Báo cáo Vấn đề thực hiện không đúng hợp động trong pháp luật thực định Việt Nam

Khi được giao kết hợp pháp, hợp đồng có « hiệu lực ràng buộc thực hiện đối với các bên » (Điều 4 BLDS) và bên có nghĩa vụ “phải thực hiện nghĩa vụ của mình (.) đúng cam kết” (Điều 283 BLDS). Các bên phải thực hiện “đúng thời hạn” (Điều 285 BLDS); đối với vật đặc định họ “phải giao đúng vật đó và đúng tình trạng như đã cam kết” (Điều 289 BLDS), đối với nghĩa vụ trả tiền, họ phải trả tiền “đúng địa điểm và phương thức đã thoả thuận” (Điều 290 BLDS) và đối với nghĩa vụ thực hiện một công việc thì “phải thực hiện đúng công việc đó” (Điều 291 BLDS). Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều hợp đồng (được giao kết hợp pháp) không được thực hiện đúng như không đúng thời hạn, không đúng địa điểm, không đúng phương thức, không đúng công việc đã cam kết và vấn đề đặt ra là phải giải quyết việc không thực hiện đúng này như thế nào? Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy các đương sự cũng như Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc vận dụng các quy định hiện hành. Nhiều vấn đề pháp lý phát sinh nhưng các đương sự không biết hướng giải quyết cụ thể, nhiều bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã bị chỉnh sửa hay hủy khi vận dụng các quy định liên quan đến việc không thực hiện đúng hợp đồng. Khó khăn này một phần do các quy định hiện hành không rõ ràng, một phần do có sự chồng chéo giữa các văn bản, và một phần do một số quy định không phù hợp với đời sống xã hội. Ở nước ngoài, rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố liên quan đến không thực hiện đúng hợp đồng. Ở Việt Nam, Bộ luật dân sự và Luật thương mại hiện hành đều có quy định xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng. Về các quy định này, đã có một số công trình nghiên cứu được công bố. Tuy nhiên, các công trình này không có tính bao quát cao và không toàn diện về Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam. Trước tình hình đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học về « Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam ». Đề tài nghiên cứu cố gắng làm rõ một cách toàn diện nhất những quy định hiện hành của Việt Nam và thực tiễn xét xử của tòa án Việt Nam để tạo điều kiện cho những người quan tâm dễ tiếp cận những giải pháp liên quan đến vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng. Đề tài sẽ làm rõ những ưu và nhược điểm của pháp luật hiện hành và tìm hướng hoàn thiện các quy định này. Với mục đích như vừa nêu, đề tài sẽ nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, đánh giá Bộ luật dân sự với Luật thương mại; nghiên cứu, phân tích, đối chiếu và đánh giá các văn bản này với thực tiễn xét xử của Tòa án Việt Nam đồng thời so sánh với một số hệ thống pháp luật khác liên quan đến vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng. Khi thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp sau : Thứ nhất là phương pháp phân tích; Thứ hai là phương pháp so sánh. Bên cạnh việc phân tích, so sánh, phương pháp tổng hợp cũng được sử dụng để có tầm nhìn tổng thể trước khi đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành. Đề tài gồm nhiều chuyên đề nghiên cứu các mảng riêng được thể hiện trong Kỷ yếu Hội thảo tổ chức vào tháng 3/2010. Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục 12 bản án, đề tài còn có phần Báo cáo tổng quan được kết cấu thành 4 chương.

