để nén không khí trước khi đưa vào động cơ, người ta chia các phương pháp tăng áp thành bốn nhóm sau: 1. Tăng áp dẫn động cơ khí.(supercharger) - truyền động từ trục khuỷu động cơ, qua bánh răng, xích hoặc dây đai dẫn động máy nén khí kiểu ly tâm, kiểu ly tâm, kiểu roto, phiến gạt hoặc kiểu trục vít… Tăng áp nhờ năng lượng khí thải.(turbocharger) - Nguồn năng lượng để nén không khí được lấy từ khí thải. nhóm này lại được chia ra hai loại: Tăng áp tuabin khí: máy nén được dẫn động bởi tuabin khí hoạt động nhờ năng lượng khí thải của động cơ. Không khí từ ngoài trời qua máy nén được nén tới áp suất cao rồi vào xilanh động cơ. Do tăng áp tuabin khí được dẫn động nhờ năng lượng khí thải, không phải tiêu thụ công suất động cơ như tăng áp cơ khí, nên có thể làm tăng tính kinh tế của động cơ, nói chung có thể giảm tiêu hao nhiên liệu khoảng 3-10%. Động cơ tăng áp cao, thường lắp két làm mát trung gian nhằm giảm nhiệt độ, qua đó nâng cao mật độ không khí tăng áp đi vào động cơ. Khi hoạt động ở những vùng cao nguyên, công suất của động cơ tăng áp tuabin khí còn tạo điều kiện giảm ồn, giảm thành phần độc hại trong khí xả, do đó loại này đang được sử dụng nhiều nhất hiện nay. Những động cơ diesel từ 35kW đến 35000kW phần lớn đều dùng tăng áp tuabin khí( tới 70-80%). Tăng áp tuabin khí Tăng áp bằng sóng khí: Khí thải của động cơ tiếp xúc trực tiếp với không khí trên đường tới xilanh, trong bộ tăng áp bằng sóng khí, để nén số không khí này trước khi được nạp vào động cơ. 3. Tăng áp hỗn hợp. - Trên một số động cơ, ngoài phần tăng áp tuabin khí còn dùng thêm một bộ tăng áp dẫn động cơ khí. Ví dụ trên động cơ hai kì, để có áp suất khí quét cần thiết khi khởi động cũng như chạy ở tốc độ thấp và tải nhỏ, phải sử dụng tăng áp hỗn hợp. tăng áp hỗn hợp được thực hiện theo hai phương án: lắp nối tiếp và lắp song song. Tăng áp nhờ hiệu ứng động của dao động áp suất. - Lợi dụng hiện tượng lưu động không ổn định của dòng khí trên đường ống dẫn, do tính giãn đoạn của các quá trình nạp, thải của động cơ gây ra bằng cách bố trí hợp lý kích thước các đường nạp và thải nhằm làm tăng không khí nạp vào xilanh mỗi chu trình. - Trong thực tế sử dụng, ngoài 4 cách tăng áp chính kể trên còn có các hệ thống tăng áp và các phương pháp tổ hợp khác thích hợp cho từng trường hợp cụ thể, thỏa mãn nhu cầu tăng áp cho động cơ. II. Phương pháp tăng áp tuabin khí. A. Tăng áp tuabin khí. 1. Công dụng - Tăng áp tuabin khí là phương án tăng áp dùng tuabin làm việc nhờ năng lượng khí xả của động cơ đốt trong để dẫn động máy nén. Khí xả của động cơ đốt trong có áp xuất và nhiệt độ rất cao nên nhiệt năng của nó tương đối lớn. muốn khí thải sinh công nó phải được dãn nở trong một thiết bị để tạo ra công cơ học. nếu để nó dãn nở trong xilanh động cơ đốt trong thì dung tích của xilanh xẽ rất lớn, làm cho kích thước của động cơ đốt trong quá lớn, nặng nề. điều này mặc dù làm tăng hiệu suất nhiệt nhưng nhưng tính hiệu quả được đánh giá bằng giá trị áp suất trung bình sẽ rất nhỏ. Để tận dụng tốt năng lượng khí xả, người ta cho nó giãn nở đến áp suất môi trường và sinh công trong cánh tuabin. - trong số năng lượng nhiệt cung cấp cho động cơ không tăng áp, chỉ có khoảng 30-40% được chuyển thành công có ích, nhiệt vật lý