Chuyên đề Kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại ở công ty Dịch vụ tư vấn Tài chính kế toán và kiểm toán

Đã từ lâu, hệ thống các ngân hàng thương mại đã là một thành phần không thể thiếu được của một nền kinh tế. Ban đầu chỉ ở dạng sơ khai do những lái buôn giàu có nhận gửi tiền và giữ tiền, thi ngày nay hệ thống các ngân hàng thương mại đã trở nên tinh vi, và đem đến cho khách hàng những tiện ích vô cùng lớn với một hệ thống các loại dịch vụ mới, hiện đại. Có thể nói hệ thống ngân hàng có thể coi như mạch máu trong cơ thể con người. Chính vì vai trò vô cùng quan trọng của hệ thống các ngân hàng thương mại như vậy mà mỗi biến động của nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Do đó đảm bảo an ninh tài chính cho một ngân hàng thương mại là vô cùng cần thiết. Và kiểm toán chính là một trong những nhân tố tốt nhất để làm điều đó. Trên thế giới, đã từ lâu kiểm toán với vai trò là người kiểm tra giám sát cũng như là người tư vấn dẫn đường góp phần giữ vững sự ổn đinh của nền kinh tế. Tại Việt Nam, dù rằng ra đời chưa lâu, nhưng ngành kiểm toán Việt Nam đã thiết lập được số đứng vững chắc của mình và trở thành một hoạt động không thể thiếu được của nền kinh tế. Và đặc biệt kiểm toán các ngân hàng thương mại cũng là một trong những hoạt động chiến lược của ngành kiểm toán. Vì vai trò quan trọng của ngân hàng trong hệ thống kinh tế, và vì vai trò quan trọng của kiểm toán trong đối với việc bảo đảm an ninh tài chính của nền kinh tế. Trong đó doanh thu và chi phí là hai khoản mục rất quan trọng trong Báo cáo tài chính, và đòi hỏi phải được kiểm toán một cách đầy đủ và hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán khoản mục doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại, công ty kiểm toán AASC đã luôn không ngừng cải tiến phương pháp kiểm toán để tìm ra chương trình kiểm toán doanh thu, chi phí một cách hiệu quả đạt được mục tiêu kiểm toán đề ra. Do tầm quan trọng của kiểm toán doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại và sau một thời gian thực tập tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán- AASC, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú lãnh đạo công ty, các anh chị trong Phòng kiểm toán Thương mại và Dịch vụ và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Ngô Trí Tuệ mà em chọn đề tài này: “ Kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại ở Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán.” Bố cục của chuyên đề này chia làm ba phần: Phần 1: Lý luận chung về Kiểm toán các loại Doanh thu và Chi phí trong Kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại. Phần 2: Thực tiễn kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại do AASC thực hiện Phần 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại do AASC thực hiện.

docChia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3248 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Chuyên đề Kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại ở công ty Dịch vụ tư vấn Tài chính kế toán và kiểm toán, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Đã từ lâu, hệ thống các ngân hàng thương mại đã là một thành phần không thể thiếu được của một nền kinh tế. Ban đầu chỉ ở dạng sơ khai do những lái buôn giàu có nhận gửi tiền và giữ tiền, thi ngày nay hệ thống các ngân hàng thương mại đã trở nên tinh vi, và đem đến cho khách hàng những tiện ích vô cùng lớn với một hệ thống các loại dịch vụ mới, hiện đại. Có thể nói hệ thống ngân hàng có thể coi như mạch máu trong cơ thể con người. Chính vì vai trò vô cùng quan trọng của hệ thống các ngân hàng thương mại như vậy mà mỗi biến động của nó cũng ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế. Do