Chuyên đề Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hai Bà Trưng

Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; đó là loại hình kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là một động lực phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì hoạt động ngân hàng là một trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mà cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hiện nay, có thể thấy qua việc hàng loạt các ngân hàng đang tích cực tăng thêm số lượng các chi nhánh: ngân hàng ACB và các ngân hàng mới được cấp phép hoạt động đang đẩy mạnh thành lập các chi nhánh và phòng giao dịch mới, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác sau một thời gian dài “im hơi, lặng tiếng”, thì nay đang thành lập thêm các chi nhánh và phòng giao dịch mới như: Ngân hàng Đại Á, Ngân hàng Bắc Á, Ngân hàng Sài Gòn, Ngân hàng Phương Nam. Rõ ràng, sự cạnh tranh trong lĩnh vực NH đang diễn ra hết sực sôi động và quyết liệt. Ngân hàng đầu tư và phát triển là một trong nhưng ngân hàng lớn trong hệ thống NHTM ở Việt Nam, được thành lập từ năm 1957 ngân hàng có một hệ thống các chi nhánh trên toàn quốc. Và mới đây ngân hàng mở thêm chi nhánh thứ 105 tại Hai Bà Trưng. Là một chi nhánh mới được thành lập năm 2008, chi nhánh Ngân hàng Hai Bà Trưng đang từng bước ổn định, triển khai hoạt động với chiển lược phát triển, kế hoạch kinh doanh nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu khách hàng, cơ cấu sản phẩm dịch vụ ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì hàng loạt các chi nhánh của các ngân hàng đang được mở ra và đó là thách thức không nhỏ đối với chi nhánh ngân hàng BIDV Hai Bà Trưng. Muốn đứng vững và phát triển, chi nhánh ngân hàng BIDV HBT luôn phải tìm mọi cách để có thể thu hút được khách hàng nhằm tăng lợi nhuận. Không những vậy, chi nhánh ngân hàng BIDV HBT cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh ngay chính nội bộ các chi nhánh khác nhau của ngân hàng BIDV. Để là một trong những chi nhánh đi đầu về phát triển lượng khách hàng nhằm tăng lợi nhuận, và làm tăng thêm được vị thế của mình so với các chi nhánh khác của BIDV. Đòi hỏi chi nhánh luôn phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình một cách tốt nhất. Dựa trên những phân tích trên, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Hai Bà Trưng” . Chuyên đề đi sâu vào tình hình hoạt động và thực trạng năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng Hai Bà Trưng, trên cơ sở đó tính toán một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn đưa ra những kiến nghị mong muốn góp phần nhỏ trong quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện chi nhánh. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm: Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng BIDV Hai Bà Trưng? Để có thể giải quyết vấn đề trên thì cần phải: -Một là tại sao cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh BIDV HBT? -Hai là cần sử dụng mô hình lý thuyết gì để phân tích năng lực cạnh tranh cho BIDV HBT? -Ba là năng lực cạnh tranh của Chi nhánh ngân hàng BIDV Hai Bà Trưng ở thời điểm hiện tại như thế nào? -Bốn là cần có những giải pháp gì để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong thời gian tới? Đối tượng và phạm vi nghiên cứu -Đối tượng nghiên cứu: chi nhánh Ngân hàng Hai Bà Trưng. -Phạm vi nghiên cứu: Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Các phân tích, đánh giá và các kết luận liên quan được đưa ra trên cơ sở thực trạng của các ngân hàng trong nước như ngân hang seabank, techcombank Phương pháp nghiên cứu -Các phương pháp luận chủ yếu là phân tích, tổng hợp, so sánh, logic và dự báo định tính. Các số liệu được thu thập từ tài liệu thống kê, báo cáo hiện có, từ báo trí và các tài liệu trên internet. Kết cấu của đề tài Từ những vấn dề được đề cập ở mục đích nghiên cứu thì ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu theo 4 chương như sau: Chương I: Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh cho chi nhánh BIDV HBT Chương II: Khung lý thuyết đánh giá năng lực cạnh tranh trong ngân hàng Chương III: Phân tích năng lực cạnh tranh của chi nhánh BIDV HBT ở thời điểm hiện tại Chương IV: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng cạnh tranh của chi nhánh NHĐT & PTHBT trong giai đoạn 2010-2015.

doc67 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2054 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng đầu tư và phát triển Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Hoạt động ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường; đó là loại hình kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. Đối với nền kinh tế, cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng là một động lực phát triển kinh tế - xã hội, bởi vì hoạt động ngân hàng là một trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mà cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của kinh tế thị trường. Sự cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường hiện nay, có thể thấy qua việc hàng loạt các ngân hàng đang tích cực tăng thêm số lượng các chi nhánh: ngân hàng ACB và các ngân hàng mới được cấp phép hoạt động đang đẩy mạnh thành lập các chi nhánh và phòng giao dịch mới, nhiều ngân hàng thương mại cổ phần khác sau một thời gian dài “im hơi, lặng tiếng”, thì nay đang thành lập thêm các chi nhánh và phòng giao dịch mới như: Ngân hàng Đại Á, Ngân hàng Bắc Á, Ngân hàng Sài Gòn, Ngân hàng Phương Nam. Rõ ràng, sự cạnh tranh trong lĩnh vực NH đang diễn ra hết sực sôi động và quyết liệt. Ngân hàng đầu tư và phát triển là một trong nhưng ngân hàng lớn trong hệ thống NHTM ở Việt Nam, được thành lập từ năm 1957 ngân hàng có một hệ thống các chi nhánh trên toàn quốc. Và mới đây ngân hàng mở thêm chi nhánh thứ 105 tại Hai Bà Trưng. Là một chi nhánh mới được thành lập năm 2008, chi nhánh Ngân hàng Hai Bà Trưng đang từng bước ổn định, triển khai hoạt động với chiển lược phát triển, kế hoạch kinh doanh nhằm thực hiện chuyển dịch cơ cấu khách hàng, cơ cấu sản phẩm dịch vụ ngân hàng, góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh trong hội nhập kinh tế quốc tế. Hiện nay, trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế thì hàng loạt các chi nhánh của các ngân hàng đang được mở ra và đó là thách thức không nhỏ đối với chi nhánh ngân hàng BIDV Hai Bà Trưng. Muốn đứng vững và phát triển, chi nhánh ngân hàng BIDV HBT luôn phải tìm mọi cách để có thể thu hút được khách hàng nhằm tăng lợi nhuận. Không những vậy, chi nhánh ngân hàng BIDV HBT cũng phải đối mặt với sự cạnh tranh ngay chính nội bộ các chi nhánh khác nhau của ngân hàng BIDV. Để là một trong những chi nhánh đi đầu về phát triển lượng khách hàng nhằm tăng lợi nhuận, và làm tăng thêm được vị thế của mình so với các chi nhánh khác của BIDV. Đòi hỏi chi nhánh luôn phải nâng cao năng lực cạnh tranh của mình một cách tốt nhất. Dựa trên những phân tích trên, tôi chọn đề tài: “Một số giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng Đầu tư và phát triển Hai Bà Trưng” . Chuyên đề đi sâu vào tình hình hoạt động và thực trạng năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng Hai Bà Trưng, trên cơ sở đó tính toán một số chỉ tiêu phân tích, rút ra nhận xét chủ quan, mạnh dạn đưa ra những kiến nghị mong muốn góp phần nhỏ trong quá trình không ngừng đổi mới và hoàn thiện chi nhánh. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là nhằm: Làm thế nào để nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh ngân hàng BIDV Hai Bà Trưng? Để có thể giải quyết vấn đề trên thì cần phải: -Một là tại sao cần phải nâng cao năng lực cạnh tranh của chi nhánh BIDV HBT? -Hai là cần sử dụng mô hình lý thuyết gì để phân tích năng lực cạnh tranh cho BIDV HBT? -Ba là năng lực cạnh tranh của Chi nhánh ngân hàng BIDV Hai Bà Trưng ở thời điểm hiện tại như thế nào? -Bốn là cần có những giải pháp gì để nâng cao khả năng cạnh tranh của ngân hàng trong thời gian tới? Đối tượng và phạm vi nghiên cứu -Đối tượng nghiên cứu: chi nhánh Ngân hàng Hai Bà Trưng. -Phạm vi nghiên cứu: Trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế. Các phân tích, đánh giá và các kết luận liên quan được đưa ra trên cơ sở thực trạng của các ngân hàng trong nước như ngân hang seabank, techcombank… Phương pháp nghiên cứu -Các phương pháp luận chủ yếu là phân tích, tổng hợp, so sánh, logic và dự báo định tính. Các số liệu được thu thập từ tài liệu thống kê, báo cáo hiện có, từ báo trí và các tài liệu trên internet. Kết cấu của đề tài Từ những vấn dề được đề cập ở mục đích nghiên cứu thì ngoài lời mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu theo 4 chương như sau: Chương I: Sự cần thiết nâng cao năng lực cạnh tranh cho chi nhánh BIDV HBT Chương II: Khung lý thuyết đánh giá năng lực cạnh tranh trong ngân hàng Chương III: Phân tích năng lực cạnh tranh của chi nhánh BIDV HBT ở thời điểm hiện tại Chương IV: Một số giải pháp chủ yếu nâng cao khả năng cạnh tranh của chi nhánh NHĐT & PTHBT trong giai đoạn 2010-2015. Nhân dịp này, tôi xin gửi lời cảm ơn đến Ths. Nguyễn Thị Hoa cùng các cán bộ tại cơ quan thực tập đã tận tình giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp. Do hạn chế về thời gian và kiến thức thực tế nên chuyên đề tốt nghiệp có thể có những thiếu sót. Tôi mong được sự góp ý và giúp đỡ của cô giáo và các cô chú, anh chị trong đơn vị thực tập để bài chuyên đề được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG I: SỰ CẦN THIẾT NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH CHO CHI NHÁNH BIDV HBT I. Một số vấn đề lý luận về năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp 1. Khái niệm về cạnh tranh và năng lực cạnh tranh 1.1. Khái niệm cạnh tranh Cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, là động lực phát triển của nền kinh tế. Vậy cạnh tranh là gì? Tiếp cận ở góc độ đơn giản, mang tính tổng quát thì có thể thấy: “cạnh tranh là hành động ganh đua, đấu tranh chống lại các cá nhân hay các nhóm, các loài vì mục đích giành được sự tồn tại, sống còn, giành được lợi nhuận, địa vị, sự kiêu hãnh, các phần thưởng hay những thứ khác”. Trong kinh tế chính trị học thì: “cạnh tranh là sự ganh đua về kinh tế giữa những chủ thể trong nền sản xuất hàng hóa nhằm giành giật những điều kiện thuận lợi trong sản xuất, tiêu thụ hoặc tiêu dùng hàng hóa để từ đó thu được nhiều lợi ích nhất cho mình. Cạnh tranh có thể xảy ra giữa những người sản xuất với người tiêu dùng (người sản xuất muốn bán đắt, người tiêu dùng muốn mua rẻ); giữa người tiêu dùng với nhau để mua được hàng rẻ hơn; giữa  những người sản xuất để có những điều kiện tốt hơn trong sản xuất và tiêu thụ”. Theo Michael Porter thì: “Cạnh tranh là giành lấy thị phần. Bản chất của cạnh tranh là tìm kiếm lợi nhuận, là