của khí thải đem ra ngoài trời chiếm khoảng 40-50%. Nếu dùng tuabin khí để số khí thải có nhiệt độ cao kể trên được tiếp tục giãn nở sinh công, trước khi thải ra ngoài trời và dùng công ấy để dẫn động máy nén tăng áp( tránh dùng công suất có ích của động cơ) sẽ có thể nâng cao công suất có ích và cải thiện tính kinh tế của động cơ. Tăng áp tuabin khí chính là một thiết bị thực hiện việc thu hồi một phần năng lượng của khí thải, số năng lượng thu hồi này chiếm tới 5-10% toàn bộ năng lượng nhiệt cấp cho động cơ. - Tăng áp tuabin khí vận hành bằng năng lượng thừa trên đường xả của động cơ. Cơ cấu này nén hỗn hợp nhiên liệu qua két làm mát, trộn với 1 phần khí xả và đưa chúng trở lại buồng đốt. - Buchi đưa ra ý tưởng tận dụng năng lượng động học sinh ra từ khí thải áp suất lớn để nén hỗn hợp khí nạp trước khi vào động cơ. Buchi sử dụng dòng khí thải để vận hành tua-bin, qua đó, nén dòng khí nạp trước khi vào động cơ, kỹ thuật của ông mang tên turbocharger - tăng áp tua-bin. Mặt cắt của turbocharger, màu đỏ: khí thải, màu xanh: khí nạp. 2. Cấu tạo. - Nó bao gồm một tua bin hướng trục lắp trên cùng một trục với máy nén li tâm, trục của tuabin máy nén được đỡ bởi hai ổ lăn đặt ngoài. Cụm tuabin máy nén này được trang bị bộ giảm âm rất tốt, toàn bộ vỏ, dòng khí vào và ra tuabin đều được làm mát bằng nước. - Bộ tăng áp đặt ngay sát động cơ và có cấu tạo như hình trên. Nguyên lý hình thành tăng áp dựa trên cơ sở tận dụng động năng của dòng khí xả, khi đi ra khỏi động cơ, làm quay máy nén khí. Dòng khí xả đi vào bánh tuốc bin 1, truyền động năng làm quay trục 2, dẫn động bánh 3, khí nạp được tăng áp đi vào đường ống nạp động cơ. Áp suất tăng áp khí nạp phụ thuộc vào tốc độ động cơ (tốc độ dòng khí xả hay tốc độ quay của bánh 1). Với mục đích ổn định tốc độ quay của bánh 1 trong khoảng hoạt động tối ưu theo số vòng quay động cơ, trên đường nạp có bố trí mạch giảm tải 9 (hình vẽ). Mạch giảm tải làm việc nhờ van điều tiết 6, thông qua đường khí phản hồi 7 và cụm xy lanh điều khiển 8. Khi áp suất tăng áp tăng, van 6 mở, một phần khí xả không qua bánh tuốc bin 1, thực hiện giảm tốc độ cho bánh nén khí nạp, hạn chế sự gia tăng quá mức áp suất khí nạp. B. Bộ tuabin tăng áp. a. Công dụng. - Tubin khí là thiết bị biến đổi nội năng và thế năng của chất khí thành cơ năng, quá trình biến đổi này được thực hiện nhờ có sự tác động tương hỗ giữa dòng khí và cánh tubin. Nội năng và thế năng của chất khí trước tiên được biến đổi thành động năng, sau đó là quá trình biến đổi động năng thành cơ năng (quay bánh công tác) trong tuabin. Các quá trình này được thực hiện trong vòi phun (hai cánh hướng) và bánh công tác. b. Phân loại. - bộ tuabin tăng áp gồm có hai phần chính là máy nén và tuabin khí cùng các cơ cấu phụ như bạc đỡ trục, thiết bị bao kín, các hệ thống bôi trơn và làm mát… Dựa vào dòng chảy trong tuabin khí người ta chia ra làm hai loại: tuabin tăng áp hướng trục và tuabin tăng áp hướng kính. Cả hai loại trên đều được phát trển song song. Nói chung bộ tuabin tăng áp hướng kính dùng cho những trường hợp cần lưu lượng nhỏ(đường kính ngoài của bánh công tác nhỏ hơn 180 mm) còn bộ tuabin tăng áp hướng trục dùng cho các trường hợp cần lưu lượng lớn (đường kính ngoài của bánh công tác lớn