Chuyên đề Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2020 - Thực trạng và giải pháp

Lạng Sơn là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đông bắc của Tổ quốc, điểm đầu của con đường huyết mạch ( quốc lộ 1A) nối Việt Nam với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và từ đó đến với các nước châu Âu, đồng thời cũng là con đường quan trọng nối Trung Quốc với các nước ASEAN. Với vị trí địa lý thuận lợi về kinh tế và vô cùng quan trọng về an ninh - quốc phòng, Lạng Sơn trở thành đầu mối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hoá – xã hội và hợp tác kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, Lạng Sơn tự hào có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, có truyền thống văn hoá mang đậm bản sắc của dân tộc. Trong mấy năm vừa qua bằng quyết tâm của mình, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã vượt qua được những chặng đường khó khăn, thách thức đã tạo được những chuyển biến vượt bậc đưa nền kinh tế - xã hội phát triển giữ vững ổn định an ninh chính trị; từng bước chuyển dịch nền kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển lĩnh vực thương mại dụch vụ, chú trọng đầu tư phát triển các ngành công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Để đạt được những thành tựu ấy, có sự đóng góp rất lớn của các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhằm xem xét và đánh giá các hoạt động đầu tư đó, em đã nghiên cứu và viết đề tài “ Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2020: Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thu thập và phân tích số liệu, phương pháp xử lý số liệu thứ cấp và phương pháp so sánh. Kết cấu đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm hai chương sau: Chương I: Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2008. Chương này chủ yếu nêu lên tình hình đầu tư của tỉnh trong các năm từ năm 2001 đến 2008, kèm theo các phân tích, nhận xét và đánh giá. Chương II: Định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển tỉnh Lạng Sơn. Trong chương này, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường các hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn 2011-2020.

doc83 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 4586 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2020 - Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Lạng Sơn là tỉnh nằm ở cửa ngõ phía đông bắc của Tổ quốc, điểm đầu của con đường huyết mạch ( quốc lộ 1A) nối Việt Nam với nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa và từ đó đến với các nước châu Âu, đồng thời cũng là con đường quan trọng nối Trung Quốc với các nước ASEAN. Với vị trí địa lý thuận lợi về kinh tế và vô cùng quan trọng về an ninh - quốc phòng, Lạng Sơn trở thành đầu mối quan trọng trong giao lưu kinh tế, văn hoá – xã hội và hợp tác kinh tế quốc tế. Bên cạnh đó, Lạng Sơn tự hào có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, nhiều địa danh đã đi vào lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc, có truyền thống văn hoá mang đậm bản sắc của dân tộc. Trong mấy năm vừa qua bằng quyết tâm của mình, nhân dân các dân tộc Lạng Sơn đã vượt qua được những chặng đường khó khăn, thách thức đã tạo được những chuyển biến vượt bậc đưa nền kinh tế - xã hội phát triển giữ vững ổn