Các khâu đột phá chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020

Trong 10 năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về qui mô và t ốc độ tăng trưởng xuất khẩu, trong bối cảnh cịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh t ế toàn cầu, chúng ta vẫn duy tr ì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao trong năm 2010 (tăng 24% so với năm 2009). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém tr ên cả phương diện chất lượng tăng trư ởng, cơ cấu xuất và nhập khẩu, thể chế xuất nhập khẩu và hạ tầng phát triển xuất nhập khẩu. Những hạn chế yéu kém không chỉ k ìm hãm, c ản trở s ức phát triển xuất nhập khẩu nói riêng, nền kinh tế nói chung trong ngắn hạn mà còn c ả trong dài hạn. Thậm chí, nếu không kịp thời tháo gỡ, chuyển đổi, có thể sẽ dẫn đến càng tăng trưởng nhanh thì lợi ích quốc gia ngày càng bị xói mòn, tài nguyên b ị cạn kiệt và không thể phát triển bền vững trong dài hạn. Vì thế, việc nghiên cứu để lựa chọn đúng khâu đột phá chiến lược nhằm tháo gỡ những cản trở, ngăn chặn những nguy c ơ, đón bắt được thời cơ để phát triển nhanh và bền vững lĩnh vực xuất nhập khẩu của nước ta sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ chiến l ược 2011 – 2020. Chuyên đề nghiên cứu này được thực hiện nhằm góp phần thực hiện mục tiêu quan tr ọng đó. Nội dung chuyên đề được trình bày thành 3 phần : I. Những hạn chế, yếu kém nhất trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá của nước ta hiện nay. II. Các khâu đ ột phá chiến lược để phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới 2020.

pdf26 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1766 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Các khâu đột phá chiến lược phát triển xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam thời kỳ 2011 - 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BỘ CÔNG THƯƠNG DỰ ÁN HỖ TRỢ THƯƠNG MẠI ĐA BIÊN EU – VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CB - 2A “HỖ TRỢ BỘ CÔNG THƯƠNG XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU THỜI KỲ 2011 - 2020”. BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ CÁC KHÂU ĐỘT PHÁ CHIẾN LƯỢC PHÁT TRIỂN XUẤT NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ CỦA VIỆT NAM THỜI KỲ 2011 - 2020 CN. Vũ Huy Hùng Viện Nghiên cứu thương mại - Bộ Công Thương Hà Nội, 11 - 2010 1 LỜI MỞ ĐẦU Trong 10 năm qua, nước ta đã đạt được nhiều thành tựu về qui mô và tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, trong bối cảnh cịu tác động mạnh của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, chúng ta vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng xuất khẩu khá cao trong năm 2010 (tăng 24% so với năm 2009). Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu, xuất nhập khẩu của nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém trên cả phương diện chất lượng tăng trưởng, cơ cấu xuất và nhập khẩu, thể chế xuất nhập khẩu và hạ tầng phát triển xuất nhập khẩu. Những hạn chế yéu kém không chỉ kìm hãm, cản trở sức phát triển xuất nhập khẩu nói riêng, nền kinh tế nói chung trong ngắn hạn mà còn cả trong dài hạn. Thậm chí, nếu không kịp thời tháo gỡ, chuyển đổi, có thể sẽ dẫn đến càng tăng trưởng nhanh thì lợi ích quốc gia ngày càng bị xói mòn, tài nguyên bị cạn kiệt và không thể phát triển bền vững trong dài hạn. Vì thế, việc nghiên cứu để lựa chọn đúng khâu đột phá chiến lược nhằm tháo gỡ những cản trở, ngăn chặn những nguy cơ, đón bắt được thời cơ để phát triển nhanh và bền vững lĩnh vực xuất nhập khẩu của nước ta sẽ có ý nghĩa rất quan trọng trong thời kỳ chiến lược 2011 – 2020. Chuyên đề nghiên cứu này được thực hiện nhằm góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng đó. Nội dung chuyên đề được trình bày thành 3 phần : I. Những hạn chế, yếu kém nhất trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hoá của nước ta hiện nay. II. Các khâu đột phá chiến lược để phát triển xuất nhập khẩu của Việt Nam thời kỳ tới 2020. 2 III. Một số giải pháp thực hiện các khâu đột phá chiến lược. Dưới đây là nội dung chuyên đề. 3 I.- NHỮNG HẠN CHẾ, YẾU KÉM NHẤT TRONG LĨNH VỰC XUẤT NHẬP KHẨU CỦA NƯỚC TA HIỆN NAY 1. Chất lượng tăng trưởng xuất nhập khẩu thấp, cơ cấu lạc hậu, chi phí xuất khẩu cao, hiệu quả thấp. - Khả năng cạnh tranh của nhiều hàng hoá còn thấp do giá thành cao, chất lượng còn kém, mẫu mã chưa phù hợp với nhu cầu thị trường. Hàm lượng kỹ thuật công nghệ trong sản phẩm xuất khẩu còn thấp, tăng chậm. Tỷ trọng của nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao và trung – cao chỉ tăng từ 7,1% trong năm 2000 lên 11,3% trong năm 2005 và ước khoảng 14 – 15% trong năm 2010, còn lại là hàng công nghệ thấp và trung - thấp. Đến năm 2010, riêng nhóm hàng có hàm lượng công nghệ cao mới chiếm khoảng 8 – 9% tổng kim ngạch xuất khẩu, thấp hơn nhiều các nước trong khu vực (năm 2008, chỉ số này của Indonexia là 14%, Trung Quốc: 34%, Thái Lan: 30%; Hàn Quốc: 37%, Singaore: 57%, Malyxia: 58%). Khoảng 27% kim ngạch xuất khẩu là hàng công nghiệp chế tạo công nghệ thấp. - Xuất khẩu đang là một trong những động lực chính của tăng trưởng kinh tế, nhưng mô hình tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam vẫn đang phụ thuộc chủ yếu vào nguyên liệu thô và các ngành gia công, chế biến có chi phí cao, lệ thuộc vào đầu nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp, dễ gây ô nhiễm môi trường, tiêu tốn ngoại tệ và nhìn chung là hiệu quả thấp. - Cơ cấu xuất khẩu chậm chuyển dịch theo hướng hiện đại, tỷ trọng nhóm hàng chế biên, chế tạo tăng rất chậm từ 46,7% trong năm 2001 lên 50,7% trong năm 2005, 53,4% trong năm 2009, ước đạt 55% trong năm 2010 (bình quân mỗi năm chỉ tăng được gần 1 điểm phần trăm). Tỷ trọng của nhóm hàng thô và sơ chế giảm rất chậm, tư 45,3% trong năm 2001 xuống 46,6% trong năm 2009 và ước còn 45% trong năm 2010. Riêng tỷ trọng của nhóm nguyên nhiên liệu và khoáng sản giảm từ 23,9% trong năm 2001 xuống 11% vào năm 2010. Khoảng 60% kim ngạch xuất khẩu của nhóm hàng nông sản là sản phẩm chưa qua chế biến. Xuất khẩu dịch vụ năm 2010 đạt 7 tỷ USD, trong 4 đó sản phẩm dịch vụ có giá trị gia tăng cao (tài chính – ngân hàng, bảo hiểm, bưu chính viễn thông ...) chỉ chiếm 5 – 6%. - Chất lượng tăng trưởng xuất khẩu rất thấp. Giá trị tăng của hàng công nghiệp chế tạo xuất khẩu chỉ đạt