hơn 260 mm). với trường hợp đường kính ngoài của bánh công tác từ 180-260 mm, người ta dùng cả hai loại trên. 1. Bộ tuabin tăng áp hướng kính. - Dòng khí chuyển động theo hướng từ ngoài vào tâm và đi ra theo chiều trục, khí được dãn nở trong cánh dẫn hướng sau đó là bánh công tác. - Về mặt kết cấu, bánh công tác của tuabin hướng kính giống công tác của máy nén ly tâm. Dòng khí vào tubin theo chiều từ ngoài vào trong, tuy nhiên cũng có tubin hướng kính có dòng khí đi từ tâm ra. - Với sự phát triển của kĩ thuật, người ta có thể sử dụng kỹ thuật đúc để tạo ra các cánh tuabin từ vật liệu coban, niken hoặc titan cho phép sản xuất có tính công nghiệp những tuabin chiều hướng tâm và đi ra theo chiều trục, với kết cấu này bảo đảm cho dòng khí được thoát ra một cách dễ dàng. Loại tuabin này có ưu điểm vượt trội so với tuabin hướng trục khi đường kính ngoài của nó nằm trong khoảng 125-300 mm. ngày nay, tuabin hướng kính thường có đường kính dưới 160 mm. tuabin có đường kính trên 300 mm thường là tuabin hướng trục. Nếu một động cơ có cùng áp suất có ích trung bình thì khi được trang bị bằng tuabin hướng kính có nhiệt độ khí xả thấp hơn so với khi được trang bị bằng tubin hướng trục. Nhờ đó sau khi đi qua bộ tuabin tăng áp, không khí đã được nén sơ bộ trước khi đi vào động cơ. Các bộ tuabin tăng áp lưu lượng nhỏ đều dùng loại tuabin tăng áp hướng kính vì với lưu lượng nhỏ hiệu suất của tuabin hướng kính cao hơn loại hướng trục, ngoài ra còn có thêm những ưu điểm đặc biệt: quán tính nhỏ, tính tăng tốc tốt, dung tích bé và cấu tạo đơn giản. bạc đỡ trục của bộ tuabin tăng áp hướng kính đều là bạc trôi hoặc bạc trượt. 2. Bộ tuabin tăng áp hướng trục. - Bộ tuabin thường do tuabin hướng trục và máy nén ly tâm tạo nên. Nguyên lý làm việc của bộ tuabin tăng áp hướng trục cũng tương tự bộ tuabin tăng áp hướng kính do Khí cháy đi vào tuabin có thế năng cao. Khi đi vào cánh hướng của tubin sẽ được dãn nở và làm cho vận tốc khí tăng lên, hướng chuyển động dòng khí thay đổi. dòng khí được gia tốc và tác dụng lên cánh tubin sinh ra công cơ học làm quay tubin. Với đặc điểm là: lưu lượng lớn, hiệu suất cao, thích hợp với động cơ dieden cỡ lớn và cỡ vừa. Bạc đỡ trục thường dùng bạc trượt hoặc các ổ bi. - Trong một thời gian dài ở thời kì đầu của sự phát triển, tuabin hướng trục được sử dụng để tăng áp cho động cơ đốt trong vì trong thời kì này chỉ có những động cơ diesel cỡ lớn và rất lớn mới có yêu cầu tăng áp. Những động cơ này hầu hết là các động cơ mà khi chưa tăng áp đã đạt được công suất không dưới 400 mã lực. tuy nhiên, về mặt trọng lượng giá cả và kích thước của loại tuabin này là hoàn toàn không thích hợp với loại động cơ cỡ nhỏ, đặc biệt là hiệu suất của tuabin hướng trục chỉ có thể chấp nhận được khi chiều cao của cánh phải tương đối lớn, ít ra phải lớn hơn 20 mm. 3. Máy nén ly tâm. Máy nén ly tâm là dạng máy nén chủ yếu dùng trong hệ thống tăng áp tua bin máy nén cho động cơ đốt trong nhờ các ưu điểm chủ yếu sau: - Kết cấu đơn giản, trọng lượng và kích thước nhỏ. - Chăm sóc và bảo dưỡng dễ dàng, thuận tiện. - Có thể làm việc với số vòng quay lớn nên có thể cho lưu lượng lớn. - Lưu lượng củ dòng cung cấp liên tục, đếu đặn. - Bôi trơn tương đối đối đơn giản và lưu lượng bôi trơn