Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính Việt Nam

Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, nhu cầu về vốn luôn là vấn đề quan trọng được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt đầu vào một năm tài khóa mới. Đề cập đến vấn đề này để thấy rằng việc hình thành một thị trường vốn cho phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Cho nên, việc tìm hiểu thị trường vốn hay thị trường tài chính là gì và có vai trò to lớn như thế nào đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay là điều hết sức cần thiết, nhưng chúng ta phải đặc biệt chú trọng các công cụ lưu thông trên thị trường này.Việt Nam hiện nay là một quốc gia có thị trường mới phát triển, các công cụ được du nhập vào trong nước,một số công cụ còn khá mới mẻ nhưng với tốc độ phát triển hiện này thì các công cụ này đã thể hiện được tầm quan trọng của nó trong việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng làm cho các dòng vốn được lưu thông một cách hiệu quả nhất. Nhằm làm rõ vấn đề này, tiểu luận tập trung phân tích Các công cụ tài chính chủ yếu lưu thông trên thị trường Việt Nam.

doc32 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 8527 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các công cụ phổ biến lưu thông trên thị trường tài chính Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOAN QUỐC TẾ  TIỂU LUẬN MÔN : TÀI CHÍNH TIỀN TỆ Đề tài : CÁC CÔNG CỤ PHỔ BIẾN LƯU THÔNG TRÊN THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH VIÊT NAM Giáo viên hướng dẫn: Đặng Trí Thọ Nhóm SV thực hiện: Trịnh Trung Cương (27) Vũ Hồng Chuyên (24) Đỗ huy Diện (39) Hà nội, 6-2009 Mục lục Lời nói đầu…………………………………………………………………..3 Chương I:các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ…………………4 Tín phiếu kho bạc………………………………………………….....4 Kỳ phiếu thương mại…………………………………………………7 Hợp đồng mua lại…………………………………………………….12 Chương II: Các công cụ lưu thông trên thị trường vốn…………………..15 I .Khái niệm………………………………………………………………..15 II.Các công cụ chủ yếu lưu thông tại Viện Nam hiện nay…………...….15 Trái phiếu……………………………………………………...……16 Cổ Phiếu…………….………………………….………..……………22 Các khoản vay thế chấp…………………………………………...…25 Các khoản vay thương mại và tiêu dùng………………………..….28 Kết luận…………………………………………………………………...32 Lời nói đầu Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam, nhu cầu về vốn luôn là vấn đề quan trọng được ưu tiên hàng đầu trước khi bắt đầu vào một năm tài khóa mới. Đề cập đến vấn đề này để thấy rằng việc hình thành một thị trường vốn cho phát triển kinh tế xã hội là vô cùng quan trọng. Cho nên, việc tìm hiểu thị trường vốn hay thị trường tài chính là gì và có vai trò to lớn như thế nào đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay là điều hết sức cần thiết, nhưng chúng ta phải đặc biệt chú trọng các công cụ lưu thông trên thị trường này.Việt Nam hiện nay là một quốc gia có thị trường mới phát triển, các công cụ được du nhập vào trong nước,một số công cụ còn khá mới mẻ nhưng với tốc độ phát triển hiện này thì các công cụ này đã thể hiện được tầm quan trọng của nó trong việc cung cấp vốn cho hoạt động sản xuất và tiêu dùng làm cho các dòng vốn được lưu thông một cách hiệu quả nhất. Nhằm làm rõ vấn đề này, tiểu luận tập trung phân tích Các công cụ tài chính chủ yếu lưu thông trên thị trường Việt Nam. CHƯƠNG I Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ Thị trường tiền tệ là thị trường mua bán các chứng khoán nợ ngắn hạn ( short-term debt securities) có thời gian luân chuyển vốn không quá 1 năm. Vấn đề chủ yếu mà những người cho vay trên thị trường tiền tệ quan tâm là an toàn và tính thanh khoản để có thể rút vốn ngay khi cần. Do đó các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ (các phương tiện giúp thị trường tài chính lưu chuyển vốn trong ngắn hạn) có đặc điểm chung là kỳ hạn thanh toán ngắn, tính thanh khoản cao và và độ rủi ro thấp. Các công cụ lưu thông trên thị trường tiền tệ khá đa dạng như kỳ phiếu thương mại (thương phiếu), khế ước giao hàng, tín phiếu kho bạc, tín phiếu của các công ty tài chính, chứng chỉ tiền gửi tiết kiệm, kỳ phiếu ngân hàng,quỹ liên bang…, tuy nhiên do khuôn khổ bài tiểu luận, chúng em chỉ trình bày về 3 loại công cụ chủ yếu đó là : tín phiếu kho bạc (Treasury bills), kỳ phiếu thương mại (thương phiếu-commercial paper) và hợp đồng mua lại (Repurchase agreement – Repo) 1. Tín phiếu kho bạc (Treasury bills; T-bills) a. Khái niệm Tín phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn do Bộ Tài chính (Kho bạc) phát hành để tài trợ cho những khoản chi tiêu tức thời, các thâm hụt ngắn hạn thường xuyên của chính phủ hoặc tài trợ các khoản nợ đến hạn. b. Kỳ hạn thanh toán Tín phiếu kho bạc có kỳ hạn thanh toán khoảng 1 năm hoặc ngắn hơn (thông thường có các kỳ hạn 3,6, 12 tháng).Tín phiếu kho bạc được bán theo định kỳ hàng tuần (Regular weekly T-bills) thường được phát hàn với thời hạn là 28 ngày ( tương đương 4 tuần hoặc 1 tháng), 91 ngày (tương đương 13 tuần hoặc 3 tháng), 182 ngày ( 26 tuần hoặc 6 tháng), 364 ngày (52 tuần hoặc 1 năm) thông qua các cuộc đấu giá đơn giá được tổ chức hàng tuần. c. Đặc điểm của tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc phát hành theo từng lô qua Ngân hàng Nhà nước được thực hiện dưới hình thức đấu thầu (Ngân hàng nhà nước đứng ra làm cơ quan tổ chức bán số tín phiếu ấy ra ngoài thông qua thị trường mở dưới hình thức đấu thầu) .Ngân hàng Nhà nước là cơ quan đại lý cho Bộ Tài chính trong việc phát hành, thanh toán tín phiếu khi đến hạn, tổ chức và quản lý đấu thầu tín phiếu Kho bạc.Việc tổ chức và giám sát thị trường thứ cấp (mua bán lại tín phiếu sau khi đấu thầu) do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện Tín phiếu Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông qua đấu thầu có hình thức và đặc điểm như sau Tín phiếu kho bạc thuộc loại chứng khoán chiết khấu. Giống như trái phiếu chiết khấu, đây là loại chứng khoán không được nhà phát hành trả lãi trước khi đáo hạn (interest prior to maturity) song lại được bán với giá chiết khấu tức là giá thấp hơn mệnh giá (par value hay face value). Khi đáo hạn, nhà đầu tư được nhận lại đủ mệnh giá vì vậy phần chênh lệch giữa mệnh giá chứng khoán và giá mua chứng khoán chính là lãi của nhà đầu tư (lợi tức tính đến ngày đáo hạn (Yield To Maturity). Lợi tức chiết khấu được tính theo công thức: Lợi tức chiết khấu (%) = (Mệnh giá – Giá bán)/Giá bán * (360/Số ngày đến khi đáo hạn)* 100% Thu và thanh toán bằng đồng Việt Nam. Có mệnh giá tối thiểu là 1.000.000 đồng (một triệu đồng ); các mệnh giá cụ thể cao hơn do Liên Bộ Ngân hàng Nhà nước - Tài chính quy định và công bố trong thông báo phát hành Tín phiếu được phát hành dưới hình thức ghi sổ và chứng chỉ tín phiếu. - Đối với hình thức ghi sổ: Do Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn và quản lý sổ sách. - Đối với hình thức chứng chỉ tín phiếu: Ngân hàng Nhà nước in theo mẫu do Bộ Tài chính quy định. Việc đấu thầu tín phiếu là đấu thầu lãi suất.