đó đảm bảo an ninh tài chính cho một ngân hàng thương mại là vô cùng cần thiết. Và kiểm toán chính là một trong những nhân tố tốt nhất để làm điều đó. Trên thế giới, đã từ lâu kiểm toán với vai trò là người kiểm tra giám sát cũng như là người tư vấn dẫn đường góp phần giữ vững sự ổn đinh của nền kinh tế. Tại Việt Nam, dù rằng ra đời chưa lâu, nhưng ngành kiểm toán Việt Nam đã thiết lập được số đứng vững chắc của mình và trở thành một hoạt động không thể thiếu được của nền kinh tế. Và đặc biệt kiểm toán các ngân hàng thương mại cũng là một trong những hoạt động chiến lược của ngành kiểm toán. Vì vai trò quan trọng của ngân hàng trong hệ thống kinh tế, và vì vai trò quan trọng của kiểm toán trong đối với việc bảo đảm an ninh tài chính của nền kinh tế. Trong đó doanh thu và chi phí là hai khoản mục rất quan trọng trong Báo cáo tài chính, và đòi hỏi phải được kiểm toán một cách đầy đủ và hiệu quả. Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán khoản mục doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại, công ty kiểm toán AASC đã luôn không ngừng cải tiến phương pháp kiểm toán để tìm ra chương trình kiểm toán doanh thu, chi phí một cách hiệu quả đạt được mục tiêu kiểm toán đề ra. Do tầm quan trọng của kiểm toán doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của ngân hàng thương mại và sau một thời gian thực tập tại Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán- AASC, được sự giúp đỡ nhiệt tình của các cô chú lãnh đạo công ty, các anh chị trong Phòng kiểm toán Thương mại và Dịch vụ và sự hướng dẫn tận tình của thầy giáo Tiến sĩ Ngô Trí Tuệ mà em chọn đề tài này: “ Kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại ở Công ty Dịch vụ Tư vấn Tài chính Kế toán và Kiểm toán.” Bố cục của chuyên đề này chia làm ba phần: Phần 1: Lý luận chung về Kiểm toán các loại Doanh thu và Chi phí trong Kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại. Phần 2: Thực tiễn kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại do AASC thực hiện Phần 3: Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả kiểm toán các loại doanh thu, chi phí trong kiểm toán Báo cáo tài chính của Ngân hàng thương mại do AASC thực hiện. CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN CÁC LOẠI DOANH THU CHI PHÍ TRONG KIỂM TOÁN BCTC CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại 1.1.1 Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế. Ngân hàng bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó Ngân hàng thương mại thường chiếm tỉ trọng lớn nhất, về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Với tư cách là một định chế tài chính trung gian, Ngân hàng thương mại thực hiện việc lưu chuyển tiền tệ trong nền kinh tế linh hoạt và hiệu quả và thông qua việc huy động và phân phối nguồn vốn trong xã hội. Sự vững mạnh của hệ thống ngân hàng nói chung và ngân hàng thương mại nói riêng có ý nghĩa rất quan trọng của hệ thống tài chính quốc gia. Như vậy sự ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng là nhiệm vụ hàng đầu của mỗi quốc gia, đặc biệt là quá trình mở cửa và hội nhập hiện nay. Ngân hàng là tổ chức tài chính cung cấp một doanh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất, đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Do đó để có thể hiểu được là doanh thu chi phí của Ngân hàng thương mại, các loại doanh thu chi phí của Ngân hàng thương mại liên quan đến những vấn để gì ? dòng tiền của ngân hàng diễn ra như thế nào? Thì trước hết chúng ta cần hiểu những đặc điểm hoạt động của ngân hàng thương mại, những hoạt động tài chính quyết định doanh thu và chi phí của Ngân hàng thương mại. 1.1.2. Đặc điểm hoạt động của Ngân hàng thương mại trong