không lớn. Máy nén ly tâm có thể là loại một tầng hoặc nhiều tầng, song do kết cấu của loại máy nén ly tâm có nhiều tầng thực chất là sự nối tiếp các máy nén ly tâm một tầng lại với nhau nên khi nghiên cứu chỉ cần để tâm đến loại máy nén ly tâm một tầng. Máy nén ly tâm có thể có một miệng hút hoặc hai miệng hút kết cấu hai miệng hút có thể cho lưu lượng khí thông qua lớn hơn. Bánh công tác hay còn gọi là roto được dẫn động từ bên ngoài. Khi roto quay, dưới tác dụng của lực ly tâm, chất khí nằm giữa cánh và đĩa chuyển đông hướng kính theo hướng từ trong ra ngoài. a.cấu tạo. - Vỏ máy gồm cả cửa hút , cửa xả - Vỏ trong - Vách ngăn - Rôto gồm trục, bánh guồng - ổ đỡ, ổ chặn - Vòng làm kín khuất khúc giữa các cấp - Bộ làm kín hai đầu trục a.1. Vỏ máy Vỏ máy là chi tiết có cấu tạo phức tạp, có khối lượng lớn, là giá đỡ cho các chi tiết khác. Trong vỏ máy có các ổ trục để đỡ các trục máy, có các áo nước để dẫn nước làm mát, có các khoang để dẫn khí. Vỏ máy được chế tạo thành 2 nửa để thuận tiện cho việc tháo lắp, tuy nhiên cũng có loại vỏ máy được chế tạo liền khối. Vỏ máy thường được chế tạo bằng gang xám hay bằng gang hợp kim. a.2. Trục máy nén ly tâm Trục để lắp các bánh công tác lên đó nhận truyền động từ động cơ dẫn động, quay với vận tốc cao để thực hiện quá trình nén khí. Trục máy được lắp vào các các ổ đỡ trên vỏ máy. Trục máy được chế tạo bằng thép hợp kim. a.3. Bánh công tác - Bánh công tác được lắp trên trục máy quay theo trục máy để làm biến đổi động năng chất khí, thực hiện quá trình nén khí, trên bánh công tác có các bánh cong. Có 3 loại bánh công tác, bánh công tác hở, bánh công tác nửa hở, bánh công tác kín. - Bánh công tác nửa hở có thể có một đầu hút và hai đầu hút. Loại bánh công tác này được dùng trong các loại máy nén có vận tốc vòng lớn hơn 300 m/s. Ở đây, thân máy nén đóng vai trò đĩa trước, cánh máy nén thường được làm bằng hợp kim nhôm và thường được chế tạo liền với đĩa. Tuy nhiên, để đơn giản cho quá trình chế tạo bánh công tác, người ta có thể chế tạo cánh thành hai phần: Phần hướng kính được làm liền với đĩa sau còn phần vào của cánh được làm riêng theo kiểu cánh dọc trục. - Bánh công tác dạng kín thường được dùng nhiều trong các máy nén nhiều tầng có vận tốc vòng nằm trong khoảng 250-300 m/s. Bánh công tác loại kín gồm có ba phần: Đĩa trước, cánh và đĩa sau thương được chế tạo như sau: Loại bánh công tác kín có cả ba phần đĩa trước, đĩa sau, cánh được đúc liền thường được sử dụng trong những máy nén có tốc độ vòng nằm trong khoảng 200-300 m/s. - Loại bánh công tác kín được làm rời từng phần sau đó lắp lại với nhau bằng đinh tán. Loại này được dùng trong các máy nén có vận tốc vòng nhỏ. Cánh công tác có thể chế tạo bằng phương pháp gò từ thép lá rồi gắn vào đĩa trước và đĩa sau bằng phương pháp hàn, đinh tán hoặc cánh có thể được phay định hình hoặc đúc liền với đĩa. - Loại cánh gò chỉ được dùng trong các máy nén có tốc độ vòng nhỏ, loại cánh được chế tạo bằng phương pháp phay định hình tuy gia công phước tạp nhưng nó cho phép giảm tổn thất dòng chảy trong bánh công tác làm cho hiệu suất của máy nén tăng. - Bánh công tác phải được lắp chặt và chính xác trên trục thông qua then, mối lắp ghép phải bảo đảm sao cho rôto làm việc bình thường ở mọi