doc21 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1873 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Báo cáo Vấn đề thực hiện không đúng hợp động trong pháp luật thực định Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ VẤN ĐỀ KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG TRONG PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VIỆT NAM Mã số: B2008-10-11 Chủ nhiệm đề tài: Ts. Đỗ Văn Đại Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6/2010 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH BÁO CÁO TỔNG KẾT ĐỀ TÀI KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ CẤP BỘ VẤN ĐỀ KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP ĐỒNG TRONG PHÁP LUẬT THỰC ĐỊNH VIỆT NAM Mã số: B2008-10-11 Xác nhận của cơ quan chủ trì đề tài Chủ nhiệm đề tài (ký, họ tên, đóng dấu) (ký, họ tên) Tp. Hồ Chí Minh, tháng 6/2010 DANH SÁCH THÀNH VIÊN THAM GIA ĐỀ TÀI Chủ nhiệm đề tài Ts. Đỗ Văn Đại-Phó Trưởng Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh Thư ký đề tài Th.s Nguyễn Thị Lê, Giảng viên Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh Cộng tác viên - Th.s Đỗ Thành Công, Giảng viên Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh ; - Ts. Nguyễn Văn Cường, Phó viện Trưởng Viện khoa học xét xử Tòa án nhân dân tối cao ; - Ts. Nguyễn Minh Hằng, Giảng viên Trường đại học Ngoại thương (Hà Nội) ; - Cn. Nguyễn Thị Thu Hồng, Chuyên viên Tòa dân sự Tòa án nhân dân tối cao ; - Th.s Lê Minh Hùng, Giảng viên Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh ; - Th.s Trần Thị Hương, Giảng viên Khoa Luật dân sự, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh ; - Đỗ Văn Hữu, Vụ kiểm sát xét xử dân sự Viện kiểm sát nhân dân tối cao ; - Ts. Dương Anh Sơn, Giảng viên Khoa Kinh tế-Luật, Đại học quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. Mục lục BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HCM Thông tin kết quả nghiên cứu 1. Thông tin chung: - Tên đề tài: Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam - Mã số: B2008-10-11 - Chủ nhiệm: Đỗ Văn Đại - Cơ quan chủ trì: Trường ĐH Luật Tp. Hồ Chí Minh - Thời gian thực hiện: Từ tháng 06 năm 2008 đến tháng 6 năm 2010 2. Mục tiêu: - Làm rõ những quy định hiện hành của Việt Nam và thực tiễn xét xử ở Việt Nam liên quan đến việc không thực hiện đúng hợp đồng. - Làm rõ những ưu, nhược điểm của pháp luật hiện hành và tìm hướng hoàn thiện các quy định này. 3. Tính mới và sáng tạo: - Đề tài này có tính bao quát, chuyên sâu hơn các công trình đã được công bố về chủ đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam; - So với các đề tài đã được công bố, đề tài này có nhiều thông tin về thực tiễn xét xử tại Tòa án Việt Nam; - Có sự phân loại các giải pháp cho việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam; - Có nhiều kiến nghị hoàn thiện chế định hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. 4. Kết quả nghiên cứu: - Kiến nghị thống nhất pháp luật điều chỉnh việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam: + Bỏ các quy định về không thực hiện đúng hợp đồng trong Luật thương mại và các vấn đề liên quan đến không thực hiện đúng hợp đồng thương mại được BLDS điều chỉnh như các hợp đồng dân sự; + Đưa một số giải pháp về không thực hiện đúng hợp đồng trong Luật thương mại sang BLDS như BLDS không coi lỗi là căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng; quy định rõ trong BLDS cho phép bên bị thiệt hại được bồi thường khoản lợi đáng lẽ được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện đúng; quy định rõ trong BLDS cho phép bên có quyền cầm giữ giấy tờ liên quan đến tài sản và định đoạt tài sản có khả năng bị hư hỏng; quy định tiêu chí có tính khái quát cao cho phép một bên đơn phương chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng khi bên kia không thực hiện đúng hợp đồng. - Một số quy định liên quan đến không thực hiện đúng hợp đồng trong BLDS cần được bỏ, sửa đổi hay bổ sung như: + Bỏ các quy định viện dẫn đến khoản 2, Điều 305 tại Điều 438 và 700; + Mức lãi chậm trả phải cao hơn lãi suất