nền kinh tế thị trường 1.1.2.1. Ngân hàng thương mại, chủ thể nhận và kinh doanh tiền gửi Ngân hàng thương mại có đặc điểm này, thứ nhất xuất phát từ sự hình thành và phát triển của ngân hàng. Lịch sử Ngân hàng thương mại là lịch sử kinh doanh tiền gửi. Từ chỗ làm dịch vụ tiền gửi với tư cách là người thủ quỹ, bảo quản tiền cho chủ sở hữu để nhận khoản tiền thù lao, trở thành những chủ thể kinh doanh tiền gửi nghĩa là huy động tiền gửi không những miễn khoản thù lao mà còn trả lãi cho khách hàng tiền gửi để làm vốn cho vay nhằm tối ưu những khoản lợi nhuận thu được. Thứ hai là, Đặc điểm của Ngân hàng thương mại được quy định trong luật một số nước, ở Việt Nam nó được quy định trong luật các tổ chức tín dụng. Luật ngân hàng của Pháp năm 1941 định nghĩa: được coi là ngân hàng là những xí nghiệp hay cơ sở nào hành nghề thường xuyên nhận của công chúng dưới hình thức ký thác hay hình thức khác các số tiền mà họ dùng cho chính họ và các nhiệm vụ chiết khấu, tín dụng hay là dịch vụ tài chính. Luật ngân hàng của Ân Độ năm 1950 được bổ xung năm 1959 đă nêu “ Ngân hàng là cơ sở nhận các khoản tiền kí thác để cho vay, tài trợ đầu tư” Theo điều 20 luật TCTG của Việt Nam có nêu: “TCTG là doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật này và các qui định khác của pháp luật để kinh doanh tiền tệ, và làm dịch vụ ngân hàng, với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ thanh toán. 1.1.2.2 Hoạt động của Ngân hàng thương mại gắn bó mật thiết với hệ thống lưu động tiền tệ và hoạt động thanh toán của mỗi quốc gia, đồng thời có mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Đặc điểm này được hiểu thông qua khái niệm “ thanh toán qua ngân hàng”, thanh toán qua ngân hàng chỉ các nghiệp vụ chi trả tiền hàng, dịch vụ và các khoản thanh toán giữa các tác nhân trong nước và quốc tế, được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng, bằng cách trích chuyển tài khoản trong hệ thống tín dụng hoặc bù trừ công nợ mà không sử dụng đến tiền mặt. Thanh toán không dùng tiền mặt ở bất cứ quốc gia nào cũng được coi là hình thức thanh toán mang lại hiệu quả, tiết kiệm và có ý nghĩa kinh tế lớn. Trong lĩnh vực lưu thông tiền tệ, thanh toán không dùng tiền mặt góp phần giảm bớt tỉ trọng tiền mặt do đó tiết kiệm được chi phí lưu thông cho xã hội. Hơn nữa, thanh toán không dùng tiền mặt còn tạo sự chuyển hoá thông suốt giữa tiền mặt và tiền chuyển khoản. Trong lĩnh vực tín dụng, thanh toán không dùng tiền mặt tạo khả năng tập trung vốn tín dụng vào hệ thống ngân hàng để đầu tư cho phát triển kinh tế. 1.1.2.3 Hoạt động của Ngân hàng thương mại đa dạng và có phạm vi rộng lớn. Các nghiệp vụ hạn hẹp của Ngân hàng thương mại trước đây, chủ yếu được tiến hành trên cơ sở tiền mặt, nay nhờ công nghệ thông tin ngân hàng mà ngày càng đa dạng và phong phú. Tỉ trọng về hoạt động ngân hàng truyền thống giảm xuống. Thêm vào đó các nghiệp vụ ngân hàng hiện đại như: nghiệp vụ thẻ thanh toán, thuê mua (leasing), mua nợ (Factoring), kinh doanh chứng khoán, nghiệp vụ và các dịch vụ ngoại tệ đối với ngoại thương… Về phương diện phạm vi, ngân hàng hoạt động trên bình diện rộng: cả trong nước và quốc tế. Trong nền kinh tế mở, hội nhập hiện nay hoạt động của Ngân hàng thương mại có nhiều mối liên hệ quốc tế rộng rãi. Điều này thể hiện trước tiên là các dao dịch kinh tế thương mại toàn cầu diễn ra ngày càng mạnh mẽ kéo theo đó là các nhu cầu về sản phẩm dịch vụ ngân hàng phải phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu nhằm thoả mãn chủ thể giao dịch và thêm vào đó thúc đẩy các giao dịch kinh tế ngày càng phát triển. Hoạt động của Ngân hàng thương mại mang tính chất quốc tế còn thể hiện ở chỗ: các nước đang phát triển luôn