khoảng 25 – 30%, hàng nông sản và khoáng sản xuất khẩu khoảng 50% (nếu tính giá trị gia tăng quốc gia, tức là phần giá trị tăng thêm người Việt Nam thực tế được hưởng thì tỷ lệ này còn thấp hơn, do các doanh nghiệp FDI chiếm trên 50% kim ngạch xuất khẩu, và một phần không nhỏ giá trị gia tăng này được nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước). Ta chưa thực hiện thành công một số khâu đột phá tăng trưởng xuất khẩu. Hàng điện tử và tin học chưa thực hiện được vai trò hạt nhân tăng trưởng của nhóm sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, năm 2009 chỉ đạt kim ngạch 2,76 tỷ USD, năm 2010 ước đạt khoảng 3,2 tỷ USD, chiếm 3,9% kim ngạch xuất khẩu. Hàng thực phẩm chế biên cũng chỉ đạt khoảng 300 triệu USD trong năm 2010, chiếm 0,42% kim ngạch xuất khẩu. - Trong nhóm hàng chế biến, chế tạo xuất khẩu, tỷ trọng của hàng gia công còn chiếm phần lớn, tỷ lệ nội địa hoá rất thấp. Một số ngành sản phẩm xuất khẩu chủ lực còn phụ thuộc phần lớn vào nguyên vật liệu , phụ liệu của nước ngoài: Sản phẩm điện tử khoảng 90%, sản phẩm gỗ khoảng 75%, sản phẩm dệt may và da giày khoảng 70%, sản phẩm nhựa khoảng 55%, sản phẩm hoá chất khoảng 805, sản phẩm thép khoảng 50%. Giá trị ngoại tệ thực thu của phần lớn các ngành sản phẩm công nghiệp chế biến xuất khẩu chỉ khoảng 20 – 30% doanh thu xuất khẩu; một số ngành rất thấp như điện tử, tin học chỉ khoảng 5%. - Cơ cấu nhập khẩu còn một số hạn chế, bất hợp lý, chưa chú trọng đáp ứng yêu cầu tăng cường phần cốt lõi của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tỷ trọng của nhóm máy móc, thiết bị, phương tiện và công nghệ - yếu tố hàng đầu để tăng năng lực sản xuất và hình thành sức cạnh tranh của sản phẩm - lại có xu hướng giảm liên tục từ 25,1% trong tổng kim ngạch nhập khẩu của năm 2003 xuống 14,7% trong năm 2006 và dao động ở mức 17 – 5 18% trong giai đoạn 2007 – 2010. Trong khi Bắc Mỹ và EU là những thị trường “nguồn” của công nghệ cao, thiết bị hiện đại, có tác động lớn đến sự đổi mới kỹ thuật trong nước thì ta lại xuất siêu, ngược lại chúng ta lại nhập siêu rất lớn từ khu vực thị trường châu Á, đặc biệt từ Trung Quốc là thị trường gần, mở cửa, giao lưu sớm, ít rào cản thương mại nhưng phần lớn là công nghệ thấp. - Tăng trưởng xuất khẩu vẫn đang chủ yếu dưa vào tăng trưởng đầu tư, nhưng hiệu quả đầu tư rất thấp, hệ số ICOR tăng nhanh từ mức 4,4 trong giai đoạn 2001 – 2006 lên 5,3 trong năm 2007 và 6,55 trong năm 2008, xấp xỉ 7,0 trong năm 2009 – 2010, cao hơn 2 lần các nước trong khu vực khi ở giai đoạn công nghiệp hoá tương tự như Việt Nam (Hệ số ICOR của Hàn Quốc thời kỳ 1991 – 1980 là 3,0 của Đài Loan cùng thời kỳ là 2,7; của Indonexia, Malayxia và Thái Lan trong giai đoạn 1981 – 1985 lần lượt là 3,7, 4,4 và 4,1; của Trung Quốc trong giai đoạn 2001 – 2006 là 4,0. Cơ cấu đầu tư mất cân đối, thiên về đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, đầu tư hình thành tài sản vốn con người và khoa học công nghệ thấp. Tốc độ đổi mới máy móc thiết bị và công nghệ toàn nền kinh tế chỉ đạt 6 – 7%/năm. Tỷ lệ đầu tư cho R & D trong doanh thu của các doanh nghiệp chỉ đạt bình quân 0,1 – 0,2%, riêng các ngành công