định an ninh chính trị; từng bước chuyển dịch nền kinh tế theo hướng ưu tiên phát triển lĩnh vực thương mại dụch vụ, chú trọng đầu tư phát triển các ngành công nghiệp nhất là công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm. Để đạt được những thành tựu ấy, có sự đóng góp rất lớn của các hoạt động đầu tư phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Nhằm xem xét và đánh giá các hoạt động đầu tư đó, em đã nghiên cứu và viết đề tài “ Đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2020: Thực trạng và giải pháp”. Đề tài đã sử dụng một số phương pháp nghiên cứu như: Phương pháp thu thập và phân tích số liệu, phương pháp xử lý số liệu thứ cấp và  phương pháp so sánh. Kết cấu đề tài ngoài phần mở đầu và kết luận, gồm hai chương sau: Chương I: Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Lạng Sơn giai đoạn 2001-2008. Chương này chủ yếu nêu lên tình hình đầu tư của tỉnh trong các năm từ năm 2001 đến 2008, kèm theo các phân tích, nhận xét và đánh giá. Chương II: Định hướng và giải pháp nhằm đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển tỉnh Lạng Sơn. Trong chương này, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường các hoạt động đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn trong giai đoạn 2011-2020. Qua bản chuyên đề này, em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Phạm Văn Hùng, người đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ em trong quá trình làm chuyên đề. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú trong Sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng Sơn, đặc biệt là các anh chị trong phòng Tổng hợp đã cung cấp tài liệu và có những ý kiến quý báu về nội dung của bản chuyên đề. Cuối cùng, em xin cảm ơn các thầy, cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, những người đã cho em nghị lực, niềm tin để hoàn thành chuyên đề, cũng như sự chỉ bảo dạy dỗ em trong quá trình học tập. Tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do bị hạn chế về kinh nghiệm thực tế và phương pháp nghiên cứu nên chuyên đề không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các thầy cô giáo trong Bộ môn Kinh tế Đầu tư, các cô chú trong sở Kế hoạch và Đầu tư Lạng Sơn, cùng các bạn để tôi có thể rút kinh nghiệm và học tập thêm những kiến thức bổ ích nhằm nâng cao chất lượng của chuyên đề. Lạng Sơn,tháng 4/2009 Sinh viên: Nông Lan Phương Chương 1: Thực trạng đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn (2001-2008) 1.1        .Điều kiện kinh tế – xã hội và tự nhiên có ảnh hưởng đến đầu tư phát triển kinh tế - xã hội tỉnh Lạng Sơn: 1.1.1. Điều kiện tự nhiên: 1.1.1.1.Lợi thế về phát triển kinh tế cửa khẩu, thương mại, du lịch, dịch vụ  Lạng Sơn là tỉnh miền núi thuộc vùng Đông Bắc Việt Nam, có đường quốc lộ 1A, 1B, 4A, 4B, 279 đi qua và đường sắt liên vận quốc tế nối các nước Đông, Bắc Âu – Trung Quốc - Việt Nam – các nước ASEAN, là điểm nút của sự giao lưu kinh tế với các tỉnh phía Tây như Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Kạn, phía Đông như tỉnh Quảng Ninh, phía Nam như Bắc Giang, Bắc Ninh, Thủ đô Hà Nội và phía Bắc tiếp giáp với khu tự trị dân tộc Choang tỉnh Quảng Tây của nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa với 2 cửa khẩu quốc tế, 2 cửa khẩu Quốc gia và 7 cặp chợ biên giới, ở các cửa khẩu như Hữu Nghị, cửa khẩu Ga đường sắt Đồng Đăng, Chi Ma, các cặp chợ như Tân Thanh, Cốc Nam đã được tỉnh đầu tư khang trang, hiện đại rất thuận lợi cho việc xuất nhập khẩu hàng hoá và xuất nhập cảnh của khách du lịch. Lạng Sơn có điều kiện rất thuận cho việc giao lưu kinh tế, khoa học, công nghệ với các tỉnh trong cả nước, với Trung Quốc và qua đó sang các nước vùng Trung Á, Đông Âu, Châu Âu và các vùng lãnh thổ khác…  Với vị trí, điểu kiện thuận lợi, tỉnh Lạng Sơn đã xây dựng môi trường thuận lợi cho giao lưu phát triển kinh tế, thu hút ngày càng nhiều doanh nghiệp trong nước và nước ngoài, thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư, xuất nhập khẩu hàng hoá, phát triển du lịch, dịch vụ trên địa bàn. Trong những năm qua, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu qua các cửa khẩu của tỉnh luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng lượng hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới của các tỉnh phía Bắc.  Ngày 23 tháng 2 năm 2009, với việc hoàn thành cắm cột mốc số 1116 tại cửa khẩu Hữu Nghị, Lạng Sơn đã ghi dấu ấn tốt đẹp trong những bước phát triển ngoại giao giữa Việt Nam và Trung Quốc. Đây là cầu nối hết sức quan trọng trong việc giao thương, phát triển kinh tế giữa hai nước. Điều này sẽ tạo điều kiện cho hai Bên hoàn thành việc đấu nối 2 tuyến đường cao tốc Nam Ninh - Bằng Tường và Lạng Sơn - Hà Nội trong thời gian tới, tuyến đường huyết mạch để đẩy mạnh phát triển hành lang kinh tế Nam Ninh - Lạng Sơn - Hà Nội và vành đai kinh tế Vịnh Bắc Bộ giữa hai nước, giúp tăng cường và thúc đẩy phát triển kinh tế cửa khẩu nói riêng cũng như của cả nước nói chung. Với vị trí gần Hà Nội, giao thông thuận tiện, được thiên nhiên ưu ái ban tặng nhiều danh lam, thắng cảnh, sản phẩm du lịch phong phú, Lạng Sơn có điều kiện phát triển đa dạng các loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, du lịch cảnh quan… Hệ thống kết cấu hạ tầng các khu du lịch, hệ thống khách sạn, nhà hàng, các khu vui chơi, giải trí từng ước được đầu tư nâng cấp… 1.1.1.2.Thế mạnh về phát triển vùng nguyên liệu nông – lâm sản  Tiềm năng đất đai của Lạng Sơn còn rất lớn. Toàn tỉnh có trên 277 nghìn ha đất lâm nghiệp có rừng: 68,9 nghìn ha đất nông nghiệp; 12 nghìn ha đất chuyên dùng; 4,7 nghìn ha đất ở và trên 467 nghìn ha đất chưa sử dụng, trong đó có khoảng 352 nghìn ha đất có khả năng sử dụng vào mục đích phát triển nông lâm nghiệp. Rừng Lạng Sơn hiện còn nhiều loại động, thực vật quý hiếm. Lớp thú ở Lạng Sơn có 8 bộ, 24 họ với 56 loài; lớp chim có 14 bộ, 46 họ với 200 loài; lớp bò sát lưỡng cư 3 bộ, 17 họ với 50 loài. Các loài động vật không xương sống thuộc bộ mười chân, bộ thân giáp, bộ hải quỳ… đều có mặt tại rừng Lạng Sơn.  Hơn nữa, điều kiện thổ nhưỡng của Lạng Sơn rất thích hợp cho phát triển các loại cây trồng như lúa, ngô, chè, thuốc lá, đậu đỗ, các loại cây công nghiệp và cây ăn quả có giá trị kinh tế cao và các loại cây lâm sản, cây đặc sản như hồi, cây nguyên liệu giấy. Vì vậy, hướng phát triển của ngành nông – lâm nghiệp Lạng Sơn là khai thác thế mạnh, tiềm năng về kinh tế đồi rừng, tạo thành các vùng sản xuất hàng hoá tập trung về cây ăn quả, cây công nghiệp dài ngày, cây công nghiệp ngắn ngày có thế mạnh, các cây lâm nghiệp cho nguyên liệu giấy.  