chủ động học tập kinh nghiệm của các nước đi trước. Việc nghiên cứu hoạt động của ngân hàng của các nước phát triển đã bổ xung hoàn chỉnh, đổi mới hoạt động ngân hàng trong các quốc gia bước vào giai đoạn phát triển là vô cùng cần thiết. Trên thực tế nhiều nước đã làm và đạt được kết quả về phương diện tổ chức và hoạt động của ngân hàng. 1.1.3. Chức năng của Ngân hàng thương mại 1.1.3.1 Trung gian tài chính Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành các khoản đầu tư, đòi hỏi sự tiếp xúc với hai loại cá nhân và tổ chức trong nền kinh tế: (1) Các cá nhân và tổ chức tạm thời thâm hụt chi tiêu, tức là chi tiêu cho tiêu dùng và đầu tư vượt quá thu nhập vì thế họ là người cần bổ xung vốn: và (2) Các cá nhân và các tổ chức thặng dư chi tiêu, tức là thu nhập hiện tại của họ lớn hơn các khoản chi tiêu cho hàng hoá dịch vụ và do vậy họ có tiền tiết kiệm. Sự tồn tại hai loại cá nhân tổ chức trên hoàn toàn độc lập với ngân hàng. Điều tất yếu là tiền sẽ chuyển từ nhóm (2) sang nhóm (1) nếu cả hai cùng có lợi. Như vậy thu nhập gia tăng là động lực tạo ra mối quan hệ tài chính giữa hai nhóm. Nếu dòng tiền di chuyển với điều kiện quay trở lại với một lượng lớn hơn trong một khoảng thời gian nhất định thì đó gọi là quan hệ tín dụng. Nếu không thì đó là quan hệ cấp phát và hùn vốn, ban đầu dòng tiền chảy ra ở dạng này xuất hiện dưới dạng quan hệ tín dụng trực tiếp. Tuy nhiên quan hệ tín dụng trực tiếp gặp phải nhiều rào cản, hay là giới hạn do không phù hợp về quy mô thời gian và không gian… Ví dụ như những người thuộc nhóm (1) và (2) không tương thích với nhau, có thể là cách xa nhau về địa lí hay không đủ điều kiện v.v… Điều này cản trở quan hệ tín dụng trực tiếp phát triển và là điều kiện để này sinh trung gian tài chính. Do chuyên môn hoá trung gian tài chính nên có thể giảm được chi phí giao dịch. Như vậy trung gian tài chính đã làm tăng thu nhập cho người tiết kiệm, từ đó khuyến khích tiết kiệm, đồng thời giảm phí tổn tín dụng cho người đầu tư. Trung gian tài chính đã tập hợp được các người tiết kiệm đầu tư, vì vậy mà giải quyết được mâu thuẫn tín dụng trực tiếp. Một đóng góp khác của ngân hàng là họ sẵn sàng chấp nhận các khoản cho vay nhiều rủi ro, trong khi đó lại phát hành các chứng khoán ít rủi ro cho người có tiền. Thực tế các ngân hàng tham gia vào kinh doanh rủi ro, ngân hàng cũng thoả mãn nhu cầu thanh khoản của nhiều khách hàng. 1.1.3.2. Tạo phương tiện thanh toán Tiền vàng có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Các ngân hàng đă không tạo được tiền kim loại. Các ngân hàng thợ vàng đã tạo ra phương tiện thanh toán khi phát hành giấy nhận nợ và khách hàng. Giấy nhân nợ do ngân hàng phát hành với ưu điểm nhất định đã trở thành phương tiện thanh toán được nhiều người chấp nhận. Như vậy ban đầu các ngân hàng thương mại đã tạo ra phương tiện thanh toán thay cho tiền kim loại dựa trên số lượng tiền kim loại đang nắm giữ. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của các ngân hàng đã thay thế tiền kim loại làm phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Tuy nhiên khi mà nhu cầu có 1 đồng tiền thống nhất quôc gia và vì việc in tiền mang lại lợi nhuận rất lớn nên các ngân hàng thương mại đã bị chấm dứt việc tạo ra các giấy bạc riêng của mình. Trong điều kiện phát triển thanh toán qua ngân hàng, các khách hàng nhận thấy nếu họ có được số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán, họ có thể chi trả để có được hàng hoá dịch vụ theo yêu cầu. Theo quan điểm hiện đại, đại lượng tiền tệ bao gồm nhiều bộ phận. Thứ nhất là tiền giấy trong lưu thông (M0), thứ hai là số dư trên tài khoản tiền gửi giao dịch của khách hàng tại ngân hàng, thứ ba là tiền gửi trên các tài