hiện tại để có tính “răn đe” người có nghĩa vụ. Con số này có thể là 150% lãi suất cơ bản của ngân hàng Nhà nước và lãi suất cơ bản phải được xác lập trên cơ sở lãi suất trên thị trường; + Quy định cho phép giảm giá đối với tất cả các loại hợp đồng có thanh toán một khoản tiền khi tài sản hay dịch vụ không được cung cấp đúng như hợp đồng; + Cho phép hoãn thực hiện nghĩa vụ khi có nguy cơ không thực hiện đúng hợp đồng và phép hoãn thực hiện nghĩa vụ cả đối với các “quan hệ song vụ”; + Cho phép Tòa án can thiệp để giảm hay tăng mức phạt vi phạm hợp đồng nếu mức phạt theo thỏa thuận thấp hơn hay cao hơn rất nhiều so với thiệt hại thực tế. 5. Sản phẩm: 1. Kỷ yếu hội thảo về Không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam (tháng 4/2010); 2. Báo cáo tổng kết đề tài khoa học công nghệ; 3. Các bài viết đăng trên tạp chí chuyên ngành luật về đề tài Không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam; 4. Dự kiến xuất bản sách tham khảo: Biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. 6. Hiệu quả, phương thức chuyển giao kết quả nghiên cứu và khả năng áp dụng: Đề tài có thể được sử dụng trong giảng dạy luật. Các nhà lập pháp và người làm trong thực tiễn xét xử có thể tham khảo khi sửa đổi pháp luật và giải quyết các tranh chấp về không thực hiện đúng hợp đồng. Kết quả của đề tài có thể được chuyển đến người quan tâm thông qua tạp chí và việc in đề tài thành sách. Ngày 16 tháng 06 năm 2010 Cơ quan chủ trì (ký, họ và tên, đóng dấu) Chủ nhiệm đề tài (ký, họ và tên) TS. Đỗ Văn Đại MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF LAW INFORMATION ON RESEARCH RESULTS 1. General information: - Topic title: Undue performance of contract in applicable Vietnamese law - Code: B2008-10-11 - Leading researcher: Do Van Dai - Coordinator: Ho Chi Minh City University of Law - Researching period: From June 2008 to June 2010 2. Objective: - To clarify applicable provisions of Vietnamese law and judgment practice in Vietnam with respect to undue performance of contract - To clarify advantages, disadvantages of applicable law and search for the method to ameliorate such stipulations. 3. Innovativeness and creativity: - This paper is more comprehensive and profound than other research work already announced on the subject of undue performance of contract in Vietnamese law; - In comparison with other research work already announced, this paper contains much information with respect to judgment practice at Vietnamese Court; - This paper contains classification of measures to deal with undue performance of contract in Vietnamese law; - This paper contains many propositions in order to ameliorate Vietnamese contract law. 4. Research results: - Propose to unify areas of law regulating undue performance of contract in Vietnamese law: + Abolish provisions in the Commercial Law regulating undue performance of contract; issues regarding to undue performance of commercial contract should be regulated by the Civil Code like those of civil contract; + Move a number of measures dealing with undue performance of contract in the Commercial Law to the Civil Code such as: the Civil Code does not consider fault as a ground for contractual liability to compensate loss; make clear in the Civil Code that the aggrieved party shall be compensated for the profits it would gain if the contract would have been duly performed; make clear in the Civil Code that the obligee is entitled to hold documents related to assets and dispose of perishable assets; provide general criteria allowing a party to unilaterally terminate or rescind the contract if the other party fails to comply with the contract. - A number of provisions with respect to undue performance of contract stipulated in the Civil Code should be abolished, revised or supplemented, such as: + Abolish provisions at Articles 438 and 700 referring to section 2, Article 305; + The interest rate for the late amount must exceed actual interest rate to “deter” the obligor. This number may be 150% of the basic interest rate announced