Đến năm 2008, Lạng Sơn đã quy hoạch và xây dựng được một số vùng sản xuất hàng hoá tập trung như: vùng hồi ở Văn Quan, Bình Gia, Cao Lộc, Văn Lãng, Tràng Định ( gần 3 vạn ha); vùng na Chi Lăng, Hữu Lũng ( 1.100 ha); vùng vải thiều ở Hữu Lũng, Chi Lăng ( trên 4.500 ha); vùng quýt Bắc Sơn ( 1.000 ha); vùng nguyên liệu thuốc lá Bắc Sơn ( 1.500 ha ); vùng chè Đình Lập ( trên 700 ha ); vùng thông, bạch đàn Lộc Bình, Đình Lập ( trên 45 nghìn ha )…  Sản phẩm nông lâm nghiệp đa dạng, phong phú là cơ sở cho Lạng Sơn đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế biến nông – lâm sản. Tiểm năng lớn này đang được gợi mở với nhiều dự án kêu gọi đầu tư như: cơ sở sản xuất tinh dầu hồi, trồng và chế biến chè xuất khẩu, trồng thông và xây dựng nhà máy chế biến nhựa thông… Những dự án này sẽ là điểm đột phá trong phát triển công nghiệp, đồng thời thúc đẩy phát triển sản xuất nông – lâm nghiệp, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn. 1.1.1.3.Tiềm năng đầu tư phát triển công nghiệp  Tài nguyên khoáng sản khá phong phú, bao gồm 86 điểm mỏ quặng, khoáng sản thuộc 19 loại khác nhau. Nhóm khoáng sản kim loại, bao gồm: sắt, mangan, nhôm, đồng, chì, kẽm, vàng… đều là kim loại quý. Tuy nhiên, nguồn tài nguyên của Lạng Sơn lại nghèo các kim loại hiếm, mới chỉ có thiếc. môlíp và thuỷ ngân. Khoáng sản phi kim loại có than nâu ở mỏ Na Dương với diện tích 150 km; than bùn ở Nà Lò ( Lộc Bình ) và một điểm cách thị trấn Bình Gia 1km về phía Đông Nam. Nguồn khoáng sản phục vụ cho ngành sản xuất vật liệu xây dựng, bao gồm: các loại đá cacbonat, đá sét, cát cuội, sỏi, cát kết dạng quaczic, sét vôi, đá mafic… chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng nguồn tài nguyên Lạng Sơn.  Nguồn nguyên liệu cho sản xuất vật liệu xây dựng là một trong những thế mạnh, tạo nền tảng thúc đẩy công nghiệp sản xuất vật liệu xây dựng phát triển thành ngành công nghiệp mũi nhọn, đó là nguồn đá vôi lớn cho xây dựng và nguyên liệu sét cho sản xuất xi măng, gạch và gốm. Đến năm 2008, tỉnh có 2 nhà máy xi măng công suất 8,5 vạn tấn/ năm và 6,5 vạn tấn/năm; hai cơ sở sản xuất gạch nung quốc doanh công suất 45 triệu viên/năm; một liên doanh sản suất gốm sứ; sản lượng đá xây dựng khai thác trên 700 nghìn m3/năm. Với tiềm năng hiện có, sản xuất vật liệu xây dựng đang là hướng ưu tiên đầu tư phát triển của ngành công nghiệp Lạng Sơn. Dự án xây dựng nhà máy xi măng lò quay công suất 1,4 triệu tấn/năm tại Đồng Bành – Chi Lăng đang được tích cực triển khai và dự kiến đến quý IV năm 2009 sẽ đi vào chạy thử.  Về công nghiệp khai khoáng, Lạng Sơn có nhiều tài nguyên khoáng sản chưa được tập trung khai thác. Toàn tỉnh có 86 điểm mỏ quặng, khoáng thuộc 19 khoáng sản khác nhau. Đáng chú ý là mỏ than Na Dương, huyện Lộc Bình, trữ lượng khoảng 98,7 triệu tấn, đang được khai thác phục vụ cho nha máy Nhiệt điện Na Dương, công suất 100MW. 1.1.2.