khoản lợi nhuận cao hơn mức lợi nhuận trung bình mà doanh nghiệp đang có. Kết quả quá trình cạnh tranh là sự bình quân hóa lợi nhuận trong ngành theo chiều hướng cải thiện sâu dẫn đến hệ quả giá cả có thể giảm đi”. Như vậy ta có thể thấy cạnh tranh là một trong những đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường, tất yếu không thể không có trong nền kinh tế thị trường, phản ánh mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể của nền kinh tế cùng theo đuổi mục đích lợi nhuận tối đa. Và theo thời gian, tính chất cạnh tranh trong nền kinh tế sẽ ngày càng quyết liệt. 1.2. Khái niệm về năng lực cạnh tranh Trong quá trình tham gia vào cạnh tranh kinh tế quốc tế, các chủ thể (bao gồm các doanh nghiệp, các ngành kinh tế hay các quốc gia) muốn thắng thế và dành được lợi thế trong kinh doanh thì đều phải nâng cao năng lực cạnh tranh. Vậy năng lực cạnh tranh ở đây là gì? Theo từ điển tiếng việt, năng lực cạnh tranh được định nghĩa như sau: “Năng lực cạnh tranh là khả năng dành thắng lợi trong cuộc cạnh tranh của những hàng hóa cùng loại, trên cùng một thị trường tiêu thụ”. Theo Micheal porter, một học giả kinh tế, thì không có một định nghĩa thật sự về năng lực cạnh tranh và không có một lý thuyết nào giải thích nó được chấp nhận một cách phổ biến. Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau tuy nhiên đều thống nhất khái niệm năng lực cạnh tranh có thể được nhìn nhận ở cả hai cấp độ: cấp độ vĩ mô bao gồm năng lực cạnh tranh quốc gia và cấp vi mô bao gồm năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, của các ngành kinh doanh và của sản phẩm. Theo diễn đàn kinh tế thế giới (WEF) năm 1997, năng lực cạnh tranh quốc gia được hiểu là “năng lực của nền kinh tế quôc dân đạt và duy trì mức tăng trưởng cao về kinh tế, thu nhập và việc làm” . Như vậy, ta thấy rằng năng lực cạnh tranh cấp quốc gia có thể được hiểu là năng lực để xây dựng một môi trường kinh tế chung, đảm bảo phân bổ có hiệu quả các nguồn lực, đạt và duy trì được mức tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Ở cấp vi mô, năng lực cạnh tranh của một loại sản phẩm hàng hóa dịch vụ nào đó trên thị trường trong nước và quốc tế thì được hiểu là “sự thể hiện tính ưu việt hay hơn hẳn của nó về các mặt định tính và định lượng so với những sản phẩm cùng loại như: Chất lượng, giá cả, tính năng kiểu dáng, thương hiệu… Nó thể hiện khả năng hấp dẫn tiêu dung của các sản phẩm đối với khách hàng trên một thị trường cụ thể và trong một thời gian nhất đinh” . Khác với khái niệm năng lực cạnh tranh của sản phẩm, thuật ngữ năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp tuy được sử dụng một cách rất rộng rãi nhưng vẫn chưa có một khái niệm rõ ràng và cũng có nhiều khác biệt sẽ được đề cập dưới đây. 2. Năng lực cạnh tranh trong doanh nghiệp Ta thấy có rất nhiều những quan điểm khác nhau về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp như: Theo Fatchamps, năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là “năng lực của doanh nghiệp đó có thể sản xuất với chi phí biển đổi trung bình thấp hơn giá của nó trên thị trường, có nghĩa là doanh nghiệp nào có năng lực sản xuất ra sản phẩm có chất lượng tương tự như sản phẩm của doanh nghiệp khác, nhưng với chi phí thấp hơn thì được coi là có năng lực cạnh tranh cao hơn”. Randall lại cho rằng năng lực cạnh tranh là “năng lực giành được và duy trì thị phần trên thị trường với lợi nhuận nhất định. Vì vậy khi thị phần tăng lên cho thấy năng lực cạnh tranh được nâng cao” Theo Phillip Lasser thì cho rằng: “năng lực cạnh tranh của một công ty trong