by the State Bank of Vietnam and the basic interest rate must be determined on the ground of interest rate available in the market. + Allow price decrease with respect to all types of contract having payment obligation when assets or services are not duly provided in accordance with the contract; + Allow a deferral of obligation performance when an undue performance of the contract is anticipated, and the right for deferral shall be also available for “bilateral relationship”; + Allow the Court to intervene in order to increase or decrease the penalty for breach of contract if the penalty as agreed is much lower or higher than actual loss. 5. Products: 1. Summary record of the seminar on Undue performance of contract in applicable Vietnamese law (April 2010); 2. Report summarizing scientific research work; 3. Articles published on law journals on the subject Undue performance of the contract in applicable Vietnamese law; 4. Reference book intended for publication: Measures to deal with undue performance of contract in Vietnamese law. 6. Effect, method to transfer research results and applicability: This research work can be used in teaching law. Legislator and persons practicing law can consider it as a reference when revising law or resolve disputes with regard to undue performance of the contract. Results of this research work can be transferred to interested persons by law journal or book publication. June 16, 2010 Cơ quan chủ trì (sign, full name, seal) Leading researcher (sign, full name) PhD. Do Van Dai Phần mở đầu Khi được giao kết hợp pháp, hợp đồng có « hiệu lực ràng buộc thực hiện đối với các bên » (Điều 4 BLDS) và bên có nghĩa vụ “phải thực hiện nghĩa vụ của mình (...) đúng cam kết” (Điều 283 BLDS). Các bên phải thực hiện “đúng thời hạn” (Điều 285 BLDS); đối với vật đặc định họ “phải giao đúng vật đó và đúng tình trạng như đã cam kết” (Điều 289 BLDS), đối với nghĩa vụ trả tiền, họ phải trả tiền “đúng địa điểm và phương thức đã thoả thuận” (Điều 290 BLDS) và đối với nghĩa vụ thực hiện một công việc thì “phải thực hiện đúng công việc đó” (Điều 291 BLDS). Tuy nhiên, thực tế cho thấy nhiều hợp đồng (được giao kết hợp pháp) không được thực hiện đúng như không đúng thời hạn, không đúng địa điểm, không đúng phương thức, không đúng công việc đã cam kết… và vấn đề đặt ra là phải giải quyết việc không thực hiện đúng này như thế nào? Thực tiễn xét xử thời gian qua cho thấy các đương sự cũng như Tòa án gặp nhiều khó khăn trong việc vận dụng các quy định hiện hành. Nhiều vấn đề pháp lý phát sinh nhưng các đương sự không biết hướng giải quyết cụ thể, nhiều bản án sơ thẩm, phúc thẩm đã bị chỉnh sửa hay hủy khi vận dụng các quy định liên quan đến việc không thực hiện đúng hợp đồng. Khó khăn này một phần do các quy định hiện hành không rõ ràng, một phần do có sự chồng chéo giữa các văn bản, và một phần do một số quy định không phù hợp với đời sống xã hội. Ở nước ngoài, rất nhiều công trình nghiên cứu đã được công bố liên quan đến không thực hiện đúng hợp đồng. Ở Việt Nam, Bộ luật dân sự và Luật thương mại hiện hành đều có quy định xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng. Về các quy định này, đã có một số công trình nghiên cứu được công bố. Tuy nhiên, các công trình này không có tính bao quát cao và không toàn diện về Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam. Trước tình hình đó, chúng tôi đã lựa chọn đề tài nghiên cứu khoa học về « Vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng trong pháp luật thực định Việt Nam ». Đề tài nghiên cứu cố gắng làm rõ một cách toàn diện nhất những quy định hiện hành của Việt Nam và thực tiễn xét xử của tòa án Việt Nam để tạo điều kiện cho những người quan tâm dễ tiếp cận những giải pháp liên quan đến vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng. Đề tài sẽ làm rõ những ưu và nhược điểm của pháp luật hiện hành và tìm hướng hoàn thiện các quy định này. Với mục đích như vừa nêu, đề tài sẽ nghiên cứu, phân tích, đối chiếu, đánh giá Bộ luật dân sự với Luật thương mại; nghiên cứu, phân