số vòng quay, đặc biệt là ở vòng quay cực đại. ngoài ra, trước khi lắp đặt, bánh công tác được cân bằng tĩnh và cân bằng động, sự cân bằng của bánh công tác phải có ý nghĩa cả khi máy nén làm việc ở vòng quay cực đại. a.4. Cánh định hướng (hay vách ngăn hay cánh tĩnh- diffusor) - Là một tấm kim loại đặt sát với bánh công tác, đóng vai trò dẫn hướng dòng khí đi từ cửa xả của cấp nén này tới cửa nạp của cấp nén kế tiếp, cánh định hướng được chế tạo bằng gang hoặc thép hợp kim. Cánh định hướng được gắn với vỏ và không quay theo trục máy. - Khí sau khi ra khỏi bánh công tác được dẫn vào diffusor có tiết diện tăng dần. theo phương trình bécnuli thì do có tiết diện tăng dần nên trong ống diffusor tốc độ dòng khí giảm dần và áp suất tăng dần, có nghĩa là động năng của dòng khí chuyển thành thế năng. Diffusor có cánh có kết cấu phức tạp nhưng lại có ưu điểm lón nhờ giảm dược tổn thất của dòng khí khi ra khỏi bánh công tác nên làm tăng hiệu suất và giam kích thước của máy nén. Cánh dẫn hướng của diffusor được gắn trên đĩa, cánh có thể đúc liền với đĩa hoặc gia công rồi gắn lên đĩa bằng vít. a.5. ống vào(ống hút). - ống vào máy nén có dạng hình trụ hoặc hình nón, có tiết diện dẹp dần nhằm tăng tốc dòng khí vào. Trong ống vào có thể lắp thiết bị hướng dòng nhằm hướng dòng khí đi vào cánh máy nén dưới một góc tối ưu nhắm tránh va đập và làm tăng hiệu suất của máy nén. a.6. ống ra. - ống ra của máy nén có 3 dạng chủ yếu: hình vòng có tiết diện không đổi, hình xoắn ốc có tiết diện tăng dần như một ống diffusor hoặc ống ra có cánh nhằm ổn định và tăng áp suất khí nén. a.7. ổ đỡ. - ổ đỡ tuabin tăng áp là chi tiết làm việc trong điều kiện tốc độ lớn, tải trọng nhẹ, nhiệt độ cao. Muốn cho ổ đỡ hoạt động tốt, có độ tin cậy cao cần đảm bảo bố trí ổ đỡ hợp lý, cần giải quyết tốt các vấn đề cân bằng động phần quay (roto) của tuabin may nén, vấn đề cấu tạo và độ chính xác chế tạo về vật liệu và lắp đặt bản thân ổ đỡ, ngoài ra cần đảm bảo đủ áp suất và lưu lượng dầu bôi trơn tạo ra màng dầu thực hiện bôi trơn làm mát cho ổ đỡ. b. Nguyên lý hoạt động. - Trước khi bơm làm việc, cần phải làm cho thân bơm (trong đó có bánh công tác) và ống hút được điền đầy chất lỏng, thường gọi là mồi bơm . - Khi bơm làm việc, bánh công tác quay, các phần tử chất lỏng ở trong bánh công tác dưới ảnh hưởng của lực ly tâm bị văng từ trong ra ngoài, chuyển động theo các máng dẫn và đi vào ống đẩy với áp suất cao hơn, đó là quá trình đẩy của bơm. Đồng thời, ở lối vào của bánh công tác tạo nên vùng có chân không và dưới tác dụng của áp suất trong bể chứa lớn hơn áp suất ở lối vào của bơm, chất lỏng ở bể hút liên tục bị đẩy vào bơm theo ống hút, đó là quá trình hút của bơm. Quá trình hút và đẩy của bơm là quá trình liên tục, tạo nên dòng chảy liên tục qua bơm. Bộ phận dẫn hướng ra (thường có dạng xoắn ốc nên còn gọi là buồng xoắn ốc) để dẫn chất lỏng từ bánh công tác ra ống đẩy được điều hòa, ổn định và còn có tác dụng biến một phần động năng của dòng chảy thành áp năng cần thiết. 4. Bộ phận làm kín (vòng bít) a . Vòng đệm kín khuất khúc (hay làm kín kiểu răng lược - labyrinth seal) Vì cánh định hướng không quay theo trục máy, do vậy giữa chúng phải có một khe hở. Để tránh hiện tượng lọt khí nén ngược lại cửa n