một lĩnh vực được xác định bằng những thế mạnh mà công ty có hoặc huy động được để có thể cạnh tranh thắng lợi” Còn trong quản trị chiến lược, năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp là “khả năng một doanh nghiệp đạt được tỷ suất lợi nhuận cao hơn tỷ suất lợi nhuận bình quân của ngành” Radall, Phillip Lasser,và một số quan điểm khác đều có cách nhìn nhận năng lực cạnh tranh khác nhau. Các quan điểm trên chỉ đề cập đến một phần, một khía cạnh về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp (đó là khả năng duy trì thị phần và lợi nhuận của doanh nghiệp). Hơn nữa nếu chỉ dựa vào thực lực và lợi thế của mình e rằng chưa đủ, bởi trong điều kiện toàn cầu hoá kinh tế, lợi thế bên ngoài đôi khi là yếu tố quyết định. Vì vậy, theo tác giả có thể đưa ra định nghĩa chung năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp là việc khai thác, sử dụng thực lực và lợi thế bên trong, bên ngoài nhằm tạo ra những sản phẩm hàng hóa dịch vụ hấp dẩn với người tiêu dung để tồn tại và phát triển, thu được lợi nhuận ngày càng cao và cải tiến vị trí so với các đối thủ cạnh tranh. Đối với một doanh nghiệp hoặc một ngành, một sản phẩm, năng lực cạnh tranh chính là gắn với mục tiêu duy trì sự tồn tại và thu được lợi nhuận trên thị trường (nội địa và quốc tế) và nó được thể hiện cụ thể bằng lợi thế cạnh tranh của sản phẩm. Tuy nhiên, năng lực cạnh tranh quốc gia và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hay ngành đều có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau. Một quốc gia hay nền kinh tế có năng lực cạnh tranh tốt điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp hay ngành tạo dựng được năng lực cạnh tranh tốt hơn trên thị trường thế giới. Và nói cách khác thì năng lực cạnh tranh của quốc gia là một nguồn hình thành nên năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp hay ngành. Khi các doanh nghiệp hay ngành có được năng lực cạnh tranh điều này sẽ góp phần vào việc nâng cao thu nhập và tác động tích cực đến môi trường cạnh tranh của doanh nghiệp hay ngành đó và do đó nó góp phần vào việc nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Nên nâng cao năng lực cạnh tranh của một doanh nghiệp hay ngành chính là việc ta tạo ra, duy trì, tận dụng và phát triển lợi thế cạnh tranh nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu của thị trường, thông qua đó đạt được các mục tiêu mà doanh nghiệp đã đề ra. II. Sự khác biệt giữa cạnh tranh trong ngân hàng và cạnh tranh trong doanh nghiệp kinh doanh 1. Cạnh tranh trong ngân hàng Hoạt động Ngân hàng là một loại hình kinh doanh đặc biệt trong số các loại hình kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Hoạt động Ngân hàng được hiểu là hoạt động kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ tài chính có liên quan. Do đó cạnh tranh trong Ngân hàng chính là chủ thể Ngân hàng cùng với nghệ thuật sử dụng tổng hợp các phương thức, yếu tố, … nhằm giành được phần thắng trên thị trường, với lợi nhuận cao nhất, nâng cao vai trò và vị thế của mình trên thị trường. Đối với nền kinh tế, thì cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng là một động lực nhằm phát triển kinh tế - xã hội. Bởi vì hoạt động Ngân hàng là một trong số các loại hình hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, mà cạnh tranh là một đặc trưng cơ bản của nền kinh tế thị trường. Cạnh tranh trong ngân hàng chịu ảnh hưởng bởi các nhân tố: khách hàng, thị trường, nền kinh tế và cơ quan quản lý. 1.1. Khách hàng Không giống với các loại hình kinh doanh khác trong nền kinh tế thị trường, hoạt động