Chuyên đề Huy động nguồn vốn trong dân cư cho phát triển kinh tế thành phố Hà Nội

Với vị thế là thủ đô,trung tâm chính trị văn hóa giáo dục của cả nước,và cùng với cả nước,Hà Nội đã tiến hành các công cuộc đổi mới sâu sắc toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và đã thu được những thành tựu quan trọng.Thành phố Hà Nội đứng thứ hai trong cả nước về tốc độ phát triển kinh tế,về đóng góp ngân sách nhà nước cũng như tiềm năng và thực tế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Xét trên phạm vi quốc gia và từng địa phương,bên cạnh việc huy động vốn từ ngân sách,từ các nguồn đầu tư nước ngoài,thì nguồn vốn dân cư dài hạn là vô cùng quan trọng.Nhiều năm qua.Hà Nội đã quan tâm và đạt được một số kết quả tích cực bước đầu trong việc thu hút nguồn vốn dân cư cho phát triển kinh tế-xã hội thủ đô,song trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập và vấn đề mới được đặt ra,đòi hỏi được nhận thức và giải quyết vấn đề phải làm sao huy động vốn tối đa các nguồn vốn dân cư cho phát triển kinh tế của thủ đô. Đây cũng chính là mục tiêu chủ yếu của chuyên đề thực tập”Huy động nguồn vốn trong dân cư cho phát triển kinh tế thành phố Hà Nội”. Nhận thức về các nguồn vốn,trong đó có vốn dân cư chưa hoàn toàn được hiểu thống nhất và càng chưa từng được chuẩn hóa trong bất kỳ một định nghĩa và văn bản tài liệu chính thức nào.Nói cách khác,khái niệm vốn dân cư là có tính mở cao và khá linh hoạt trong thực tế sử dụng của các cơ quan Nhà nước,cũng như trong nhiều tài liệu và nghiên cứu khoa học khác nhau.Tiếp cận dưới góc độ tài chính học và để tránh những phức tạp về lý thuyết cũng như khắc phục những hạn chế về số liệu thống kê và tránh trùng lặp với các đề tài khác đã được thực hiện,nên trong chuyên đề này vốn dân cư được giới hạn là tiền tích lũy trong dân tức bằng tổng các khoản thu trừ đi tổng các khoản chi dùng thường xuyên bắt buộc hàng ngày cho sinh hoạt và chi thiết yếu khác của hộ gia đình dân cư.Đồng thời,các kênh huy động vốn dân cư được giới hạn ở một số kênh chính thức trên thị trường vốn,thị trường chứng khoán Hà Nội,như phát hành trái phiếu qua kho bạc nhà nước cho thu NSNN,tiền tiết kiệm gửi ngân hàng và các tổ chức tín dụng,các khoản tiền mua công trái và chứng khoán doanh nghiệp khác trên TTCK

doc62 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2979 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Huy động nguồn vốn trong dân cư cho phát triển kinh tế thành phố Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Với vị thế là thủ đô,trung tâm chính trị văn hóa giáo dục của cả nước,và cùng với cả nước,Hà Nội đã tiến hành các công cuộc đổi mới sâu sắc toàn diện các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội và đã thu được những thành tựu quan trọng.Thành phố Hà Nội đứng thứ hai trong cả nước về tốc độ phát triển kinh tế,về đóng góp ngân sách nhà nước cũng như tiềm năng và thực tế huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển. Xét trên phạm vi quốc gia và từng địa phương,bên cạnh việc huy động vốn từ ngân sách,từ các nguồn đầu tư nước ngoài,thì nguồn vốn dân cư dài hạn là vô cùng quan trọng.Nhiều năm qua.Hà Nội đã quan tâm và đạt được một số kết quả tích cực bước đầu trong việc thu hút nguồn vốn dân cư cho phát triển kinh tế-xã hội thủ đô,song trên thực tế vẫn còn nhiều bất cập và vấn đề mới được đặt ra,đòi hỏi được nhận thức và giải quyết vấn đề phải làm sao huy động vốn tối đa các nguồn vốn dân cư cho phát triển kinh tế của thủ đô. Đây cũng chính là mục tiêu chủ yếu của chuyên đề thực tập”Huy động nguồn vốn trong dân cư cho phát triển kinh tế thành phố Hà Nội”. Nhận thức về các nguồn vốn,trong đó có vốn dân cư chưa hoàn toàn được hiểu thống nhất