tích, đối chiếu và đánh giá các văn bản này với thực tiễn xét xử của Tòa án Việt Nam đồng thời so sánh với một số hệ thống pháp luật khác liên quan đến vấn đề không thực hiện đúng hợp đồng. Khi thực hiện đề tài, chúng tôi chủ yếu sử dụng các phương pháp sau : Thứ nhất là phương pháp phân tích; Thứ hai là phương pháp so sánh. Bên cạnh việc phân tích, so sánh, phương pháp tổng hợp cũng được sử dụng để có tầm nhìn tổng thể trước khi đưa ra những kiến nghị hoàn thiện pháp luật hiện hành. Đề tài gồm nhiều chuyên đề nghiên cứu các mảng riêng được thể hiện trong Kỷ yếu Hội thảo tổ chức vào tháng 3/2010. Ngoài phần mở đầu, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục 12 bản án, đề tài còn có phần Báo cáo tổng quan được kết cấu thành 4 chương. Chương 1- Những vấn đề lý luận về không thực hiện đúng hợp đồng 1.1- Khái niệm về không thực hiện đúng hợp đồng Đối với tiêu đề của đề tài, thuật ngữ “không thực hiện đúng hợp đồng” được lựa chọn sử dụng theo nghĩa rộng. « Không thực hiện », « không thực hiện đầy đủ » (không thực hiện một phần hay có thực hiện nhưng chất lượng, địa điểm thực hiện không đúng hợp đồng), « chậm thực hiện » hợp đồng là những trường hợp không thực hiện đúng hợp đồng. Yếu tố « hợp đồng » được hiểu bao gồm « thỏa thuận » và « quy định » của pháp luật gắn liền với hợp đồng. Cụm từ « không thực hiện đúng hợp đồng » được sử dụng theo nghĩa không thực hiện đúng « thỏa thuận trong hợp đồng hoặc quy định của pháp luật » liên quan đến hợp đồng. Do đó, để có thể kết luận một hành vi thuộc trường hợp « không thực hiện đúng hợp đồng », chúng ta phải đối chiếu hành vi đó với thỏa thuận trong hợp đồng và đối chiếu hành vi này với các quy định liên quan. 1.2- Hướng xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng Khi có việc không thực hiện đúng hợp đồng thì các bên cũng như Tòa án, Trọng tài (nếu có tranh chấp) phải giải quyết, xử lý. Hiện nay Luật thương mại và BLDS có nhiều điểm không thống nhất liên quan đến không thực hiện đúng hợp đồng. Trước việc không thực hiện đúng hợp đồng, BLDS đưa ra các giải pháp như bồi thường thiệt hại và thường sử dụng thuật ngữ « trách nhiệm dân sự » còn Luật thương mại cũng đưa ra các giải pháp và sử dụng thuật ngữ « chế tài ». Luật thương mại coi « phạt vi phạm » là một loại « chế tài » khi có vi phạm còn BLDS lại không coi « phạt vi phạm » là một chế tài mà coi đó là một nội dung của « thực hiện hợp đồng ». Liên quan đến hủy hợp đồng, Luật thương mại coi đây là một « chế tài » còn BLDS không coi đây là một chế tài mà là một nội dung trong phần « chấm dứt hợp đồng dân sự ». Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông, biện pháp là « cách làm, cách giải quyết một vấn đề cụ thể ». Trong đề tài này chúng tôi sẽ nghiên cứu những giải pháp cho việc không thực hiện đúng hợp đồng, sẽ làm rõ cách giải quyết việc không thực hiện đúng hợp đồng. Do đó, « biện pháp » sẽ được sử dụng như thuật ngữ chung cho các vấn đề cụ thể mà chúng ta sẽ nghiên cứu trong các chương sau. Ở đây, buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại, đơn phương chấm dứt hay hủy bỏ hợp đồng, giảm giá, phạt vi phạm, cầm giữ tài sản... là những « biện pháp », những « cách giải quyết » cho việc không thực hiện đúng hợp đồng. Hợp đồng sinh ra để đem lại cho các bên lợi ích hợp pháp mà họ mong đợi thông qua việc thực hiện. Do vậy, khi hợp đồng không được thực hiện đúng, việc vận dụng các biện pháp do các bên thỏa thuận hay pháp luật dự liệu phải theo hướng tạo điều kiện cho các bên đạt được sự mong đợi khi họ giao kết hợp đồng. Chính vì vậy, đề tài sẽ nghiên cứu theo hướng ưu tiên biện pháp cho phép các bên đạt được lợi ích mong đợi khi họ giao kết hợp đồng : những biện pháp như buộc thực hiện đúng hợp đồng cần được ưu tiên nghiên cứu, sử dụng còn những biện pháp triệt tiêu hợp đồng như đơn phương chấm dứt, hủy bỏ không nên được khuyến khích và được nghiên cứu như biện pháp sau cùng trong những biện pháp cho việc không thực hiện đúng hợp đồng. Các biện pháp cho việc không thực hiện đúng hợp đồng rất đa dạng. Để tiện cho việc nhận