Ngân hàng là một loại hình kinh doanh tiền tệ. Cũng chính vì vậy mà các khách hàng của nó cũng quan tâm rất khác đến sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng cung cấp với các sản phẩm dịch vụ mà các doanh nghiệp cung cấp. Cần phải hiểu các động cơ chủ yếu thúc đẩy khách hàng mua các hoạt động dịch vụ của Ngân hàng sẽ là yếu tố quyết định cả về số lượng, kết cấu, chất lượng sản phẩm dịch vụ và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các yếu tố là: - Lợi nhuận hoặc tiết kiệm: Tìm kiếm lợi nhuận đó là động cơ quan trọng để tìm tới các dịch vụ Ngân hàng của các chủ thể trên thị trường bán lẻ. Và với các chủ thể này thì lãi suất có ý nghĩa rất to lớn. - Tính linh hoạt của dịch vụ: Khách hàng cũng rất chú ý tới tính linh hoạt của dịnh vụ đó, dịch vụ đó là dịch vụ có thể thích nghi với những nhu cầu thay đổi. - Chất lượng dịch vụ: Khách hàng quan tâm nhiều đến chất lượng dịch vụ, đó cũng là cơ sở cho sự cạnh tranh phi giá. Song cũng cần chú ý rằng nhiều khi giá rẻ chưa chắc đã là điều tốt nếu như chất lượng dịch vụ không tốt thì cũng không thu hút được khách hàng. - Tốc độ: Đây cũng là điều quan tâm của khách hàng bởi vì tốc độ dịch vụ nhanh cũng có nghĩa là chu chuyển vốn nhanh, do đó giảm được chi phí sử dụng vốn hơn nữa, đảm bảo được kịp thời và đũng thời cơ cần sử dụng vốn của khách hàng. - An toàn: Ngân hàng phải là nơi bảo quản vững chắc tiền vốn của khách hàng, người gửi tiền chọn được Ngân hàng gửi tiền tốt. - Việc phục vụ được đảm bảo: Thường thường khách hàng và Ngân hàng có quan hệ lâu dài và tín nhiệm lẫn nhau, vì vậy việc đảm bảo phục vụ kịp thời các yêu cầu của nhau là cơ sở cho quan hệ lâu dài, cùng tồn tại và phát triển. - Thuận tiện: Khách hàng rất quan tâm tới các dịch vụ, sản phẩm Ngân hàng thuận tiện cho mình. Ngân hàng càng thuận tiện bao nhiêu thì khách hàng càng thích sử dụng và chọn lựa để giao dịch nhiều bấy nhiêu. - Danh tiếng và kỹ thuật hiện đại: Đây cũng là một tiêu chuẩn để khách hàng lựa chọn Ngân hàng của khách hàng bởi vì đó cũng là tiêu chuẩn để phòng ngừa rủi ro khi đầu tư vốn. Đó là những động cơ chủ yếu mang tính chất lý tính thúc đẩy khách hàng mua các sản phẩm dịch vụ của Ngân hàng. 1.2. Thị trường, nền kinh tế và cơ quan quản lý Đặc điểm, tính chất và nội dung cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng của mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào: thể chế chính trị, môi trường pháp lý, trình độ phát triển kinh tế, đường lối chính sách trong từng thời kỳ và phong tục tập quán. Sự phát triển của một nền kinh tế được thể hiện rõ qua mức cầu về hàng hóa tiêu dùng của dân cư. Mức cầu đó chính là số lượng và mức độ của các nhu cầu có khả năng thanh toán. Việc phát triển hoạt động cho vay gúp tăng cầu trong các hoạt động mua bán như: nguyên liệu dùng trong sản xuất, đầu tư phát triển của doanh nghiệp,... cho vay mua sắm đối với các cá nhân và hộ gia đình như: oto, tivi, các trang thiết bị trong gia đình...Làm tăng khả năng tiêu dùng trên thị trường từ đó kích thích nền kinh tế phát triển. Đối với các nước có nền kinh tế thị trường phát triển hoạt động Ngân hàng cũng phát triển và cạnh tranh rất sôi động, các cơ chế quản lý phần nhiều là sử dụng công cụ gián tiếp, hoặc các chế tài quy định trong luật chuyên ngành. Còn đối với các nước chậm phát triển hay đang trong quá trình chuyển đổi thì các công cụ quản lý trực tiếp, các biện pháp hành chính được sử dụng nhiều hơn. Quản lý về hoạt động cạnh tranh trong hoạt động Ngân hàng, các quốc gia đều có bộ luật riêng về Ngân hàng và có cơ quan chuyên môn riêng quản lý về lĩnh vực này. Mục tiêu quản lý là bảo vệ quyền lợi khách hàng - người gửi tiền, chống độc quyền, đảm bảo an toàn cho hệ thống Ngân hàng và hệ thống tiền tệ, thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. 