và càng chưa từng được chuẩn hóa trong bất kỳ một định nghĩa và văn bản tài liệu chính thức nào.Nói cách khác,khái niệm vốn dân cư là có tính mở cao và khá linh hoạt trong thực tế sử dụng của các cơ quan Nhà nước,cũng như trong nhiều tài liệu và nghiên cứu khoa học khác nhau.Tiếp cận dưới góc độ tài chính học và để tránh những phức tạp về lý thuyết cũng như khắc phục những hạn chế về số liệu thống kê và tránh trùng lặp với các đề tài khác đã được thực hiện,nên trong chuyên đề này vốn dân cư được giới hạn là tiền tích lũy trong dân tức bằng tổng các khoản thu trừ đi tổng các khoản chi dùng thường xuyên bắt buộc hàng ngày cho sinh hoạt và chi thiết yếu khác của hộ gia đình dân cư.Đồng thời,các kênh huy động vốn dân cư được giới hạn ở một số kênh chính thức trên thị trường vốn,thị trường chứng khoán Hà Nội,như phát hành trái phiếu qua kho bạc nhà nước cho thu NSNN,tiền tiết kiệm gửi ngân hàng và các tổ chức tín dụng,các khoản tiền mua công trái và chứng khoán doanh nghiệp khác trên TTCK…   Mặc dù có nhiều cố gắng song do thời gian nghiên cứu và khả năng có hạn chế nên bài viết này không thể tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến góp ý của các thầy cô giáo và các bạn quan tâm đến vấn đề này.   Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của thầy giáo T.S Nguyễn Hồng Minh đã giúp em hoàn thành đề tài này. Chương1:Thực trạng huy động nguồn vốn dân cư cho đầu tư phát triển. 1.1.Khái quát về tình hình kinh tế-xã hội của thành phố Hà Nội. Hà Nội - mảnh đất có truyền thống nghìn năm văn hiến và lừng lẫy chiến công đánh giặc, nơi định đô của các vương triều phong kiến tự chủ Việt Nam tự hào là trung tâm đầu não chính trị của Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á với bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 tháng 9-1945, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Ngay từ buổi đầu cách mạng, Hà Nội đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng công bố bản Tuyên ngôn độc lập tại quảng trường Ba Đình. Là trái tim đất nước, Hà Nội hội tụ các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể xã hội. Thủ đô cũng là nơi diễn ra các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc hội, mà từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại cho từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Đại sứ quán của nhiều quốc gia trên thế giới đều đặt ở Hà Nội. Mọi hoạt động ngoại giao, thăm viếng, trình quốc thư, hội đàm, ký hiệp ước hữu nghị và hợp tác được tiến hành tại đây. Người Hà Nội còn giữ mãi hình ảnh những ngày hoạt động tưng bừng và sôi động; những cuộc đón tiếp anh em bầu bạn từ bốn phương xa đến với Việt Nam . Hà Nội tổ chức thành công nhiều hội nghị quốc tế lớn mà Việt Nam đăng cai như Hội nghị cấp cao các nước có sử dụng tiếng Pháp, Hội nghị cấp cao các nước ASEAN... Nếu như cách đây gần 1000 năm, Thăng Long đã có Văn Miếu-Quốc Tử Giám, trường đại học đầu tiên của nước ta, thì nay Hà Nội là nơi tập trung 44 trường đại học và cao đẳng của đất nước, với hơn 330 nghìn học sinh - sinh viên. Sau Cách mạng Tháng Tám 1945, tất cả các trường ở Việt Nam đều dùng tiếng Việt. Bên cạnh đó là 25 trường trung học chuyên nghiệp với 15 nghìn học viên, tăng gấp 13 lần năm học sau giải phóng. Tính bình quân cứ 3 người Hà Nội có một người đang đi học. Nhiều học sinh Hà Nội đạt giải cao trong các kỳ thi quốc gia và quốc tế. Hà Nội còn là địa phương đầu tiên trong cả nước được công nhận phổ cập xong cấp trung học cơ sở, có một số trường đặc biệt dạy trẻ em khuyết tật. Sau một thời gian dài của thời kỳ bao cấp, từ đầu thập niên 1990, kinh tế Hà Nội bắt đầu ghi nhận những bước tiến mạnh mẽ. Tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của