Điều kiện kinh tế - xã hội 1.1.2.1.Kinh tế: Nằm trên dải đất biên giới vùng Đông Bắc, với điều kiện địa lý, tự nhiên và giao thông khá thuận lợi, từ lâu Lạng Sơn đã trở thành điểm hội tụ, giao lưu kinh tế quan trọng ở phía Bắc. Nhờ phát huy hiệu quả các tiềm năng sẵn có, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân ước tính trong giai đoạn 2001-2008 tăng trên 10,42%.Cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, tỷ trọng ngành công nghiệp – xây dựng tăng từ 13,77 năm 2001 lên 21,39% năm 2008, nông lâm nghiệp giảm từ 49,7% năm 2001 xuống còn 39,34% năm 2008, tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 36,53% năm 2001 lên 39,27% năm 2008. Kim ngạch xuất nhập qua địa bàn đạt tốc độ tăng bình quân hàng năm trên 44,2%, trong đó hàng xuất khẩu địa phương tăng bình quân hàng năm từ 15-16%. Tổng thu ngân sách trên địa bàn năm 2008 đạt mức 1.937 tỷ đồng, gấp 1,9 lần năm 2001. Kinh tế phát triển đã góp phần nâng cao đời sống của nhân dân. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 3,44 triệu đồng năm 2001 lên 10,37 triệu đồng năm 2008, tăng gấp 3 lần; đời sống vật chất tinh thần của nhân dân được cải thiện và từng bước nâng cao, nhất là nhân dân ở các vùng đặc biệt khó khăn. 1.1.2.2.Dân số – Lao động: Lạng Sơn có 757.650 người (năm 2008), bao gồm 7 dân tộc, trong đó dân tộc Kinh chiếm 15%, đồng bào các dân tộc thiểu số Nùng, Tày, Dao, Hoa, Sán Chay, Mông chiếm gần 85%. Cơ cấu dân số tỉnh Lạng Sơn trẻ. Nguồn lao động khá dồi dào, với số người dưới 50 tuổi chiếm 87,4%. Đây thực sự là nguồn nhân lực lớn trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ an ninh quốc phòng. Nhưng lực lượng lao động của Lạng Sơn chủ yếu là lao động nông nghiệp, chiếm gần 80% trong tổng số lao động, mặt khác số lao động qua đào tạo lại chiếm tỉ trọng rất nhỏ, khoảng 10,82% trong tổng số lao động, số lao động có trình độ chuyên môn, kỹ thuật cao rất ít… đó là cản trở lớn trong việc tiếp nhận các tiến bộ khoa học kỹ thuật, thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá. 1.1.2.3. Văn hoá – xã hội: Trong tiến trình lịch sử, Lạng Sơn luôn là vùng đất xung yếu, phên dậu bảo vệ độc lập, chủ quyền lãnh thổ quốc gia, cầu nối ngoại giao giữ vững sự hoà hiếu, bình an cho dân tộc. Không những thế, Lạng Sơn còn là vùng đất sinh dưỡng nhiều người con ưu tú có công với cách mạng, nhiều tấm gương hy sinh anh dũng bảo vệ quê hương đất nước. Không chỉ vậy, Lạng Sơn còn là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch với hàng chục danh lam thắng cảnh đã đi vào lịch sử thi ca, được cả nước biết đến như động Nhất - Nhị - Tam Thanh, chùa Tiên, nàng Tô Thị, sông Kỳ Cùng… Đặc biệt, Mẫu Sơn là địa danh hội đủ những nhân tố cần thiết trong việc phát triển loại hình du lịch sinh thái, an dưỡng với những nét đặc sắc không thua kém Sa Pa ( Lào Cai ) và Đà Lạt ( Lâm Đồng ) và nhiều di tích lịch sử được xếp hạng như ải Chi Lăng, Mục Nam Quan, thành nhà Mạc, căn cứ địa cách mạng Bắc Sơn…  Là nơi chung sống của nhiều dân tộc, Lạng Sơn quy tụ nhiều tập quán đậm đà bản sắc dân tộc và các lễ hội độc đáo như lễ hội chùa Tam Thanh, lễ hội đền Kỳ Cùng, lễ hội Kỳ Lừa… Những tập quán sinh hoạt, những phong tục hội hè, những phiên chợ vùng cao ở đây, những trang phục dân tộc cũng như những điệu hát sli, lượn đều rất hấp dẫn các nhà nghiên cứu trong nước, quốc tế và khách du lịch. Các lĩnh vực văn hóa – xã hội có nhiều tiến bộ; công tác giáo dục và đào tạo đạt một số kết quả quan trọng về nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và thực hiện mục tiêu quốc gia, đã hoàn thành phổ cập THCS trong năm 2006; các hoạt động văn hoá – thông tin, thể dục - thể thao được tổ chức với nhiều hình thức đa dạng, các