2. Sự khác biệt giữa cạnh tranh trong ngân hàng và cạnh tranh trong doanh nghiệp Điểm khác biệt của cạnh tranh trong ngân hàng và cạnh tranh trong doanh nghiệp là phương thức được ngân hàng áp dụng trong cạnh tranh gồm có: +Một là Ngân hàng sử dụng các công cụ trong cạnh tranh: lãi suất, tỷ giá hối đoái, phí dịch vụ. -Lãi suất là tỷ lệ phần trăm của số tiền có được so với số tiền gốc mà người gửi tiền nhận thêm được từ Ngân hàng hay người vay phải trả cho Ngân hàng về khoản vốn vay. Hay nói ngắn gọn, lãi suất là giá cả sử dụng vốn. Ngân hàng nhận tiền gửi, huy động vốn trong xã hội và phải trả lãi cho người gửi tiền, Ngân hàng thì thu được tiền lãi từ người vay vốn của ngân hàng. Trong cạnh tranh, Ngân hàng luôn mong muốn thu được mức lãi suất cho vay cao nhất và trả lãi tiền gửi - lãi suất huy động vốn thấp nhất. Ngược lại, khách hàng của Ngân hàng, nếu là người vay vốn thì luôn muốn trả lãi suất thấp nhất, nếu là người gửi tiền thì muốn hưởng mức lãi suất cao nhất. Để giải quyết mâu thuân này, đòi hỏi cả một nghệ thuât trong quản trị, điều hành của mỗi Ngân hàng, sao cho luôn luôn thích ứng với diễn biến của thị trường và diễn biến của lãi suất, nhằm giành thắng lợi trong cạnh tranh. -Tỷ giá hối đoái là mối quan hệ so sánh, là tỷ lệ trao đổi giữa đồng tiền của quốc gia này với đồng tièn của quốc gia khác, hay nói cách khác, tỷ giá hối đoái là giá cả của một đồng tiền tính ra một đồng tiền khác Có ba loại giao dịch tỷ giá: giao dịch giao ngay, giao dịch kỳ hạn và giao dịch hoán đổi. Cũng giống như các loại giá cả khác, sự biến động tỷ giá gọi là rủi ro hối đoái sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng thể hiện chính là tình trạng tổn thất vốn. Một vấn đề nữa chính là mâu thuẫn về giá giữa người mua và người bán và để xử lý mẫu thuẫn về giá cả giữa người mua, người bán trong giao dịch tỷ giá là một nghệ thuật quản trị điều hành trong chiến lược cạnh tranh Ngân hàng. -Phí dịch vụ là số tiền mà khách hàng phải trả cho Ngân hàng về một loại dịch vụ nào đó, hay Ngân hàng phải trả cho người cung cấp dịch vụ. Hoạt động Ngân hàng ngày càng phát triển, các loại dịch vụ Ngân hàng ngày càng phát triển và đa dạng. Có thể kể đến một số loại phí dịch vụ chính của một Ngân hàng như sau:Phí bảo lãnh; Phí thanh toán, chuyển tiền; Phí tư vấn, cung cấp thông tin; Phí giữ hộ (ngân quỹ), … Trong quản trị điều hành về lĩnh vực này, ngoài việc đưa ra mức phí hấp dẫn cho khách hàng thì vấn đề quan trọng tiếp theo là chất lượng dịch vụ ngày càng hoàn hảo và tiện lợi. +Hai là Sử dụng các nghiệp vụ và đưa các sản phẩm dịch vụ ngân hàng: -Tiền gửi, huy động vốn: Mục tiêu cạnh tranh của mỗi Ngân hàng là làm sao huy động được khối lượng vốn đủ lớn phục vụ cho kinh doanh với lãi suất thấp nhất. Nghệ thuật cạnh tranh là đa dạng hoá các hình thức gửi tiền và huy động vốn với việc tổ chức giao dịch tiện lợi. -Cho vay, bảo lãnh, cho thuê, đầu tư… lĩnh vực này có thể được gọi là sử dụng vốn. Mục tiêu là làm sao sử dụng tối đa nguồn vốn trong phạm vi cho phép bảo đảm an toàn, tạo chất lượng cao, thu được nhiều lãi. Nghệ thuật cạnh tranh cũng là đa dạng hoá các hình thức, linh hoạt lãi suất, làm tốt công tác tiếp thị,… -Chiết khấu, tái chiết khấu mục tiêu cũng là có mức chiết khấu hợp lý, khối lượng chiết khấu đủ lớn, khách hàng đông đảo,… nhằm thu được lợi nhuận
Luận văn liên quan