- Tín phiếu Kho bạc đấu thầu qua Ngân hàng Nhà nước được thực hiện theo những nguyên tắc sau: -Bí mật mọi thông tin đấu thầu trước khi công bố kết quả đấu thầu. - Tổ chức đấu thầu công khai , bình đẳng về mọi quyền lợi và nghĩa vụ giữa các đơn vị đấu thầu -Đơn vị trúng đấu thầu có quyền hạn và trách nhiệm mua tín phiếu theo khối lượng và lãi suất trúng thầu được thông báo. Các Đối tượng tham gia đấu thầu tín phiếu Kho bạc bao gồm: Các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam: Các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân hàng thương mại cổ phần, Ngân hàng đầu tư và phát triển; Ngân hàng liên doanh; chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và các Công ty tài chính; Các Công ty bảo hiểm, quỹ bảo hiểm, quỹ đầu tư Xác định khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc trúng thầu: Việc xác định khối lượng và lãi suất tín phiếu Kho bạc trúng thầu căn cứ vào: -Khối lượng và lãi suất đặt thầu của các thành viên. -Khối lượng tín phiếu Kho bạc dự kiến huy động và lãi suất chỉ đạo. -Khối lượng tín phiếu Kho bạc trúng thầu được tính theo thứ tự tăng lên của lãi suất -đặt thầu trong phạm vi lãi suất chỉ đạo. -Tại mức lãi suất đặt thầu cao nhất trong phạm vi lãi suất chỉ đạo có khối lượng tín phiếu đặt thầu vượt quá khối lượng tín phiếu dự kiến huy động thì khối lượng tín phiếu trúng thầu sẽ được phân chia cho mỗi phiếu đặt thầu theo tỷ lệ thuận với khối lượng tín phiếu đặt thầu của từng phiếu tại mức lãi xuất đó. -Lãi xuất phát hành tín phiếu là lãi xuất trúng thầu cao nhất được áp dụng chung cho tất cả các đối tượng trúng thầu. Ngoài khối lượng tín phiếu Kho bạc được phát hành qua Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính còn được tiếp tục phát hành một khối lượng nhất định tín phiếu Kho bạc để bán lẻ trực tiếp cho dân chúng. Các loại tín phiếu Kho bạc do hệ thống Kho bạc trực tiếp phát hành phải có mẫu chứng chỉ khác với mẫu chứng chỉ tín phiếu Kho bạc phát hành qua Ngân hàng Nhà nước thông qua đấu thầu. Mức lãi suất tín phiếu Kho bạc bán lẻ qua hệ thống Kho bạc Nhà nước do Bộ Tài chính quy định sau khi có sự thống nhất của Ngân hàng Nhà nước và phù hợp với mặt bằng lãi suất thị trường. Như vậy ta có thể thấy được tín phiếu kho bạc không chỉ để bù đắp thiếu hụt ngân sách nhà nước mà còn là một công cụ quan trọng để ngân hàng nhà nước điều hành chính sách tiền tệ. 2 . Kỳ phiếu thương mại (Thương phiếu) Khái niệm Trong thực tế, do có sự khác biệt về chu kỳ sản xuất – kinh doanh giữa các doanh nghiệp, nên việc thừa vốn ở doanh nghiệp này và thiếu vốn ở doanh nghiệp khác là hiện tượng phổ biến và có tính tất yếu. Trong điều kiện thành phẩm của doanh nghiệp thừa vốn lại là nguyên, nhiên, vật liệu của doanh nghiệp thiếu vốn, nếu quan hệ mua bán chịu được thực hiện trong một thời hạn nhất định thì cả hai đều có lợi. Đó chính là quan hệ tín dụng thương mại.  Để đảm bảo người mua chịu trả nợ khi đúng hạn, bên cạnh sự tin tưởng, người bán chịu còn đòi hỏi phải có một chứng cứ pháp lý, đó chính là tờ giấy chứng nhận quan hệ mua bán chịu nêu trên, tờ giấy chứng nhận này có thể do chủ nợ lập để đòi tiền, hoặc do con nợ lập để cam kết trả tiền, nó được gọi là “kỳ phiếu thương mại” hay “thương phiếu”.   