Chuyên đề Phân tích và nâng cao chất lượng tín dụng cá nhân tại NH TMCP Công Thương chi nhánh 5 Tp.Hcm

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong điều kiện hiện nay, khi khu vực hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng phổ biến thì bên cạnh quá trình hợp tác theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi, giữa các quốc gia luôn kèm theo quá trình cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Để có thể vực dậy và phát triển một nền kinh tế với một cơ sở hạ tầng yếu kém về mọi mặt, để có thể thắng được trong cạnh tranh, chúng ta cần có rất nhiều vốn. Kênh dẫn vốn trong nước quan trọng nhất cho nền kinh tế là hệ thống ngân hàng. Để có thể thu hút được nhiều vốn thì một trong những điều cần phải làm là làm tốt công tác tạo đầu ra, tức là cấp tín dụng cho nền kinh tế.

doc65 trang | Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 85562 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Phân tích và nâng cao chất lượng tín dụng cá nhân tại NH TMCP Công Thương chi nhánh 5 Tp.Hcm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong điều kiện hiện nay, khi khu vực hoá, toàn cầu hoá đang trở thành xu hướng phổ biến thì bên cạnh quá trình hợp tác theo nguyên tắc hai bên cùng có lợi, giữa các quốc gia luôn kèm theo quá trình cạnh tranh gay gắt, khốc liệt. Để có thể vực dậy và phát triển một nền kinh tế với một cơ sở hạ tầng yếu kém về mọi mặt, để có thể thắng được trong cạnh tranh, chúng ta cần có rất nhiều vốn. Kênh dẫn vốn trong nước quan trọng nhất cho nền kinh tế là hệ thống ngân hàng. Để có thể thu hút được nhiều vốn thì một trong những điều cần phải làm là làm tốt công tác tạo đầu ra, tức là cấp tín dụng cho nền kinh tế. Trong quá trình mở rộng sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao chất lượng cuộc sống, khu vưc tư nhân cũng không tránh khỏi tình trạng thiếu hụt tương đối về vốn. Khi nền kinh tế thị trường phát triển, chuyên môn hóa diễn ra sâu sắc thì nhiệm vụ tài trợ cho các khoản thiếu hụt này được giao cho các tổ chức tài chính – ngân hàng mà đặc biệt là các ngân hàng thương mại. Các NHTM cung cấp vốn cho khách hàng có nhu cầu, giúp xã hội giải quyết được tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời, làm cho quá trình sản xuất được liên tục, nâng cao chất lượng cuộc sống Góp phần vào quá trình phát triển xã hội .Bên cạnh đó ngân hàng cũng có một khoản thu nhập từ lãi, giúp ngân hàng tồn tại và phát triển. Cho vay KHCN không chỉ mang lại thu nhập cho ngân hàng mà còn giúp ngân hàng phân tán bớt rủi ro. Sau một thời gian thực tập tại NHTMCP Công thương – CN5, qua nghiên cứu những số liệu về tình hình cho vay tại ngân hàng, thấy được hoạt động tín dụng dành cho KHCN đã và đang mang lại một phần không nhỏ thu nhập cho ngân hàng nhưng những kết quả đạt được đó chưa xứng đáng với quy mô có thể đạt tới, hoạt động tin dụng dành cho KHCN tại đây vẫn gặp phải một số khó khăn và tìm ẩn nhiều rủi ro .Để giải quyết những khó khăn này cũng như nâng cao chất lượng tín dụng cá nhân thì trong thời gian tới ngân hàng cần nghiên cứu và đưa ra những giải pháp khắc phục những khó khăn và rủi ro tồn đọng hiện có. Đây chính là lý do tác giả lựa chọn đề tài:” Phân tích và nâng cao chất lượng tín dụng cá nhân tại NH TMCP Công Thương chi nhánh 5 Tp.Hcm”. 2. Mục tiêu nghiên cứu: Phân tích tình hình nợ xấu đối với lĩnh vực cho vay cá nhân, tìm ra nguyên nhân dẫn đến rủi ro. Từ những nguyên nhân đó có thể đề xuất các biện pháp phòng ngừa nhằm hạn chế được rủi ro trong việc cho vay, giúp ngân hàng đứng vẫn trong nền kinh tế thị trường đang cạnh tranh gay gắt. Cụ thể, tác giả sẽ đi vào phân tích tình hình nợ xấu của hoạt động cho vay cá nhân tại ngân hàng; đánh giá rủi ro tín dụng thông qua một số chỉ tiêu; phân tích các nguyên nhân ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng; để xuất những biện pháp nâng cao chất lượng tín dụng . 