Chuyên đề Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

Lý do chọn đề tài Đất nước Việt Nam hiện nay đang được biết đến như một quốc gia ổn định về chính trị, tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế, với mức tăng trưởng 8,5% trong năm 2007, cao nhất trong hơn 10 trở lại đây. Để đạt được những thành tựu kinh tế như vậy không thể không kể đến sự đóng góp đáng kể của cộng đồng các doanh nghiệp mà đặc biệt là các DNV&N (hiện đang chiếm 96% trong tổng số gần 250 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; chiếm 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 25% tổng đầu tư xã hội và thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp). Xác định được tầm quan trọng của DNV&N đối với phát triển kinh tế đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình doanh nghiệp này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các DNV&N ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp lớn giảm nhiều. Đặc biệt, ở yếu tố quan trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các DNV&N là việc tiếp cận với các nguồn vốn đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với những năm trước đây, nhiều ngân hàng đã xác định cho vay DNV&N là một bước “chuyển đổi tích cực” trong cơ cấu tài sản. Nhưng theo kết quả điều tra do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương phối hợp với Tổ chức Danida (Đan Mạch) tiến hành năm 2007 với 2.800 DNV&N tại 10 tỉnh, thành phố cho thấy trong những trở ngại mà DN gặp phải thì thiếu vốn, ít khả năng tiếp cận vốn là vấn đề nghiêm trọng nhất. Hầu hết các DNV&N đang rất lao đao trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Khoảng 35-45% doanh nghiệp tin tưởng nộp hồ sơ vay vốn thường xuyên nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị ngân hàng từ chối. Số doanh nghiệp còn lại cũng có nhu cầu vay không thường xuyên, nhưng một số cũng gặp trở ngại trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng lên mức 26,5%. Bài toán Ngân hàng – DNV&N đến khi nào mới giải được để khơi thông nguồn vốn hỗ trợ cho 96% doanh nghiệp Việt Nam phát triển ? Đứng trước thực tế đó, trong thời gian thực tập, nghiên cứu, tìm hiểu tại phòng tín dụng 3 Sở giao dịch của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam em đã quyết định lực chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề thực tập cho mình. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết chung về hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, cùng với việc phân tích thực trạng hoạt động cho vay tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em xin được phép đưa ra một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N. Kết cấu chuyên đề Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu và tài liệu tham khảo, nội dung chuyên đề gồm 3 chương sau: Chương I: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa vừ nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

doc79 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1853 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Lý do chọn đề tài Đất nước Việt Nam hiện nay đang được biết đến như một quốc gia ổn định về chính trị, tăng trưởng ngoạn mục về kinh tế, với mức tăng trưởng 8,5% trong năm 2007, cao nhất trong hơn 10 trở lại đây. Để đạt được những thành tựu kinh tế như vậy không thể không kể đến sự đóng góp đáng kể của cộng đồng các doanh nghiệp mà đặc biệt là các DNV&N (hiện đang chiếm 96% trong tổng số gần 250 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt động theo Luật doanh nghiệp; chiếm 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, 25% tổng đầu tư xã hội và thu hút