hội chợ, triển lãm địa phương và quốc tế được tổ chức hàng năm góp phần quảng bá hình ảnh về mảnh đất và con người Lạng Sơn; diện sóng phủ sóng phát thanh truyền hình ngày càng mở rộng và tăng vể thời lượng. Công tác y tế và chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được chú trọng. Công tác xoá đói giảm nghèo, giải quyết việc làm và các vấn đề xã hội khác cũng đạt được những kết quả nhất định. An ninh, quốc phòng được giữ vững, trật tự an toàn xã hội đảm bảo. Đây là những yếu tố tích cực giúp cho môi trường đầu tư của Lạng Sơn trở nên hấp dẫn và an toàn hơn. 1.1.2.4. Kết cấu hạ tầng: a. Hệ thống giao thông: Trong những năm gần đây, cùng với việc triển khai thi công hàng loạt các trục đường 4A, 4B, đường 279, đường 1B… tỉnh Lạng Sơn đã huy động nhiều nguồn vốn tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông ở các vùng động lực kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới đến cửa khẩu. Các tuyến đường huyết mạch trong tỉnh được đầu tư thoả đáng mang lại diện mạo mới cho hệ thống đường giao thông ở 10 huyện và thành phố Lạng Sơn.  Đến năm 2008, Lạng Sơn đã có mạng lưới giao thông phát triển và phân bố khá hợp lý. Toàn tỉnh hiện có km đường ô tô, trong đó có 7 quốc lộ với chiều dài 614 km đi qua trung tâm các huyện lỵ, 140 km đường đô thị và chuyên dùng, 4.482 km đường giao thông nông thôn, liên thôn, liên bản. Lạng Sơn có nhiều cửa khẩu giao lưu với tỉnh Quảng Tây – Trung Quốc. Trong các cửa khẩu Hữu Nghị Quan là cửa khẩu quốc tế và đều tập trung hai tuyến đường bộ dường sắt mấu chốt nối Việt Nam vơí Trung Quốc. Sau chiến tranh biên giới, hai nước đã ký kết và đầu tư mở rộng đường, làm mới nhà ga, xuất nhập cảnh… Đặc biệt hệ thống giao thông phát triển đã giảm thời gian đi lại của nhân dân trong tỉnh khoảng 30% - 40%. Riêng thời gian đi trên tuyến đường Lạng Sơn – Hà Nội đã giảm 50%, từ 5 giờ xuống còn 2 giờ 30 phút. Đường sá thuận lợi đưa Lạng Sơn trở thành điểm đến của bạn bè trong nước và quốc tế, góp phần thúc đẩy giao thương với nước láng giềng Trung Quốc. b. Hệ thống điện Lạng Sơn là tỉnh miền núi có nhiều sông, thác và suối nhưng tiềm năng điện tại chỗ chưa được khai thác. Nguồn cung cấp điện hiện nay của Lạng Sơn hoàn toàn dựa vào nguồn và hệ thống điện quốc gia, do các nhà máy thủy điện Hòa Bình, Thác Bà và nhiệt điện Phả Lại sản xuất. Hệ thống cung cấp điện hiện có mạng lưới đường dây tải điện 110Kv, 35 KV, 6 KV và 0,4KV. Có các trạm biến thế với nhiều loại dung lượng khác nhau. Điện lực Lạng Sơn đã xây dựng và phát triển mạng lưới điện rộng khắp trên phạm vi toàn tỉnh, đặc biệt các xã vùng sâu, vùng xa, các xã đặc biệt khó khăn. Nếu như năm 1997 nguồn điện của tỉnh chỉ có hai trạm 110kV với tổng dung lượng là 45 nghìn KVA, thì đến năm 2008 tổng dung lượng đã tăng lên 75 nghìn KVA, được truyền tải trên 128 km đường dây 110kV, 1.167 km đường dây 35kV và 1.400 đường dây hạ thế. Nhờ đó sản lượng điện thương phẩm liên tục tăng qua các năm. Dự báo trong những năm tới, nhu cầu tiêu thụ điện sẽ tăng mạnh do Lạng Sơn phát triển nhiều khu kinh tế quan trọng. Điện lực Lạng Sơn đã xây dựng nhiều kế hoạch phát triển sản xuất điện, cải tạo toàn bộ hệ thống lưới điện tại thành phố, triển khai mở rộng mạng lưới điện để có năng lực tương đương với hệ thống lưới điện của tỉnh