3. Phạm vi nghiên cứu: Do hạn chế về kiến thức cũng như quỹ thời gian hạn hẹp không đủ nghiên cứu sâu vào thực tế về Ngân hàng, nên bài luận chỉ tập trung nghiên cứu tình hình chất lượng tín dụng dành cho KHCN của Ngân hàng qua 3 năm (2010, 2011, 2012) và đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng cá nhân của NHTMCP Công thương VN – CN5 . 4. Phương pháp nghiên cứu: Kết hợp giữa kiến thức được trang bị từ thầy cô ở trường và thời gian thực tập tại NHTMCP Công thương VN – CN5, khóa luận nghiên cứu dùng một số phương pháp sau: - Phương pháp thu thập số liệu: Thu thập số liệu thực tế liên quan đến việc phân tích chất lượng tín dụng cá nhân của NHTMCP Công thương VN – CN5 trong 3 năm gần nhất (2010. 2011, 2012). - Phương pháp phân tích số liệu: + Dùng phương pháp so sánh tương đối và tuyệt đối số liệu hoạt động TD. + Dùng các chỉ tiêu tài chính để đánh giá hiệu quả hoạt động TD. + Từ những số liệu thu thập được, kết hợp với việc tham khảo thêm tài liệu liên quan đến vấn đề cần nghiên cứu, tác giả đã viết nên đề tài này. 5. Kết cấu đề tài: Chương 1: Cơ sở lý luận về NHTM và tín dụng ngân hàng Chương 2: Thực trạng chất lượng TDCN tại NHTMCP Công Thương VN - CN5 năm 2010 – 2012. Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng TDCN tại NHTMCP Công Thương VN -CN5 TP.HCM. Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do thiếu kinh nghiệm thực tế vì vậy bài viết không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo của các thầy, cô cùng các anh (chị) đang công tác tại NHTMCP Công thương VN – CN5. CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1 Tổng quan về Ngân hàng thương mại: 1.1.1 Khái niệm về Ngân hàng thương mại: Theo “luật các tổ chức tín dụng” do Quốc hội khóa XII thông qua ngày 16 tháng 6 năm 2010, Ngân hàng thương mại là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu lợi nhuận. Hoạt động Ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán.[3] 1.1.2 Chức năng của Ngân hàng thương mại: - Chức năng làm trung gian tín dụng: Với chức năng trung gian tín dụng, Ngân hàng thương mại làm "cầu nối" giữa người thừa vốn và người thiếu vốn và nó đã không chỉ đem lại lợi ích cho những người dư thừa vốn và những người thiếu vốn mà còn đem lại lợi ích kinh tế cho bản thân nó và nền kinh tế. Đối với ngân hàng, họ sẽ tìm được lợi nhuận cho bản thân mình từ chênh lệch giữa lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi hoặc hoa hồng môi giới, 80% lợi nhuận của Ngân hàng Công thương - Ngân hàng thương mại Quốc doanh là thông qua hoạt động cho vay. Lợi nhuận này chính là cơ sở cho Ngân hàng thương mại tồn tại và phát triển. Đối với nền kinh tế, chức năng này có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì nó đáp ứng nhu cầu vốn để đảm bảo quá trình sản xuất được thực hiện liên tục và để mở rộng quy mô sản xuất. Với chức năng này, Ngân hàng đã biến vốn nhàn rỗi không hoạt động thành vốn hoạt động, kích thích quá trình luân chuyển vốn, thúc đẩy sản xuất kinh doanh.[1] - Chức năng trung gian thanh toán Chức năng trung gian thanh toán có nghĩa là ngân hàng đứng ra thanh toán hộ cho khách hàng bằng cách chuyển tiền từ tài khoản này sang tài khoản khác theo yêu cầu của họ. Thông qua chức năng này Ngân hàng đóng vai trò là người "thủ quỹ" cho các doanh nghiệp và cá nhân bởi ngân hàng là người giữ tiền của khách hàng, chi tiền hộ cho khách hàng. Nền kinh tế thị trường càng phát triển thì chức năng này của ngân hàng ngày càng được mở rộng.Thông qua chức năng trung gian thanh toán, hệ thống Ngân hàng thương mại góp phần phát triển nền kinh tế. Khi khách hàng thực hiện thanh toán qua ngân hàng sẽ làm giảm rủi ro, giảm chi phí thanh toán cho khách hàng đồng thời tốc độ luân chuyển vốn kinh doanh của khách hàng nhanh hơn, làm cho hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng tăng. Đối với Ngân hàng thương mại chức năng này góp phần tăng lợi nhuận của ngân hàng thông qua việc thu lệ phí thanh toán. Hơn nữa, nó lại tăng nguồn vốn cho vay của ngân hàng thể hiện trên số dư có tài khoản tiền gửi của khách hàng. Chức năng này cũng chính là cơ sở để hình thành chức năng tạo tiền của Ngân hàng thương mại.