khoảng 77% lực lượng lao động phi nông nghiệp). Xác định được tầm quan trọng của DNV&N đối với phát triển kinh tế đất nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, 5 năm trở lại đây, Chính phủ đã có nhiều chính sách, giải pháp lớn nhằm phát huy đến mức cao nhất hiệu quả hoạt động, sức cạnh tranh cũng như tiềm năng của loại hình doanh nghiệp này. Có thể thấy rõ, hệ thống pháp luật, môi trường kinh doanh đang dần được cải thiện và ngày càng có chuyển động tích cực. Các DNV&N ngày càng được hưởng nhiều chính sách ưu đãi và bình đẳng hơn, tình trạng phân biệt đối xử so với các doanh nghiệp lớn giảm nhiều. Đặc biệt, ở yếu tố quan trọng, có tính chất sống còn với sự tồn tại và phát triển của các DNV&N là việc tiếp cận với các nguồn vốn đã được mở thông thoáng hơn rất nhiều so với những năm trước đây, nhiều ngân hàng đã xác định cho vay DNV&N là một bước “chuyển đổi tích cực” trong cơ cấu tài sản. Nhưng theo kết quả điều tra do Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương phối hợp với Tổ chức Danida (Đan Mạch) tiến hành năm 2007 với 2.800 DNV&N tại 10 tỉnh, thành phố cho thấy trong những trở ngại mà DN gặp phải thì thiếu vốn, ít khả năng tiếp cận vốn là vấn đề nghiêm trọng nhất. Hầu hết các DNV&N đang rất lao đao trong việc tiếp cận nguồn vốn ngân hàng. Khoảng 35-45% doanh nghiệp tin tưởng nộp hồ sơ vay vốn thường xuyên nhưng 19% gặp khó khăn và đã bị ngân hàng từ chối. Số doanh nghiệp còn lại cũng có nhu cầu vay không thường xuyên, nhưng một số cũng gặp trở ngại trong thủ tục tiếp cận và nâng tỷ lệ gặp khó khăn tín dụng lên mức 26,5%. Bài toán Ngân hàng – DNV&N đến khi nào mới giải được để khơi thông nguồn vốn hỗ trợ cho 96% doanh nghiệp Việt Nam phát triển ? Đứng trước thực tế đó, trong thời gian thực tập, nghiên cứu, tìm hiểu tại phòng tín dụng 3 Sở giao dịch của Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam em đã quyết định lực chọn đề tài: “Mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam” làm chuyên đề thực tập cho mình. Mục đích nghiên cứu. Trên cơ sở nghiên cứu lý thuyết chung về hoạt động cho vay của các ngân hàng thương mại, cùng với việc phân tích thực trạng hoạt động cho vay tại Sở giao dịch Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam, em xin được phép đưa ra một số giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với DNV&N. Kết cấu chuyên đề Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục bảng biểu và tài liệu tham khảo, nội dung chuyên đề gồm 3 chương sau: Chương I: Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Chương II: Thực trạng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa vừ nhỏ tại Sở giao dịch ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam Chương I HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất trong nền kinh tế. Với sự hiện hữu của ngân hàng, chúng ta có thể nhận được những khoản vay trả góp để thanh toán cho việc mua sắm những tiện nghi trong gia đình hay để trang trải học phí, đầu tư mở rộng hoạt động kinh doanh…Bên cạnh đó ngân hàng cũng là địa chỉ tin cậy nếu như chúng ta muốn nhận được sự tư vấn về đầu tư, kinh doanh chứng khoán…hay sử dụng các dịch vụ bảo hiểm, bảo lãnh, những dịch vụ ngân hàng hiện đại như homebanking, phonebanking....Có thể nói ngân hàng với hệ thống chân rết len lỏi đến tất cả mọi nơi trên thế giới có thể tác động đến sự phát triển của mọi lĩnh vực trong một nền kinh tế. Ngày nay, hoạt động ngân hàng không ngừng phát triển, sự phát triển ấy có thể nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự mở rộng mạng lưới cho đến sự ra đời của rất nhiều sản phẩm dịch vụ mới…Tuy nhiên, càng ngày ngân hàng càng phải đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt hơn. Thực tế là, rất nhiều các tổ chức tài chính phi ngân hàng bao gồm các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm, công ty kinh doanh bất động sản…đều đang cố gắng cung cấp những dịch vụ ngân hàng. Để đối phó, ngân hàng cũng mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ của mình, hướng về lĩnh vực bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm… Vì vậy để có thể phân biệt ngân hàng với các tổ chức tài chính khác thì cách tiếp cận thận trọng nhất có thể xem xét là trên phương diện những loại hình dịch vụ mà ngân hàng thương mại cung cấp. Bằng cách tiếp cận này thì có thể hiểu: Ngân hàng thương mại là loại tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Tại Việt Nam, theo điều 20 luật các tổ chức tín dụng 1997, sửa đổi năm 2004: Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan. Trong đó hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi, sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Hiểu một cách đơn giản nhất, cho vay là việc ngân hàng đưa tiền cho khách hàng với cam kết khách hàng phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi trong một khoảng thời gian xác định. Cho vay thường được định lượng theo hai chỉ tiêu: doanh số cho vay trong kỳ và dư nợ cuối kỳ. Doanh số cho vay trong kỳ là tổng số tiền mà ngân hàng đã cho vay trong kỳ. Dư nợ cuối kỳ là số tiền mà ngân hàng hiện đang còn cho vay vào thời điểm cuối kỳ. Khả năng cho vay của ngân hàng chính là lý do cơ bản để ngân hàng được các cơ quan quản lý Nhà nước cấp giấy phép hoạt động. Nhà nước kỳ vọng ngân hàng hỗ trợ cho sự phát triển của địa phương thông qua việc cung cấp tín dụng, đáp ứng nhu cầu tài chính của doanh nghiệp và người tiêu dùng ở một mức lãi suất hợp lý. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối liên hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Đối với hầu hết các ngân hàng, khoản mục cho vay thường chiếm quá nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 1/3 nguồn thu của ngân hàng. Đồng thời, rủi ro của hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. Tình trạng khó khăn về mặt tài chính của một ngân hàng thường phát sinh từ các khoản cho vay khó đòi, bắt nguồn từ một số nguyên nhân như: quản lý yếu kém, cho vay không tuân thủ đúng nguyên tắc tín dụng, chính sách tín dụng, chính sách cho vay không hợp lý và tình trạng suy thoái ngoài dự kiến của nền kinh tế… Đối tượng cho vay của NHTM. Ngân hàng xem xét cho vay các đối tượng sau: Giá trị vật tư, hàng hoá, máy móc, thiết bị bao gồm cả thuế giá trị gia tăng và các khoản chi phí để thực hiện các dự án đầu tư, phương án sản xuất, kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư, phương án phục vụ đời sống… Nhu cầu tài chính của khách hàng: Số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất khẩu, nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng đối với lô hàng nhập khẩu… Các đối tượng cho vay khác như: Cho vay góp vốn thành lập công ty liên doanh; Cho vay trả lãi tiền vay trong thời hạn thi công... Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ Doanh nghiệp vừa và nhỏ Khái niệm Ở mỗi nước khác nhau quan niệm về DNV&N cũng khác nhau. Nhưng hiểu một cách chung nhất thì DNV&N là những doanh nghiệp có quy mô nhỏ bé về mặt vốn, lao động hay doanh thu. Trong thực tế, phần lớn các nước đều sử dụng hai tiêu thức vốn điều lệ và số lao động thường xuyên để xác định DNV&N. Chúng ta có thể thấy rõ tiêu thức phân loại của các nước thông qua bảng sau đây: Bảng 1.1. Tiêu thức xác định DNV&N tại một số quốc gia Nước  Số lao động  Tổng vốn  Doanh thu   Thái lan  < 100  < 20 triệu Baht    Indonesia  < 100  0.6 tỷ Rupi  < 2 tỷ Rupi   Hàn Quốc  < 300 trong công nghiệp, xây dựng. < 200 trong thương mại, dịch vụ  <0.6 triệu USD 0.25 triệu USD  < 1.4 triệu USD   Đài Loan  < 300 trong công nghiệp, xây dựng. < 50 trong thương mại, dịch vụ  1.4 triệu USD  < 1.4 triệu USD   Nhật Bản  < 100 trong bán buôn. < 50 trong bán lẻ.  < 30 triệu yên. < 10 triệu yên    Canada  < 500 trong công nghiệp, dịch vụ   < 20 triệu đô la Canada   (Nguồn: Kỷ yếu khoa học, dự án chính sách hỗ trợ phát triển DNV&N ở Việt Nam, Học viện chính trị quốc gia HCM, Hà Nội, 1996) Tại Việt Nam, theo Nghị định số 90/2001/NĐ-CP ngày 23/11/2001: “DNV&N là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỉ đồng hoặc số lao động trung bình hằng năm không quá 300 người”. Với tiêu thức xác định DNV&N này thì ở Việt Nam hiện nay có khoảng 80% các doanh nghiệp nhà nước thuộc nhóm các DNV&N và trong khu vực kinh tế tư nhân, các DNV&N chiếm khoảng 97% về vốn và khoảng 99% về lao động. Phân loại. DNV&N có thể được chia thành ba loại căn cứ vào quy mô đó là doanh nghiệp siêu nhỏ (micro), doanh nghiệp nhỏ và doanh nghiệp vừa. Theo tiêu chí của Nhóm Ngân hàng Thế giới, doanh nghiệp siêu nhỏ là doanh nghiệp có số lượng lao động dưới 10 người, doanh nghiệp nhỏ có số lượng lao động từ 10 đến dưới 50 người, còn doanh nghiệp vừa có từ 50 đến 300 lao động. Một cách phân loại khác được các NHTM Việt Nam sử dụng hiện nay để có thể dễ dàng hơn cho việc đánh giá, xếp hạng, quản lý khách hàng doanh nghiệp là phân loại theo ngành nghề kinh doanh. Theo tiêu thức này thì DNV&N được chia thành 4 loại: Doanh nghiệp hoạt động trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp. Doanh nghiệp hoạt động trong ngành thương mại, dịch vụ. Doanh nghiệp hoạt động trong ngành xây dựng. Doanh nghiệp hoạt động trong ngành công nghiệp. Vai trò của DNV&N Ở mỗi nền kinh tế của mỗi quốc gia hay lãnh thổ khác nhau, các DNV&N có thể giữ những vai trò với mức độ khác nhau, song nhìn chung có một số vai trò tương đồng như sau: Góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tạo công ăn việc làm Các DNV&N thường chiếm tỷ trọng lớn, thậm chí áp đảo trong tổng số doanh nghiệp. Vì vậy đóng góp của của họ này vào tổng sản lượng và việc tạo việc làm là rất lớn. Ngay như ở Mỹ - một đất nước mà ở đó có những cái tên như Microsoft, IBM hay Ford nổi tiếng toàn cầu – các DNV&N vẫn đóng một vai trò cực kỳ quan trọng. Điều này thể hiện ở con số 40% GDP của nước Mỹ là nhờ sự đóng góp của các doanh nghiệp thuộc khu vực này. Theo số liệu thống kê của các nước Châu Á cũng cho thấy tỷ trọng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNV&N ở các nước này cũng rất đáng kể. Các DNV&N thường chiếm khoảng 81% - 98% tổng số doanh nghiệp trong cả nước, thu hút 30-60% lao động và tạo ra 20-40% giá trị gia tăng trong nền kinh tế. Bảng 1.2 Khả năng thu hút lao động và tạo ra giá trị gia tăng của các DNV&N Nước  Thu hút lao động  Giá trị gia tăng   Singapore  35.2%  26.6%   Malaisia  47.8%  36.4%   Hàn Quốc  37.2%  21.1%   Nhật Bản  35.2%  38*%   Tại Việt Nam, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê năm 2007 cho thấy, các DNV&N hiện chiếm 96% trong tổng số gần 250 nghìn doanh nghiệp đăng ký kinh doanh và hoạt động theo luật doanh nghiệp; 99% số lượng cơ sở sản xuất kinh doanh của cả nước, tạo ra khoảng 49% việc làm phi nông nghiệp (chiếm khoảng 25% tổng số lao động trong cả nước) đồng thời cũng đóng góp đáng kể vào nguồn thu ngân sách quốc gia và chi phối hầu hết các hoạt động phân phối (bán lẻ) của cả nước (chiếm tỷ trọng khoảng 80%). Góp phần ổn định nền kinh tế Ở phần lớn