Vì vậy, thương phiếu ra đời trên cơ sở quan hệ mua bán chịu giữa các chủ thể trong nền kinh tế. Trong quá trình phát triển, thương phiếu dần dần biến đổi tính chất, từ một giấy chứng nhận nợ thông thường đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng có thể thực hiện được chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán thay thế cho tiền mặt trong nền kinh tế.  Vậy thương phiếu là những giấy nhận nợ ngắn hạn do các công ty lớn phát hành để vay vốn ngắn hạn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh Phân loại Thương phiếu tồn tại dưới 2 hình thức là hối phiếu và lệnh phiếu:  Hối phiếu là chứng chỉ có giá do người bán chịu lập, yêu cầu người mua chịu trả một số tiền xác định vào một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.  Lệnh phiếu là chứng chỉ có giá do người mua chịu lập, cam kết trả một số tiền xác định trong một thời gian và ở một địa điểm nhất định cho người thụ hưởng.  Như vậy, hối phiếu là lệnh đòi tiền do chủ nợ lập và chỉ sử dụng trong quan hệ thương mại, còn lệnh phiếu thì do người mua chịu lập, được sử dụng không chỉ trong quan hệ thương mại mà còn trong các quan hệ dân sự khác.  Tính chất của thương phiếu Thương phiếu có 3 tính chất:  tính trừu tượng: Trên thương phiếu không ghi cụ thể nguyên nhân phát sinh khoản nợ mà chỉ ghi các thông tin về số tiền phải trả, thời hạn trả tiền và người trả tiền.  tính bắt buộc: Qui định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc trì hoãn việc trả tiền.  tính lưu thông: Thương phiếu được chuyển nhượng từ người thụ hưởng sang người khác bằng phương pháp ký hậu, nó có thể chuyển hoá ra tiền khi mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. tính chất này khiến thương phiếu trở thành một loại phương tiện thanh toán thay cho tiền trong thời gian hiệu lực và mệnh giá thương phiếu.  Ích lợi và nhược điểm của thương phiếu Những ích lợi của thương phiếu khi vận dụng vào thực tế:  Có thể kể ra một số lợi ích kinh tế chủ yếu của thương phiếu:  Thứ nhất, nhờ vào tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ,  Thứ hai, nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp.  Thứ ba, thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại NHNN để khôi phục nguồn vốn của mình.   Thứ tư, thương phiếu bổ sung hàng hoá cho thị trường mở, tạo điều kiện cho ngân hàng trung ương thực hiện tốt công tác điều hoà khối tiền trong lưu thông.  Thứ năm, trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.  Và cuối cùng, thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.  Tuy nhiên, thương phiếu khi vận dụng vào thực tế cũng có những nhược điểm nhất định như:  Nhược điểm thứ nhất, do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.  Nhược điểm thứ hai, với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.  Nhược điểm thứ ba, quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.  Tuy vậy, do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân hàng nên những khiếm khuyết nêu trên của tín dụng thương mại và của sự vận dụng thương phiếu sẽ giảm đến mức xem như không đáng kể.  