thành phố thời kỳ 1991–1995 đạt 12,52%, thời kỳ 1996–2000 là 10,38%. Từ năm 1991 tới 1999, GDP bình quân đầu người của Hà Nội tăng từ 470 USD lên 915 USD, gấp 2,07 so với trung bình của Việt Nam. Theo số liệu năm 2000, GDP của Hà Nội chiếm 7,22% của cả quốc gia và khoảng 41% so với toàn vùng Đồng bằng sông Hồng. Giai đoạn phát triển của thập niên 1990 cũng cho thấy Hà Nội đã có những thay đổi về cơ cấu kinh tế. Từ 1990 tới 2000, trong khi tỷ trọng ngành công nghiệp tăng mạnh từ 29,1% lên 38% thì nông–lâm nghiệp và thuỷ sản từ 9% giảm xuống còn 3,8%. Tỷ trọng ngành dịch vụ cũng giảm trong khoảng thời gian này, từ 61,9% xuống còn 58,2%. Ngành công nghiệp của Hà Nội vẫn tập trung vào 5 lĩnh vực chính, chiếm tới 75,7% tổng giá trị sản xuất công nghiệp, là cơ–kim khí, điện–điện tử, dệt–may–giày, chế biến thực phẩm và công nghiệp vật liệu. Bên cạnh đó, nhiều làng nghề truyền thống như gốm Bát Tràng, may ở Cổ Nhuế, đồ mỹ nghệ Vân Hà... cũng dần phục hồi và phát triển. Năm 2007, GDP bình quân đầu người của Hà Nội lên tới 31,8 triệu đồng, trong khi con số của cả Việt Nam là 13,4 triệu. Hà Nội là một trong những địa phương nhận được đầu tư trực tiếp từ nước ngoài nhiều nhất, với 1.681,2 triệu USD và 290 dự án. Thành phố cũng là địa điểm của 1.600 văn phòng đại diện nước ngoài, 14 khu công nghiệp cùng 1,6 vạn cơ sở sản xuất công nghiệp. Nhưng đi đôi với sự phát triển kinh tế, những khu công nghiệp này đang khiến Hà Nội phải đối mặt với vấn đề ô nhiễm môi trường. Bên cạnh những công ty nhà nước, các doanh nghiệp tư nhân cũng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế Hà Nội. Năm 2003, với gần 300.000 lao động, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 77% giá trị sản xuất công nghiệp cùa thành phố. Ngoài ra, 15.500 hộ sản xuất công nghiệp cũng thu hút gần 500.000 lao động. Tổng cộng, các doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp 22% tổng đầu tư xã hội, hơn 20% GDP, 22% ngân sách thành phố và 10% kim ngạch xuất khẩu của Hà Nội. Sau khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2 triệu người đang trong độ tuổi lao động. Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao động có trình độ chuyên môn cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu ngành kinh tế. Hà Nội còn phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác. Năng lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi trường đầu tư của thành phố còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn. Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư. Thành phố Hà Nội có số dân khoảng 6,1 triệu ngưới.Dân cư Hà Nội phân bố không đều giữa các lãnh thổ hành chính và giữa các vùng sinh thái. Mật độ dân số trung bình của Hà Nội là 2881 người/km2 (mật độ trung bình ở nội thành 19163 người/km2, riêng quận Hoàn Kiếm là 37265 người/km2, ở ngoại thành 1721 người/km2). Mật độ này cao gấp gần 12 lần so với mức trung bình của cả nước, gần gấp đôi mật độ dân số của vùng đồng bằng sông Hồng và là thành phố có mật độ cao nhất cả nước. Việc dân số tăng quá nhanh cùng quá trình đô thị hóa không được quy hoạch tốt đã khiến Hà Nội trở thành một thành phố chật chội, ô nhiễm và giao thông nội ô thường xuyên ùn tắc. Nhiều di sản kiến trúc của thành phố đang dần biến mất, thay thế bởi những ngôi nhà ống nằm lộn xộn trên khắp các con phố. Hà Nội còn là một thành phố phát triển không đồng đều với nhiều khu vực ngoại thành lạc hậu, nơi người dân vẫn chưa có được những điều kiện sinh hoạt thiết yếu. Hà Nội là trung tâm chính trị,kinh tế văn hóa giáo dục của cả nước.Bên cạnh đó còn nhiều bất cập như mật độ dân số tăng nhanh cộng với quy hoạch kiến trúc đô thị còn lộn xộn vì vậy nhất thiết phải tăng cường thu hút vốn cho