các nền kinh tế, các DNV&N là những nhà thầu của những doanh nghiệp lớn. Sự điều chỉnh hợp đồng thầu phụ tại các thời điểm cho phép nền kinh tế có được sự ổn định. Vì thế, các DNV&N được ví như là thanh giảm sốc cho nền kinh tế. Tác nhân giúp cho nền kinh tế năng động hơn Vì có quy mô nhỏ về vốn và lao động, nên các DNV&N dễ điều chỉnh (xét về mặt lý thuyết) hoạt động của mình. Khi ngành nghề kinh doanh mà doanh nghiệp đang hoạt động gặp nhiều khó khăn, doanh nghiệp có thể nhanh chóng chuyển hướng kinh doanh, thay đổi ngành nghề kinh doanh, cơ cấu sản phẩm…Mặt khác, do quy mô nhỏ nên tốc độ tăng trưởng, mở rộng quy mô hoạt động của doanh nghiệp thường cao, khả năng thu hồi vốn nhanh chóng góp phần đáng kể trong việc tạo nên một nền kinh tế năng động. Tạo nên ngành công nghiệp và dịch vụ phụ trợ quan trọng Các DNV&N thường chuyên môn hóa vào sản xuất một vài chi tiết được dùng để lắp ráp thành một sản phẩm hoàn chỉnh, đây là cơ sở hình thành nên ngành công nghiệp phụ trợ có tác động rất lớn đến sự phát triển của ngành công nghiệp chính. Ví dụ: Có thể kể đến những tập đoàn lớn như Boeing hay Microsoft, những tập đoàn này cũng không thể hoạt động đơn lẻ mà phải có sự hợp tác với các công ty có quy mô vừa và nhỏ trong việc sản xuất phụ kiện phụ trợ cho sản phẩm chính. Là trụ cột của kinh tế địa phương Nếu như doanh nghiệp lớn thường đặt cơ sở ở những trung tâm kinh tế lớn của đất nước, thì DNV&N lại có mặt ở khắp các địa phương và chính là người đóng góp quan trọng vào thu ngân sách của địa phương, vào sản lượng và tạo công ăn việc làm ở địa phương. Trong quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam, các DNV&N còn đóng vai trò quan trọng trong việc góp phần gìn giữ và phát triển những làng nghề truyền thống, tích tụ vốn là cơ sở hình thành những doanh nghiệp lớn. Đặc điểm của DNV&N Quy mô nhỏ về cả vốn và số lượng lao động Một cuộc điều tra quy mô được Cục phát triển DNV&N (thuộc Bộ Kế hoạch và đầu tư) tiến hành năm 2005 với sự tham gia của hơn 63 nghìn doanh nghiệp tại 30 tỉnh thành phía Bắc cho thấy: gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng. Và cho đến năm 2007, trong số 250 nghìn doanh nghiệp vẫn có đến 40% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng. Do có quy mô nhỏ bé về cả vốn và lao động nên các DNV&N còn có hàng loạt các đặc điểm sau: Vì quy mô đầu tư vốn ban đầu nhỏ nên thời gian thu hồi vốn của các DNV&N nhanh, hiệu quả sử dụng vốn cao. Các doanh nghiệp rất nhanh nhạy đối với những thay đổi của thị trường, dễ dàng chuyển đổi loại hình kinh doanh cũng như cơ cấu sản phẩm. Đây là một lợi thế của các DNV&N so với các doanh nghiệp lớn. Tuy vậy, chính quy mô sản xuất nhỏ dẫn đến chi phí sản xuất của các DNV&N lại khá cao, kiểu dáng sản phẩm đơn điệu, chất lượng sản phẩm thấp và thiếu mạng lưới phân phối, tiếp thị nên các DNV&N rất khó tiếp cận trực tiếp được với thị trường nước ngoài. Loại hình kinh doanh đa dạng Các DNV&N tham gia kinh doanh với mọi hình thức trong mọi ngành nghề khác nhau vì vậy có thể xen vào tất cả các “khe” của thị trường, phục vụ mọi nhu cầu phát sinh của nền kinh tế, lấp vào khoảng trống của các doanh nghiệp lớn, tạo nên sự phát triển cân bằng giữa các vùng. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ Với bộ máy tổ chức gọn nhẹ, cơ chế quản lý linh hoạt, các DNV&N có thể áp dụng được nhiều mô hình quản lý khác nhau góp phần làm giảm thiểu chi phí quản lý, giảm thủ tục hành chính và dễ dàng chuyển đổi hình thức kinh doanh. Hạn chế về vốn Hạn chế về vốn là đặc điểm chung của đại đa số các DNV&N. Trong khi các doanh nghiệp lớn có khả năng thu hút vốn bằng nhiều cách khác nhau như: phát hành cổ phiếu, trái phiếu, vay vốn ngân hàng…thì các DNV&N lại chỉ loay hoay trong việc sử dụng vốn chủ sở hữu. Một mặt vì những khó khăn, trở ngại trong việc tiếp xúc với nguồn vốn vay. Mặt khác thường là các DNV&N không đủ điều kiện để tham gia thu hút vốn trên thị trường chứng khoán. Thiếu minh bạch trong việc xác định tài sản cá nhân và tài sản pháp nhân Rất nhiều DNV&N, nhất là các công ty trách nhiệm hữu hạn, tài sản pháp nhân và tài sản cá nhân lẫn lộn, thiếu minh bạch nên ngân hàng rất khó thẩm định, đánh giá về năng lực thực sự của doanh nghiệp. Nguyên nhân của hiện tượng này chính là do trình độ học vấn và sự kém hiểu biết cán bộ quản lý doanh nghiệp. Hệ thống báo cáo tài chính không có hoặc thiếu minh bạch Các DNV&N thường bán hàng không có hợp đồng kinh tế, không tuân chủ chế độ phát hành hóa đơn bán hàng. Hệ thống sổ sách kế toán, nội dung và phương pháp hạch toán kế toán của doanh nghiệp không đầy đủ, thiếu chính xác và minh bạch. Các báo cáo tài chính của doanh nghiệp thường được xây dựng chỉ mang tính chất đối phó với cơ quan thuế. Doanh nghiệp không xác định được dòng tiền lưu chuyển bởi vậy nếu nộp đơn xin vay vốn ngân hàng cũng không thể tính toán được đúng khả năng trả nợ trong tương lai. Trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ thấp Một thực trạng phổ biến trong các DNV&N hiện nay là hệ thống máy móc, thiết bị lạc hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí, 70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm giảm, giá thành cao và năng suất thấp. Đội ngũ lao động thiếu trình độ Một trong những khó khăn hiện nay của các DNV&N gặp phải là thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu phát triển trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Có thể nói trình độ học vấn của cả người lao động và của chủ các DNV&N là rất thấp. Theo thống kê năm 2006, trong số hơn 25% lao động có chuyên môn thì chỉ 6% lao động có trình độ cao đẳng và đại học. Chủ doanh nghiệp có trình độ Đại học cũng chỉ khoảng 2%. Về cơ bản, đội ngũ này mới được hình thành những năm 90, còn thiếu kinh nghiệm nhiều mặt, từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Quy mô nhỏ lại luôn khó khăn về vốn nên hầu hết các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn cho người lao động. Đây là một lực cản mà tất cả các doanh nghiệp đều gặp và cần phải quyết tâm vượt qua vì sự tồn tại của bộ phận doanh nghiệp này trong điều kiện hội nhập hiện nay. Vai trò của hoạt động cho vay DNV&N Đối với DNV&N Thứ nhất, vốn vay NHTM là đòn bẩy kinh tế mạnh mẽ hỗ trợ sự ra đời và phát triển của các DNV&N. Trong thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh thông tin, nhân lực và công nghệ, một trong những nhu cầu không thể thiếu của doanh nghiệp là vốn. Các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thường dựa các nguồn chủ yếu là vốn chủ sở hữu, vốn vay ưu đãi, vốn vay phi chính thức và vốn vay ngân hàng. Một mặt, do vốn chủ sở hữu của các DNV&N thấp lại không đủ điều kiện để tham gia thu hút vốn trên thị trường chứng khoán. Mặt khác, không phải DNV&N nào cũng nhận được nguồn vốn vay phi chính thức từ người thân, bạn bè…và nếu có được nhận thì nguồn này cũng rất ít ỏi; đối với nguồn vốn vay ưu đãi thì thủ tục xin vay vốn lại khá rườm rà, phức tạp, yêu cầu có tài sản thế chấp và phí môi giới để được hưởng khoản vay cao khiến các doanh nghiệp nản lòng. Vì vậy, có thể nói vốn vay ngân hàng có vai trò hết sức quan trọng đối với các DNV&N, không những trong việc hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoạt động và phát triển mà ngay từ khi thành lập, nếu
Luận văn liên quan