Những ích lợi kinh tế nêu trên khi đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế thì đã quá rõ, thế nhưng trong thời gian qua, thương phiếu và các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu vẫn chưa đi vào đời sống kinh tế ở Việt Nam vì những lý do chủ yếu như sau:   - Các chủ thể tham gia vào nghiệp vụ thương phiếu (Người bán chịu hàng hoá, người được chuyển nhượng thương phiếu, ngân hàng bảo lãnh…) chưa thật sự có lòng tin đối với thương phiếu và khả năng chuyển hoá ra tiền của thương phiếu khi đến hạn.  - Ngân hàng Nhà nước vẫn chưa có những thông tư hướng dẫn cụ thể về việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu, chưa ban hành mẫu biểu cụ thể cho thương phiếu để nó có thể trở thành một công cụ lưu thông tín dụng pháp định có thể thay thế cho tiền mặt trong lưu thông  - Pháp lệnh thương phiếu vẫn còn nhiều điểm chưa rõ ràng nên tính khả thi vẫn còn kém.  Giải pháp  Những giải pháp để đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt Nam trong thời gian trước mắt:  Giải pháp thứ nhất, nhanh chóng tạo dựng một hành lang pháp lý cho sự tồn tại và cho việc thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu được an toàn và thuận lợi. Mặc dù Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh thương phiếu có hiệu lực thi hành từ ngày 1.7.2000 và Chính Phủ đã ban hành nghị định 32/2001/NĐ -CP ngày 5.7.2001 hướng dẫn thi hành pháp lệnh trên nhưng vẫn còn nhiều bất cập như chưa rõ ràng, thiếu cụ thể, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế…  Giải pháp thứ hai, tổ chức tuyên truyền, phổ biến, thảo luận về thương phiếu và ích lợi của thương phiếu đến các doanh nghiệp, là những chủ thể chủ yếu trong quan hệ thương phiếu.  Giải pháp thứ ba, nâng cao hiệu lực hoạt động của Trung tâm thông tin tín dụng (CIC) dể có thể cung cấp chính xác và kịp thời năng lực chi trả, uy tín của các doanh nghiệp có nghĩa vụ thanh toán thương phiếu, đảm bảo quyền lợi của người thụ hưởng.  Giải pháp thứ tư, trong thời gian đầu Nhà nước cần có những ưu đãi hợp lý cho các doanh nghiệp cũng như các Tổ chức tín dụng có tham gia vào quan hệ thương phiếu.  Và cuối cùng, Ngân hàng Nhà nước phải gấp rút ban hành các thông tư hướng dẫn để các ngân hàng có thể mạnh dạn thực hiện các nghiệp vụ liên quan đến thương phiếu như bảo lãnh, chiết khấu và cầm cố thương phiếu. ngân hàng Nhà nước cũng phải nhanh chóng ban hành mẫu biểu cho thương phiếu, ban hành Luật về các công cụ chuyển nhượng…   Trên đây chỉ là một số giải pháp cơ bản được đưa ra, tuy nhiên, nếu thực hiện được, thì việc đưa thương phiếu vào đời sống kinh tế ở Việt Nam chắc chắn sẽ trở thành hiện thực 3. Hợp đồng mua lại a.. Khái niệm Hợp đồng mua lại (repurchase agreement hay repo hay Sale and Repurchase Agreement) cho phép người đi vay sử dụng một số chứng khoán tài chính như vật thế chấp cho 1 khoản vay tiền mặt với 1 mức lãi suất nhất định. Trong một hợp đồng mua lại, người đi vay thoả thuận sẽ bán cho người cho vay một số chứng khoán và kèm theo điều khoản mua lại số chứng khoán trên sau 1 khoảng thời gian nhất định(thường không quá 2 tuần) tại một mức giá cố định (cao hơn mức giá bán đi) . Một hợp đồng mua lại tương đương với một sự chuyển giao tiền mặt cộng với 1 hợp đồng kỳ hạn (forward contract).Kết quả của việc chuyển giao này la việc tiền mặt được chuyển đến người đi vay và việc chuyển chứng khoán hợp pháp đến người cho vay trong khi hợp đồng kỳ hạn đảm bảo việc hoàn trả khoản vay tới người cho vay và trả lại tái sản thế chấp cho người đi vay(là sốchứng khoán đã bán đi). Điểm khác biệt giữa giá giao sau (forward price) và giá chi trả ngay lập tức (spot price) là lãi suất