đầu tư phát triển để xây dựng Hà Nội thành một thành phố bền vững trong tương lai.Bên cạnh việc huy động vốn từ ngân sách,từ các nguồn vốn nước ngoài thì nguồn vốn trong dân cư về dài hạn là vô cùng quan trọng.Thực tế phát triển thế giới cho thấy,bất kỳ nước nào cũng đều sử dụng nguồn lực nội bộ là chính.Nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài,dù là viện trợ,cho vay hay đầu tư từ nước ngoài cũng không thể thay thế nguồn vốn trong nước.Hơn nữa các nguồn vốn nước ngoài không phải là vốn cho không mà đều có điều kiện và phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.Về lâu dài vốn vay phải trả cả gốc lẫn lãi,còn FDI phải dành một phần cho chuyển lãi và vốn gốc về chính quốc. Xét dưới góc độ tổng quát,nguồn vốn trong dân cư có vai trò: -Lăm tăng vốn đầu tư toàn xã hội,trực tiếp làm tăng tổng vốn đầu tư trong nước. -Đáp ứng sự linh hoạt phương thức,qui mô,lĩnh vực đầu tư,từ đó góp phần làm tăng hiệu quả đầu tư của xã hội. Với GDP bình quân đầu người vào mức cao của cả nước thì việc huy động tối đa các nguồn vốn dân cư cho đầu tư phát triển kinh tế là cần thiết hơn bao giờ hết. 1.2.Thực trạng huy động nguồn vốn dân cư cho đầu tư phát triển. Để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội thì cần phải có một nguồn vốn lớn.Chính sách huy động và sử dụng vốn là một bộ phqqnj quan trọng trong chính sách tài chính -tiền tệ quốc gia,nó liên quan đến chính sách phân phối thu nhập trong phạm vi toàn xã hội,tác động trực tiếp đến các mối quan hệ tích lũy,tiêu dùng và các chính sách tiền tệ tín dụng.   Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hoá và hiện đại hoá trong 20 năm đầu của thế kỷ 21, Việt Nam phải hoàn tất củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng. Điều này yêu cầu một nguồn vốn khổng lồ, bao gồm quỹ Nhà nước và vốn từ các cá nhân cả trong nước và nước ngoài, cũng như sự hợp tác chặt chẽ giữa Nhà nước và cá nhân trong việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng quốc gia nói chung và cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng.   Theo báo cáo Phát triển Việt Nam 2007 của ngân hàng Thế giới, đầu tư hàng năm của Việt Nam vào cơ sở hạ tầng chiếm từ 9-10% GDP (tỉ lệ cao nhất so với tiêu chuẩn quốc tế). Tuy nhiên, cả Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á đều cho rằng, để duy trì tỉ lệ hiện tại, Việt Nam nên tăng đầu tư vào cơ sở hạ tầng đến 11-12% trong tổng GDP. Theo Thứ trưởng Sở Kế hoạch Đầu tư Nguyễn Bích Đạt, đầu tư vào phát triển cơ sở hạ tầng phải gấp 2 lần tỉ lệ tăng trưởng kinh tế, nếu không, mọi thứ sẽ phải được bố trí lại. Để đạt được mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp phát triển vào năm 2020, Việt Nam phải xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng hiện đại và toàn diện. Giai đoạn 2007-2008, đất nước cần khoản 30 tỉ USD/năm để phát triển cơ sở hạ tầng. Hiện tại, gần 40% trong tổng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng là được cung cấp từ nguồn vốn quốc tế, trong khi đó, chỉ 15% là từ tư nhân.           Đối với nhu cầu đầu tư vốn để nâng cao hệ thống giao thông cho đến năm 2020, mỗi năm Việt Nam cần 117.744 tỉ VND (gần 7,4 tỉ USD), trong khi hiện tại, khả năng đáp ứng nhu cầu trên chỉ ở mức 2-3 tỉ USD, chủ yếu từ ngân sách Nhà nước, ODA và trái phiếu Chính phủ. Theo Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), con số này chỉ đáp ứng 20-30% tổng nhu cầu.           Hà Nội là trung tâm tài chính-tiền tệ lớn nhất Miền Bắc và đứng thứ hai đất nước sau thành phố Hồ Chí Minh.Trong những năm qua,Hà Nội đã thu hút được khá nhiều nguồn vốn phục vụ phát triển kinh tế-xã hội.   