khoản trên tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn. Khi ngân hàng cho vay, số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng tăng lên, khách hàng có thể dùng để mua hàng hoặc để dịch vụ. Do đó bằng việc cho vay (hay tạo tín dụng) các ngân hàng đã tạo ra phương tiện thanh toán (tham gia tạo ra M1). Toàn bộ hệ thống ngân hàng cũng tạo ra phương tiện thanh toán khi các khoản tiền gửi được mở rộng từ ngân hàng này qua ngân hàng khác trên cơ sở cho vay. Khi khách hàng tại một ngân hàng sử dụng khoản tiền vay để chi trả thì sẽ tạo nên khoản thu (tức là làm tăng số dư tiền gửi) của một khách hàng tại một ngân hàng khác. Từ đó tạo ra các khoản cho vay mới. Trong khi không một ngân hàng riêng lẻ nào có thể cho vay lớn hơn dự trữ thừa, toàn bộ hệ thống ngân hàng có thể tạo ra một khối lượng tiền gửi (tạo ra phương tiện thanh toán) gấp bội thông qua hoạt động cho vay (tạo tín dụng). 1.1.3.3 Trung gian thanh toán Ngân hàng trở thanh trung gian thanh toán lớn nhất hiện nay ở hầu hết các quốc gia. Thay mặt khách hàng ngân hàng thực hiện thanh toán các giá trị hàng hoá và dịch vụ. Để việc thanh toán nhanh chóng, thuận tiện và tiết kiệm chi phí, ngân hàng đưa ra cho khách hàng nhiều hình thức thanh toán như, thanh toán bằng séc, uỷ nhiệm chi, nhở thu, các loại thẻ… cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quĩ và cung cấp tiền giấy khi khách hàng có yêu cầu. Các ngân hàng còn thực hiện thanh toán bù trừ thông qua ngân hàng TƯ hoặc thông qua các trung tâm thanh toán. Công nghệ thanh toán qua ngân hàng đạt hiệu quả cao khi qui mô sử dụng công nghệ đó được mở rộng. Các trung tâm thanh toán quốc tế được thiết lập đã làm tăng hiệu quả thanh toán thông qua ngân hàng, biến ngân hàng trở thành trung tâm thanh toán quan trọng và có hiệu quả, phục vụ đắc lực cho nền kinh tế quốc dân. 1.1.4 Các dịch vụ của ngân hàng Để thực hiện các chức năng trên thì ngân hàng thương mại thực hiện một loạt các dịch vụ sau. Thành công của ngân hàng thương mại phụ thuộc vào năng lực xác định các dịch vụ tài chính mà xã hội có yêu cầu, thực hiện các dịch vụ đó một cách có hiệu quả. 1.1.4.1. Mua bán ngoại tệ Một trong những dịch vụ ngân hàng thương mại là trao đổi (mua bán) ngoại tệ. Một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ ro các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có mức đó rủi ro cao phải có trình độ chuyên môn cao. 1.1.4.2 Nhận tiền gửi Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn quan trọng các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Ngân hàng mở dịch vụ nhận tiền gửi để bảo quản hộ người có tiền với cam kết hoàn trả đúng thời hạn. Trong cuộc cạnh tranh để tìm và giành được các khoản tiền gửi, các ngân hàng đă trả lãi cho tiền gửi như là phần thưởng cho khách hàng về sự sẵn sàng hi sinh nhu cầu tiêu dùng và cho phép ngân hàng sử dụng tạm thời để kinh doanh. 1.1.4.3 Cho vay 1.1.4.3.1 Cho vay thương mại Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán (người bán chuyển các khoản phải thu cho ngân hàng để lấy tiền trước). Sau đó các bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với khách hàng (là người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. 