Quảng Tây ( Trung Quốc ) và đa dạng hoá các loại hình kinh doanh điện… Việc hoàn thiện hệ thống điện sẽ tạo nên bước đột phá mới trong công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông thôn. c. Hệ thống cấp thoát nước: Nước là một yếu tố không thể thiếu được đối với nhu cầu sử dụng của con người. Ở Lạng Sơn các sông suối, nguồn nước mặt, nguồn nước ngầm khá phong phú. Trong những năm qua ở các thị xã, thị trấn của Lạng Sơn chủ yếu là dòng nước ngầm để cung cấp nước sạch. Theo thống kê, năm 2008 có 13 nghìn hộ dân và 300 cơ quan nhà nước và cơ sở sản xuất của thành phố được sử dụng nước sạch, đạt 90% dân số nội thị. Trong nhiều năm qua, ngành cấp thoát nước Lạng Sơn liên tục đầu tư, cải tạo, nâng cấp các đường ống dẫn nước. Xác định nhiệm vụ chống thất thoát nước là nhiệm vụ cơ bản hàng đầu, ngành  đã đầu tư hàng tỷ đồng, nâng công suất nhiều trạm bơm từ 1.100 m3/ngày đêm lên 1.900 m3/ngày đêm, cải tạo lắp đặt 50km chiều dài đường ống các loại, thay thế cải tạo 3.500 đồng hồ đo nước. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được thì hệ thống cấp thoát nước của Lạng Sơn vẫn còn nhiều khó khăn. Hệ thống thoát nước và xử lý rác thải chưa hoàn chỉnh. Phàn lớn lượng nước thải xả trực tiếp vào các kênh mương, ao hồ gây nguy cơ ô nhiễm cao. Nói chung ở Lạng Sơn cơ sở hạ tầng cung cấp nước và hệ thống cấp thoát nước so với các cơ sở hạ tầng khác còn kém phát triển. Trước mắt và cả tương lai cần phải có những nguồn vốn đầu tư, ưu tiên tập trung giải quyết và cải thiện về vấn đề này. d. Bưu chính - Viễn thông Gắn liền với các hệ thống giao thông vận tải , điện, nước, bưu chính viễn thông là những lĩnh vực cơ sở hạ tầng thiết yếu đối với phát triển kinh tế xã hội nói chung và việc thu hút vốn đầu tư nói riêng. Trong những năm qua, ngành Bưu chính - Viễn thông tỉnh Lạng Sơn đã nhanh chóng triển khai nhiều dịch vụ, đầu tư cho các dự án ở cả hai mảng bưu chính và viễn thông. Năm 2008, Bưu điện tỉnh Lạng Sơn đã đầu tư tăng số điểm phục vụ của mạng lưới bưu cục tới các nơi tập trung dân cư như thị xã, thị trấn, huyện lỵ,… Hệ thống bưu điện gồm có: 1 bưu cục cấp I, 32 Bưu cục cấp II, III và các điểm kiốt, đại lý. Bên cạnh những dịch vụ đang hoạt động tốt như: chuyển tiền nhanh, bưu chính uỷ thác, bưu phẩm, điện hoa, chuyển phát nhanh EMS ,… Bưu điện tỉnh Lạng Sơn còn triển khai các dịch vụ: chuyển tiền tới điểm bưu điện – văn hoá xã, mở thêm dịch vụ phát trong ngày tại 6 bưu cục, các dịch vụ hộp thư thoại, hộp thư thông tin – âm nhạc, các dịch vụ gia tăng của tổng đài điện tử kỹ thuật số, dịch vụ tài khoản tiết kiệm cá nhân… Mở rộng mạng truyền dẫn quang, các tuyến cáp quang nội tỉnh kéo đến các trung tâm xã, cụm dân cư, các nút chuyển mạch cũng được triển khai và đưa vào sử dụng. Dựa trên trục cáp quang liên huyện, mạng LAN được mở rộng, tạo điều kiện cho việc ứng dụng phần mềm như thu nợ điện phí, quản lý mạng cáp, đo kiểm thuê bao,… Phát triển mạng tin học, internet, mạng truyền dẫn số liệu… Quy mô và chất lượng của các dịch vụ bưu chính - viễn thông trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn ngày càng được mở rộng và hoàn thiện. Đây là một nhân tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng môi trường đầu tư của tỉnh, qua đó tăng cường và thu hút đầu tư vào
Luận văn liên quan