của khoản vay, trong khi ngày chi trả của hợp đồng kỳ hạn chính là ngày đáo hạn của khoản vay. b. Cấu trúc và thuật ngữ Về phương diện kinh tế, một hợp đồng mua lại tương tự như một khoản vay được bảo đảm, với việc người mua nhận được một số chứng khoán như vật thế chấp khi người đi vay không có khả năng thanh toán khoản nợ. Trong hợp đồng mua lại hầu hết các loại chứng khoán đều có thể dùng làm vật thế chấp chẳng hạn như tín phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ và trái phiếu công ty, cổ phiếu (là những khoản vay không có thế chấp).Tuy nhiên, quyền sở hữu lại chuyển trực tiếp từ người bán đến người mua (nhà đầu tư).Cu-pon (khoản tiền thanh toán định kỳ trả cho người chủ sở hữu của chứng khoán) vẫn được trả trực tiếp cho người bán. Điều này có lẽ ngược so với trực giác thông thường khi quyền sở hữu chứng khoán thuộc về người mua trong suốt thời gian của thoả thuận.Để thay cho việc cupon chuyển đến người bán thì 2 bên có thể thoả thuận về khoản tiền thanh toán khi kết thuc hợp đồng khi đó cupon có thể được chuyển đến người mua. Mặc dù bản chất bên trong của việc chuyển giao chứng khoán này chính là một khoản vay nhưng repo vẫn khác biệt so với khoản vay thông thường bởi vì người bán sẽ thực sự mua lại quyền sỡ hữu hợp pháp của số chứng khoán đó sau khi kết thúc hợp đồng. Vì vậy mặc dù tác dụng của toàn bộ việc chuyển giao này giống hệt như của 1 khoản vay tiền mặt thế nhưng điều được chú trọng ở đây chính là việc chuyển quyền sở hữu hợp pháp hiện thời của chứng khoán thế chấp bởi các bên tương ứng (thông qua việc sử dụng thuật ngữ “mua lại”) Phân biệt giữa hợp đồng mua lại (Repo) và hợp đồng mua lại đảo ngược (Reverse repo)  Repo  Reverse repo   Người tham gia  Người đi vay Người bán Người nhận tiền  Người cho vay Người mua Người cung tiền   Giai đoạn đầu  Bán chứng khoán  Mua chứng khoán   Giai đoạn sau  Mua chứng khoán  Bán chứng khoán   (Trong hợp đồng mua lại đảo ngược, người cho vay sẽ đề nghị mua một số chứng khoán với 1 mức giá cho trước và có thoả thuận bán lại số chứng khoán đó với mức giá cao hơn ) c. Các loại hợp đồng mua lại Có 3 loại thời gian đáo hạn của hợp đồng mua lại : qua đêm, theo định kỳ và đáo hạn mở. Đáo hạn qua đêm có thời gian đáo hạn của việc chuyển giao là 1 ngày. Đáo hạn theo định kỳ ứng với hợp đồng mua lại có ngày đáo hạn nhất định được định sẵn . Đáo hạn mở không có ngày kết thúc hợp đồng. Mặc dù hợp đồng đáo hạn thông thường là trong ngắn hạn (thường không quá 2 tuần), nhưng cũng có những hợp đồng đáo hạn với thời hạn khoảng 2 năm. Việc giao dịch hợp đồng đáo hạn thường xảy ra dưới các dạng sau: cung ứng trên danh nghĩa, hợp đồng đáo hạn qua đêm và hợp đồng đáo hạn được uỷ thác trong đó loại thứ 3 khá ít thấy trong những thị trường đang phát triển vì rủi ro cao. Các +) 1 Hợp đồng mua lại được giám hộ (Due bills, held in custody bills) Trong hợp đồng mua lại được uỷ thác, vật thế chấp được cầm cố bởi người mua không trực tiếp được chuyển giao tới người cho vay mà được chuyển vào một tài khoản nội bộ (held in custody) bởi người đi vay dành cho người cho vay trong suốt quá trình của hợp đồng. Tuy nhiên khi thị trường càng phát triển thì hình thức này ngày càng ít trở nên phổ biến +) Hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 ( Tri-party Repo) Đặc trưng của hợp đồng mua lại có sự tham gia của bên thứ 3 đó chính là có sự tham gia của 1 ngân h