thức và áp dụng, chúng tôi phân thành hai loại. Loại biện pháp thứ nhất là biện pháp do pháp luật dự liệu. Đây là những biện pháp được áp dụng mà không cần sự thỏa thuận của các bên như buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại, hoãn thực hiện hợp đồng... Loại thứ hai là biện pháp do các bên thỏa thuận cho trường hợp không thực hiện đúng hợp đồng. Đây là những biện pháp không thể áp dụng nếu không có thỏa thuận của các bên như phạt vi phạm hợp đồng, thỏa thuận miễn giảm trách nhiệm bồi thường... Chương 2- Những biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng do pháp luật dự liệu 2.1- Những biện pháp mà bên có quyền có thể sử dụng 2.1.1- Buộc tiếp tục thực hiện đúng hợp đồng Biện pháp này bảo vệ quan hệ hợp đồng và giúp các bên đạt được những lợi ích mà họ hướng đến khi giao kết hợp đồng. Trong pháp luật dân sự, biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng được thừa nhận. Tuy nhiên, các quy định này chỉ liên quan đến một số nghĩa vụ cụ thể. Về phía mình, Luật thương mại quy định áp dụng biện pháp buộc thực hiện đúng hợp đồng cho nghĩa vụ giao thiếu hàng hoặc cung ứng dịch vụ không đúng hợp đồng nên có phạm vi rất rộng. Chúng ta nên thiết kế lại các quy định tại Điều 302 và tiếp theo của BLDS với hướng ghi nhận rõ nguyên tắc chung về buộc thực hiện đúng hợp đồng như Luật thương mại hiện hành. Để nguyên tắc này hiệu quả hơn chúng ta nên bổ sung những quy phạm cho phép Tòa án áp dụng chế tài « phạt » nếu bên có nghĩa vụ vẫn không tiếp tục thực hiện hợp đồng theo quyết định của Tòa án. 2.1.2- Yêu cầu bồi thường thiệt hại Việc không thực hiện đúng hợp đồng thường làm phát sinh thiệt hại và vấn đề bồi thường thiệt hại được đặt ra. Theo Luật thương mại năm 1997, để phát sinh trách nhiệm bồi thường cần hội bốn điều kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường và một trong bốn điều kiện này là yếu tố “lỗi”. Ngày nay, yếu tố “lỗi” đã không còn là điều kiện để phát sinh trách nhiệm bồi thường trong Luật thương mại. Cụ thể, theo Điều 303 Luật thương mại năm 2005, “trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại ». Pháp luật dân sự vẫn yêu cầu yếu tố “lỗi” bên cạnh ba yếu tố khác. Có lẽ trong tương lai chúng ta nên thiết kế lại các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng. Trách nhiệm này phát sinh khi hội đủ ba điều kiện sau (nếu không thuộc trường hợp miễn trách nhiệm): Có việc không thực hiện đúng hợp đồng, có thiệt hại và có mối quan hệ nhân quả giữa thiệt hại và việc không thực hiện đúng hợp đồng. Việc không thực hiện đúng hợp đồng thường làm phát sinh thiệt hại về vật chất. So sánh với Luật thương mại, có một loại thiệt hại mà BLDS dường như không đề cập đến là “khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm” (khoản 2 Điều 302 Luật thương mại năm 2005). Nhìn chung các hệ thống luật hiện nay cho phép bồi thường những lợi nhuận đáng lẽ bên có quyền được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện. Khi có điều kiện sửa đổi BLDS, chúng ta nên bổ sung rõ ràng khả năng được bồi thường khoản lợi nhuận này như trong pháp luật thương mại. Trong khi chưa sửa đổi được BLDS về vấn đề này, chúng ta nên giải thích rộng khái niệm “thu nhập” tại Điều 307 BLDS theo hướng khái niệm này bao gồm cả “khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng nếu hợp đồng được thực hiện”. 2.1.3- Yêu cầu trả lãi chậm thanh toán Đa phần hợp đồng hiện làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền. Theo BLDS hiện hành, khi chậm trả thì bên chậm trả phải chịu lãi suất cơ bản do Ngân hàng nhà nước công bố trong khi đó lãi suất cho vay ở các ngân hàng khác lại cao hơn mức lãi suất này. Như vậy, người phải thanh toán nợ đến hạn có lợi hơn khi họ chịu lãi chậm trả so với việc họ trả đúng hạn bằng cách đi vay nơi khác. Sự thay đổi của BLDS đã quá vội vàng và cần sớm có hướng giải quyết. Theo pháp luật thương mại, lãi chậm trả là lãi quá hạn trung bình trên thị trường. Như vậy, cùng về lãi chậm trả, mức lãi rất khác nhau giữa pháp luật thương mại và pháp luật dân sự. Ch
Luận văn liên quan