Phương hướng và nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đã được khẳng định và thể chế hóa qua nghị quyết của Bộ chính trị về phương hướng,nhiệm vụ phát triển thủ đô trong thời kỳ 2001-1010 và Pháp lệnh Thủ đô,theo đó mục tiêu đề ra là đến năm 2010,tốc độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm của Hà Nội đạt khoảng 9%,GDP bình quân đầu người đạt 2100-2200USD/người,cơ cấu kinh tế là:dịch vụ 56%.công nghiệp 42%,nông nghiệp 2%.   Để thực hiện được các mục tiêu nói trên,việc huy động tối đa các nguồn lực tài chính cho đầu tư phát triển thủ đô đóng vai trò quyết định.Theo ước tính,trong thời kỳ 2001-2010,nhu cầu về vốn đầu tư phát triển trên địa bàn thành phố Hà Nội 329.000 tỷ đồng,bình quân hàng năm nhu cầu về vốn là 32.900 tỷ đồng. 1.3.Kết quả huy động nguồn vốn trong dân cư cho đầu tư phát triển kinh tế qua các kênh chính thức chủ yếu. 1.3.1.Huy động nguồn vốn dân cư cho NSNN theo kênh phát hành trái phiếu chính phủ thông qua kho bạc nhà nước. Việt Nam bắt đầu tiến hành huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu thí điểm từ 1991 và tính đến 2005, Bộ Tài chính đã huy động  được 200 ngàn tỷ đồng. Trong đó, giai đoạn 2000-2005 là huy động nhiều nhất. Hiện nay, trái phiếu Chính phủ đang là lượng hàng hoá lớn nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam . Trong giai đoạn 2001 - 2005, Chính phủ đã phát hành khoảng gần 60.000 tỉ đồng trái phiếu; trong đó 50.000 tỉ đồng phát hành qua Kho bạc Nhà nước, 8.000 tỉ đồng phát hành qua đấu giá trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.Toàn bộ số vốn phát hành trái phiếu Chính phủ nói trên được Bộ Tài chính để Tổng công ty Công nghiệp tàu thủy Việt Nam vay lại đầu tư cho các dự án đóng tàu. Bảng 1: Các đợt huy động vốn của kho bạc Hà Nội. Năm 1995        6.681.015   Đợt 1  6 tháng  1,7  2.060.901   Đợt 2  12 tháng  21  4.620.114   Năm 1996        734.482   Đợt 1  12 tháng  16  260.302   Đợt 2  12 tháng  12  474.180   Năm 1997        1.218.956   Đợt 1  24 tháng  12  925.087   Đợt 2  24 tháng  14   293.869   Năm 1998        638.570   Đợt 1  24 tháng  12  29.341   Đợt 2  24 tháng  12  149.616   Đợt 3  24 tháng  13  412.874   Đợt 4  24 tháng  14  46.739   Năm 1999        3.814.207   Đợt 1  24 tháng  13  893.837   Đợt 2  60 tháng  10  2.920.370   Năm 2000        1.024.000   Đợt 1  24 tháng  7  591.000   Đợt 2  60 tháng  6.4  433.000   Năm 2001        759.528   Đợt 1  24 tháng  6.8  637.749   Đợt 2  24 tháng  7.0  80.426   Đợt 3  60 tháng  7.2  41.353   Năm 2002        759.528   Đợt 1  24 tháng  7.1  167.796   Đợt 2  24 tháng  7.4  277.446   Đợt 3  24 tháng  7.8  273.545   Năm 2003        2.513.876   Đợt 1  24 tháng  8.2  293.824   Đợt 2  60 tháng  8.0  1.490.747   Đợt 3  24 tháng  8.4  140.818   Đợt 4  24 tháng  8.2  147.761   Đợt 5  60 tháng  8.5  44.726   Năm 2004        1.323.071   Đợt 1  24 tháng  8.2  788.962   Đợt 2  60 tháng  8.5  534.109   Năm 2005        2.459.648   Đợt 1  24 tháng  8.4  381.903   Đợt 2  60 tháng  8.2  2.077.745   Đợt 3  60 tháng  8.6  120.198                                                                                 Nguồn:Kho bạc Hà Nội Để chủ động hơn trong việc sử dụng vốn từ năm 1996.KBNN đã ngừng phát hành trái phiếu loại 1 năm để phát hành trái phiếu kỳ hạn 2 năm.Thời hạn phát hành trái phiếu thường là 2 năm.Lãi suất trái phiếu cũng được điều chỉnh giảm dần từ 16%  năm 1996 xuống còn khoảng trên dưới 8% cho đến hiện nay. Về huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ (TPCP), tính đến hết ngày 24/12/2008, Kho bạc Nhà nước đã huy động được trên 39.627 tỷ đồng, bằng 63,6% kế hoạch được giao. Trong năm 2008, đã có 70 thành viên thị trường tham gia vào thị trường đấu thầu TPCP, 40 thành viên bảo lãnh phát hành. Trong 2 năm 2005 và 2006,Hà Nội đã phát