1.1.4.3.2 Cho vay tiêu dùng Trong giai đoạn đầu hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân hay hộ gia đình bởi họ tin rằng các khoản vay tiêu dùng rủi ro vỡ nợ tương đối cao. Sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới tiêu dùng như một khách hàng tiềm năng. 1.1.4.3.3 Tài trợ cho dự án Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay dự án, các ngân hàng đang ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dưng nhà máy mới đặc biệt là cho các ngành công nghệ cao. Do rủi ro trong loại hình tín dụng này nói chung là cao song lãi lại lớn. Một số ngân hàng còn cho vay để đầu tư vào đất. 1.1.4.4 Bảo quản vật có giá Các ngân hàng thực hiện việc lưu trữ vàng và các vật có giá khách cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận cho ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận, nên chứng nhận được sử dụng như tiền, dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích của việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho bằng kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. 1.1.4.5 Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Khi các doanh nhân gửi tiền vào ngân hàng, họ nhận thấy Ngân hàng thương mại không chỉ bảo quản mà còn thực hiện lệnh chi trả cho khách hàng của họ. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt, tức là người gửi tiền không cần phải đến ngân hàng để lấy tiền mà chỉ cần viết giấy chi trả cho khách hàng (còn được gọi là séc), khách hàng mang giấy đến ngân hàng để nhận được tiền. Các tiện ích của thanh toán không dùng tiền mặt (an toàn, nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm chi phí) đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho các doanh nhân. Khi Ngân hàng thương mại mở chi nhánh, thanh toán qua ngân hàng mở rộng phạm vi, càng tạo nhiều tiện ích cho các doanh nhân. Điều này đã khuyến khích các doanh nhân gửi tiền và Ngân hàng thương mại để nhờ Ngân hàng thương mại thanh toán hộ. Như vậy một dịch vụ mới quan trọng nhất được phát triển đó là tài khoản tiền gửi giao dịch (demand deposit). Cho phép người gửi tiền viết séc thanh toán cho việc mua hàng hoá dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một trong những bước đi quan trọng nhất trong ngành công nghiệp ngân hàng. Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin nhiều thể thức thanh toán được phát triển như uỷ nhiệm chi, nhờ thu, thanh toán bằng điện tử, bằng thẻ. 1.1.4.6 Quản lý ngân quĩ Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của phần lớn các doanh nghiệp và nhiều cá nhân. Nhờ đó, ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khách hàng. Do kinh nghiệm trong quản lý ngân qũi và khả năng cho việc thu ngân, nhiều ngân hàng đã cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư, phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngân hàng cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. 1.1.4.7 Tài trợ cho hoạt động của chính phủ Vì nhu cầu chi tiêu của chính phủ thường lớn và cấp bách nên mặc dù Ngân hàng thương mại có tham gia hoạt động tài trợ cho chính phủ nhưng phần lớn là NHTƯ 1.1.4.8 Bảo lãnh Do khả năng thanh toán của Ngân hàng thương mại cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi cho khách hàng có uy tín để bảo lãnh cho khách hàng. Trong những năm gần đây, nghiệp vụ bảo lãnh ngày càng đa dạng và phát triển mạnh. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của các tổ chức tín dụng khác. 1.1.4.9 Cho thuê thiết bị trung và dài hạn Nhằm bán được các thiết bị, đặc biệt là các thiết bị có giá trị lớn nhiều hãng sản xuất và thương mại đã cho thuê (thay vì bán). Cuối hợp đồng thuê, khách hàng có thể mua (do đó còn gọi là hợp đồng thuê mua). Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn thuê các thiết bị, máy móc thiết bị cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Các hợp đồng cho thuê thường bảo đảm yêu cầu khách hàng phải trả tới 2/3 giá trị tài sản cho thuê. Do vậy cho thuê của ngân hàng cũng có nhiều điểm giống như cho vay và được xếp vào loại tín dụng trung hạn và dài hạn. 1.1.4.10 Cung cấp các dịch vụ uỷ thác và tư vấn. Do hoạt động trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng có rất nhiều chuyê
Luận văn liên quan