nghiệp công nghệ cao và công nghiệp mũi nhọn tỷ lệ này cũng chỉ đạt 0,2 – 0,25. Trong các động nang tăng trưởng của nền kinh tế thời kỳ 2001 – 2010, ý tưởng năng suất lao động chỉ đóng góp gần 30%, yếu tố vốn đóng góp khoảng 50% và yếu tố lao động đóng góp khoảng 20%. Chỉ số tăng năng suất lao động tổng hợp (TFP) của nền kinh tế vẫn đang có xu hướng giảm từ 2,56%/năm tỏng giai đoạn 1996 – 2000, còn khoảng 1,7%/năm trong giai đoạn 2001 – 2009. Chỉ số MVA/GO (giá trị gia tăng công nghiệp so với giá trị tổng sản lượng công nghiệp) tiếp tục giảm từ 38,4% trong năm 2000 xuống 24,8% tỏng năm 2008 và 21% trong năm 2009. Chỉ số giá trị gia tăng so với doanh thu của 6 thương mại trong nước thời kỳ 2001 – 2009 không có xu hướng tăng mà chỉ dao động ở mức 24 – 29%. Tỷ lệ khai thác năng lượng so với thu nhập quốc dân vẫn đang có xu hướng tăng nhanh từ 9 – 12% trong giai đoạn 2000 – 2004 lên 15 – 22% trong giai đoạn 2005 – 2009. Mức tiết kiệm năng lượng của công nghiệp Việt Nam thấp hơn mức tiết kiệm điện trung bình của thế giới, của khu vực (thời kỳ 1990 – 2005, mức tiết kiệm điện bình quân của Việt Nam là – 3,4% của Trung Quốc là + 3,3%). - Nhóm hàng công nghiệp chế biến tuy đang có lợi thế cạnh tranh về giá nhân công rẻ, phát triển theo định hướng xuất khẩu, chiếm tới 43 – 45% tổng giá trị sản phẩm công nghiệp nhưng chỉ chiếm dưới 30% tổng MVA toàn ngành công nghiệp và đã có xu hướng giảm từ 30% trong năm 2000, xuống 21% trong các năm 2009 và 2010, hoạt động gia công lắp ráp là chủ yếu, phụ thuộc nặng nề vào nguyên liệu nước ngoài và thích ứng chậm với những biến động của thị trường thế giới. Nhóm hàng thô và sơ chế còn chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu xuất khẩu (30 – 35%), độ co giãn về cung với thị trường thế giới rất nhỏ, sản xuất trong nước chậm thích ứng với những biến động của thị trường thế giới. - Khu vực FDI là nhóm chủ thể chính đóng góp cho tăng trưởng xuất khẩu, nhất là nhóm hàng chế biến xuất khẩu. Nhưng tỷ trọng vốn FDI đăng ký vào công nghiệp chế biến trong tổng FDI đăng ký vào Việt Nam đã có xu hướng giảm liên tục từ 70,4% trong năm 2005 xuống 68,9% trong năm 2006, 51,0% trong năm 2007, 36% trong năm 2008 và còn 30% trong năm 2009, đã làm giảm nguồn hàng chế biến xuất khẩu trong các năm cuối của thời kỳ chiến lược 2001 – 2010. Ngay trước và sau khi gia nhập WTO, các nhà đầu tư nước ngoài đã điều chỉnh cơ cấu đầu tư từ các ngành công nghiệp chế biến định hướng xuất khẩu, sử dụng nhiều lao động, có tăng trưởng sản lượng lớn nhưng tỷ suất lợi nhuận thấp và gặp khó khăn về thị trường tiêu thụ sang các ngành công nghiệp khai thác và lĩnh vực bất động 7 sản, tuy sử dụng nhiều vốn nhưng có tỷ suất lợi nhuận cao hơn. Tỷ suất lợi nhuận (trước thuế) của những ngành thay thế nhập khẩu, công nghiệp khai thác và kinh doanh tài sản cao hơn nhiều so với các ngành định hướng xuất khẩu. Năm 2006, tỷ suất lợi nhuận của ngành dệt là 0,11%, may mặc là 0,61%, da giày là 0,05%, đồ gỗ là 0,19%. Mặt khác, trước năm 2005, đa số vốn FDI được tập trung vào các ngành cơ khí, chế tạo có hệ số bảo hộ cao (một số ngành có hệ số bảo hộ trên 80% như ô tô, xe máy, thiết bị điện ...) nhằm thay thế hàng nhập khẩu. Từ sau năm 2005, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập WTO, dòng vốn FDI đã có sự chuyển hướng mạnh từ các ngành công nghiệp chế biến có hệ số bảo hộ giảm mạnh và có giá trị gia tăng thấp, sang các ngành khai khoáng và khí đốt, lĩnh vực kinh doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng là những lĩnh vực có hệ số bảo hộ giảm ít nhưng hiệu quả đầu tư cao. Tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành công nghiệp chế biến, chế tạo đã giảm mạnh từ 40,38% năm 2005 xuống 28% năm 2009 (và dự ước còn 21,1% vào năm 2015), tỷ lệ bảo hộ thuế quan của những ngành này cũng giảm từ 9,45% năm 2005 xuống 13,7% năm 2009 (và dự ước còn 10,6% vào năm 2015). Trong khi đó, tỷ lệ bảo hộ thực tế của các ngành khai khoáng chỉ dao động từ 4,39% năm 2005 đến 4,43% năm 2009 (và còn 0,29 vào năm 2015); bảo hộ thuế quan trong thời gian tương ứng là 3,85%, 3,38% (và 0,17%). Vì thế, ngay sau khi gia nhập WTO, tỷ trọng vốn FDI đăng ký vào công nghiệp khai thác tài nguyên đã tăng vọt từ 1,2% năm 2007 lên 17,5% năm 2008 và khoảng trên 20% năm 2010, vào lĩnh vực kinh doanh tài sản cũng tăng mạnh từ 15,2% năm 2006 lên 28,6% năm 2007 và hiện nay là khoảng 30%, riêng vào khách sạn, nhà hàng tăng từ 4,2% năm 2006 lên 15,1% năm 2008. Đây là yếu tố quan trọng làm giảm nguồn hàng xuất khẩu và tỷ trọng của khu vực FDI trong tổng kim ngạch xuất khẩu dã giảm từ mức 57,9% trong năm 2006 xuống 57,5% trong năm 2007, 42,3% trong năm 2009 và khoảng 47% trong năm 2010. Điều này phản ánh xu hướng và nguy cơ nước ta đang bị bòn rút tài nguyên ngày 8 càng nhiều, lợi ích quốc gia từ tăng trưởng dựa vào đầu tư FDI ngày càng bị xâm hại. Khi vốn FDI tập trung vào các ngành có mức bảo hộ còn cao sẽ dẫn đế chuyển hoá thành lợi nhuận lớn và một phần lợi nhuận này sẽ được các nhà đầu tư nước ngoài chuyển về nước, còn nước ta sẽ bị cạn kiệt tài nguyên. - Công nghiệp hỗ trợ chưa phát triển và chưa có nhiều tập đoàn đa quốc gia thiết lập cơ sở sản xuất cho khu vực châu Á – Thái Bình Dương ở Việt Nam. Đây là điểm khác biệt giữa Việt Nam với các nước ASEAN 6, các nước này đã thu hút được nhiều tập đoàn đa quốc gia đặt cơ sở sản xuất cho khu vực tại nước họ nên kim ngạch xuất khẩu linh kiện điện tử, máy móc thiết bị điện và cơ khí chiếm một tỷ trọng rất lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của các nước này sang Trung Quốc (được mệnh danh là công xưởng thế giới). Trong giai đoạn 2001 – 2007, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu của nhóm sản phẩm sản phẩm này của Việt Nam chỉ đạt 8,7% tổng kim ngạch xuất khẩu sang Trung Quốc, chỉ số tương ứng của Philipin là 88,7%, của Malayxia là 70%, của Thái Lan là 52,5%. Đây cũng là mọt trong những nguyên nhân khách quan của việc nước ta chưa thể cân bằng được cán cân thương mại với Trung Quốc, điều mà các nước ASEAN đã làm được. - Trong cấu trúc nhập khẩu giai đoạn 2000 – 2005, chúng ta đã có bước thụt lùi về công nghệ: giảm nhập khẩu công nghệ Trung – Cao (- 6,5%) để tăng nhập khẩu công nghệ trung - thấp (+ 7,4%) đã tác động làm giảm sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu trong giai đoạn 2006 – 2010 và các năm tiếp theo. - Do mong muốn đạt mức tăng trưởng GDP cao trong khi hiệu quả đầu tư thấp đã tạo ra vòng xoáy đầu tư tăng cao làm tăng nhu cầu nhập khẩu, nhưng hiệu quả đầu tư thấp nên giảm nguồn hàng xuất khẩu, mất cân bằng xuất - nhập và nhập siêu tăng cao. Trong giai đoạn 2006 – 2007, tính 9 theo giá so sánh 1994, tốc độ tăng trưởng vốn đầu tư xã hội luôn ở mức cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP (năm 2005 là 13% năm 2006 là 13,7% và năm 2007 là 25,8%, gấp trên 4 lần tốc độ tăng GDP). Tỷ lệ vốn đầu tư toàn xã hội so với GDP đã tăng từ 29,6% trong năm 2000 lên 40,5% trong năm 2007 và 43,1% trong năm 2008, nhưng hiệu quả đầu tư thấp và chậm được cải thiện (Đài Loan đạt tốc độ tăng trưởng GDP ở mức bình quân 10%/năm tỏng 18 năm liên tục nhưng tỷ lệ đầu tư so với GDP chỉ ở mức 25%). Do hệ số ICOR cao (hiệu quả đầu tư thấp), đầu tư của khu vực Nhà nước chiếm gần 50% tổng vốn đầu tư toàn xã hội như lại kém hiệu quả hơn đầu tư của khu vực tư nhân nên hệ số ICOR chung của nền kinh tế càng tăng cao. Trong cơ cấu đầu tư xã hội, tỷ trọng vốn đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh tài sản, khách sạn, nhà hàng có xu hướng càng lớn từ năm 2005 đến nay, về cơ bản đã không làm tăng năng suất (nhu cầu đầu tư máy móc, thiết bị ...) cũng như không tạo ra các sản phẩm xuất khẩu để cải thiện cán cân thương mại, nhưng lại làm tăng nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu, nhất là vật liệu xây dựng cao cấp. - Đầu tư tăng cao, năng suất, chất lượng, hiệu quả thấp, dẫn đến chi phí sản xuất cao, làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm và nền kinh tế thấp, làm giảm năng lực xuất khẩu và tăng nhu cầu nhập khẩu. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp còn hạn chế, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm còn cao so với các nước trong khu vực, nhất là các chỉ số tiêu hao nguyên nhiên liệu, vật tư cho sản xuất chiếm tỷ lệ cao trong cơ cấu giá thành sản phẩm ... làm tăng nhu cầu nhập khẩu không hiệu quả. Do vậy, khi giá cả các loại nguyên nhiên vật liệu thế giới tăng cao trong giai đoạn 2006 – 2008, càng làm cho chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm của ta tăng cao hơn các nước trong khu vực, dẫn đến song trùng với lạm phát là nhập siêu tăng cao trong giai đoạn các năm 2007 – 2008. 10 - Từ cuối năm 2006 và đặc biệt là năm 2007, lượng vốn đầu tư tăng cao, đặc biệt là FDI và FII chảy vào Việt Nam tăng đột biến, làm cho đồng Việt Nam tăng giá so với các ngoại tệ khác. Trong bối cảnh nhập siêu lớn, kim ngạch nhập khẩu gần bằng 90% GDP, giá nhập khẩu tăng kép dovừa tăng giá tính bằng USD vừa tăng giá do tỷ giá giữa VNĐ với các ngoại tệ của 19 nước buôn bán lớn với Việt Nam đã tăng khoảng 12%, tỷ giá USD/VNĐ tăng lên, gây ra hiện tượng “nhập khẩu lạm phát”, khuyến khích nhập khẩu, hạn chế xuất khẩu, tăng nhập siêu trong các năm 2007 – 2008. - Hiệu quả xuất khẩu thấp còn do phương thức xuất khẩu lạc hậu. Mặc dù hàng Việt Nam đã được xuất khẩu sang trên 220 thị trường khắp các châu lục trên toàn cầu, nhưng trên 80% lượng hàng hoá vẫn xuất FOB và nhập CIF. Chỉ mới có một tỷ lệ nhỏ hàng xuất khẩu được tiêu thụ qua mạng lưới phân phối trực tiếp của doanh nghiệp Việt Nam ở thị trường nhập khẩu. Mức độ tham gia hệ thống phân phối toàn cầu của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam còn rất hạn chế. - Một số ngành hàng nông, lầm, thủy sản và công nghiệp chế biến xuất khẩu tuy đã có sự tham gia vào các mạng sản xuất, các chuỗi giá trị toàn cầu, nhưng mô hình tổng quát vẫn là qui mô lớn, nấc thang giá trị thấp và hiệu quả thấp. Phần lớn các doanh nghiệp công nghiệp Việt Nam khi tham gia sản xuất xuất khẩu mới tham gia được vào các phân khúc sản xuất gia công lắp ráp là các khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị. Có rất ít doanh nghiệp tham gia được vào khâu thiết kế, nghiên cứu và phát triển, phân phối ở thị trường ngoài là những khâu mang lại giá trị gia tăng cao. 2. Kết cấu hạ tầng phục vụ xuất, nhập khẩu yếu kém, dịch vụ logistics chậm phát triển ... là những cản trở chính đối với phát triển xuất nhập khẩu. 11 Kết cấu hạ tầng phát triển kinh tế nói chung, kết cấu hạ tầng thương mại nói riêng vừa yếu, lạc hậu vừa thiếu đồng bộ, chậm được cải thiện. Do kết cấu hạ tầng phát triển thương mại và dvu logistics cha phát triển nên hàng xuất khẩu của Việt Nam phần lớn chưa thể xuất trực tiếp sang thông tin Bắc Mỹ, châu Âu mà vẫn phải quá cảng sang Hồng Kong, Singapore. Chi phí xuất khẩu cao gấp 1,7 lần mức trung bình của khu vực (năm 2007, chi phí xuất khẩu của Việt Nam là 701 USD/container 20 ft, mức trung bình của khu vực là 500 USD, của Thái Lan 848 USD, của Trung Quốc là 335 USD, Malayxia là 481 USD, Hồng Kông lf 435 USD ...). Dvu logistics và dịch vụ bảo hiểm hàng hoá XNK chậm phát triển, nhất là dịch vụ vận tải biển mới chiếm khoảng 22 – 24% thị phần hàng hoá xuất khẩu và chiếm khoảng 18 – 20% thị phần nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam, nên chi p hí bảo hiểm và vận tải hàng hoá nhập khẩu cao, chiếm gần 50% kim ngạch nhập dịch vụ, cùng tác động làm tăng nhập siêu và thâm hụt cán cân vãng lai. Trong 3 năm 2005 – 2007, nước ta phải chi trả 6 tỷ USD cho nước ngoài về chi phí bảo hiểm và vận tải hàng hoá xuất nhập khẩu chiếm 35,7% tổng chi dịch vụ cùng giai đoạn và là thành tố chính làm thâm hụt cán cân dvu, cán cân vãng lai của Việt Nam. - Hệ thống cảng biển Việt Nam đến cuối năm 2010 có 114 điểm cảng với trên 25 cảng có thiết kế trên 1 triệu tấn/năm, nhưng chỉ có 6 cảng đạt trên 1 triệu tấn/năm. Ngoài cảng Vân Phong (Khánh Hoà) đang được xây dựng, đến nay nước ta chưa có cảng nước sâu, có khả năng tiếp nhận tàu có trọng tải lớn. Trong số trên 14 điểm cnảg, chỉ có 2 cảng có khả năng tiếp nhanạ tàu trên 50.00 DWT nhưng đều là cảng dầu khí, và có 10 cảng có khả năng tiếp nhận tầu trên 30.00 DWT. Hiện nay công suất xếp dỡ bình quân của hệ thống cảng biển Việt Nam chỉ đạt khoảng 2500 tấn/m cầu tầu bằng khoảng 45 – 50% năng suất bình quân của khu vực. Theo qui hoạch, công suất qua cảng tổng hợp của 12 Việt Nam sẽ đạt mức 4.500 tấn cầu tầu vào năm2020. Do xu hướng container hoá đang phát triển nhanh, đặc biệt là khu vực châu Á – Thái Bình Dương, nhưng số lượng cảng container của ta rất ít (mới có 4 cảng) n