hành TPCQĐP qua KBNN thành phố thu được 1500 tỷ đồng dùng để đầu tư cơ sở hạ tầng đô thị(cầu Nhật Tân và đường 5 kéo dài).Thời hạn huy động chủ yếu là 5 năm với lãi suất gần 8%. Ngày 1/4/2009, UBND TP Hà Nội vừa phê duyệt kế hoạch đầu tư 400 tỷ đồng đợt 1 năm 2009 theo cơ chế cấp phát các dự án xây dựng hạ tầng kỹ thuật, và nhà ở xã hội trên địa bàn Thủ đô. Cụ thể, ngân sách TP sẽ tạm ứng 200 tỉ đồng thực hiện các dự án đầu tư theo cơ chế cấp phát thuộc kế hoạch năm 2008 nhưng mất cân đối nguồn do hụt thu nguồn tiền sử dụng đất, tiền bán nhà phục vụ tái định cư thuộc kế hoạch thu năm ngoái, chuyển tiếp sang kế hoạch đầu tư năm 2009. Một số dự án thuộc kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản điều chỉnh năm 2008 giao Kho bạc Nhà nước thành phố thanh toán như: Nhà NƠ1 đô thị mới Định Công; Nhà N1A, N1B, N5A, N5BC, N5D đô thị mới Trung Hòa - Nhân Chính; cụm nhà ở cao tầng trên ô đất N2A, N2B, N2C, N2D, N2E, N2F cũng thuộc khu Trung Hòa - Nhân Chính... 1.3.2.Huy động vốn dân cư qua kênh ngân hàng và các tổ chức tín dụng. Với mục đích huy động nguồn vốn lớn trong dân cư,hệ thống ngân hàng đã thực hiện nhiều cải cách theo hướng thị trường hóa và hiện đại hóa nhằm tăng cường khả năng huy động vốn và tăng cường lòng tin của công chúng trong hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó,ngân hàng cũng đưa ra quy chế mới về tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình.Nội dung cải cách gồm:   -Quy định đối tượng gửi tiết kiệm bao gồm cả cá nhân nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam .   -Cho phép các TCTD được tự quy định các điều kiện và điều khoản đối với hoạt động gửi tiết kiệm của cá nhân và hộ gia đình.Nội dung cải cách bao gồm:   -Quy định đối tượng gửi tiết kiệm bao gồm cả cá nhân nước ngoài đang sinh sống và làm việc tại Việt Nam .   -Cho phép các tổ chức tín dụng được tự quy định các điều kiện và các điều khoản đối với hoạt động gửi tiết kiệm như thời hạn,các hình thức huy động…   -Cho phép tổ chức tín dụng tổ chức việc nhận và chi trả tiền gửi tiết kiệm tại các địa điểm giao dịch khác nhau trong cùng hệ thống. -Cho phép tổ chức tín dụng áp dụng chức năng thanh toán đối với tài khoản riền gửi tiết kiệm của người gửi tiền trong một số trường hợp. Đánh giá việc huy động vốn của thành phố Hà Nội trong thời gian qua: Tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn huy động  bình quân của các TCTD của thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2005 đạt trên 23% /năm(dự kiến năm 2006 vốn huy động  tăng hơn 30% so với năm 2005).thấp hơn mức tăng trưởng bình quan của toàn ngành ngân hàng(24%/năm).Tiền gửi của dân cư và các doanh nghiệp ,đặc biệt là nguồn vốn có thời hạn trên 1 năm tăng khá trong những năm gần đây đã tạo được thế chủ động trong cho vay và đầu tư trung và dài hạn.Đây là yếu tố quan trọng đáp ứng nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế-xã hội và phát triển các ngân hàng trên địa bàn. Bảng 2:Nguồn huy động vốn của các tổ chức dân cư thông qua hệ thống ngân hàng trên địa bàn thành phố Hà Nội.                                                                                             Đơn vị:tỷ đồng    2000  2001  2003  2004  2005  2006  2007  2008   Tổng nguồn vốn huy động  74.477  92.500  147.175  172.160  175.227  231.779  397.852  483.972   Trong đó                           Tổ chưc kinh tế  41.214  51.270  90.917  107.410  96.559  128.271  292.417  320.659   Dân cư  33.263  41.230  56.228  64.750  78.668  13.508  105.435  163.313                                                                 Nguồn:Tổng cục thống kê Hà Nội. Các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng đã tìm mọi biện
Luận văn liên quan