[1] - Chức năng tạo tiền: Đây là hệ quả của hai chức năng trên trong hoạt động ngân hàng: Từ một số dự trữ ban đầu thông qua quá trình cho vay và thanh toán bằng chuyển khoản của ngân hàng thì lượng tiền gửi mới được tạo ra và nó lớn hơn so với lượng dự trữ ban đầu gấp nhiều lần, gọi là quá trình tạo tiền của hệ thống ngân hàng. Một ngân hàng sau khi nhận một món tiền gửi, trên tài khoản tiền gửi của khách hàng tại ngân hàng sẽ có số dư. Với số tiền này sau khi đã để lại một khoản dự trữ bắt buộc, ngân hàng sẽ đem đi đầu tư, cho vay từ đó nó sẽ chuyển sang vốn tiền gửi của ngân hàng khác. Với vòng quay của vốn thông qua chức năng tín dụng và thanh toán của ngân hàng, Ngân hàng thương mại thực hiện được chức năng tạo tiền.[1] 1.1.3 Phân loại Ngân hàng Thương mại: 1.1.3.1 Dựa vào hình thức sở hữu: - Ngân hàng thương mại Quốc doanh (State owned Commercial bank): Là ngân hàng thương mại được thành lập bằng 100% vốn ngân sách nhà nước. Trong tình hình hiện nay để tăng nguồn vốn và phù hợp với xu thế hội nhập tài chính với thế giới các ngân hàng thương mại quốc doanh Việt Nam đang phát hành trái phiếu để huy động vốn; đã và đang cổ phần hóa để tăng sức cạnh tranh với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng cổ phần hiện nay.[1] - Ngân hàng thương mại cổ phần (joint Stock Commercial bank): Là ngân hàng thương mại được thành lập dưới hình thức công ty cổ phần. Trong đó một cá nhân hay pháp nhân chỉ được sở hữu một số cổ phần nhất định theo qui định của ngân hàng nhà nước Việt nam.[1] - Ngân hàng thương mại liên doanh: Là Ngân hàng được thành lập bằng vốn liên doanh giữa một bên là ngân hàng thương mại Việt nam và bên khác là ngân hàng thương mại nước ngoài có trụ sở đặt tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật ở Việt Nam.[1] - Chi nhánh ngân hàng nước ngoài: là ngân hàng được thành lập theo pháp luật nước ngoài, được phép mở chi nhánh tại Việt Nam, hoạt động theo pháp luật Việt Nam [1] - NHTM 100% vốn nước ngoài: là NHTM được thành lập tại VN với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài; trong đó phải có một NH nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (NH mẹ). NHTM 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty TNHH một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên, là pháp nhân VN, có trụ sở chính tại VN.[1] 1.1.3.2 Dựa vào chiến lược kinh doanh : - Ngân hàng bán buôn: là loại NH chỉ giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng khách hàng doanh nghiệp chứ không giao dịch với khách hàng cá nhân. - Ngân hàng bán lẻ: là loại NH giao dịch và cung ứng dịch vụ cho đối tượng khách hàng cá nhân. - Ngân hàng vừa bán buôn vừa bán lẻ: là loại NH giao dịch và cung ứng dịch vụ cho cả khách hàng doanh nghiệp lẫn khách hàng cá nhân.[1] 1.1.3.3 Dựa vào tính chất hoạt động : - Ngân hàng chuyên doanh: là loại NH chỉ hoạt động chuyên môn trong một lĩnh vực như nông nghiệp, xuất nhập khẩu, đầu tư - Ngân hàng kinh doanh tổng hợp: là loại NH hoạt động ở mọi lĩnh vực kinh tế và thực hiện hầu như tất cả các nghiệp vụ mà một NH có thể được phép thực hiện.[1] 1.1.4 Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng Thương mại : - Hoạt động huy động vốn - Hoạt động cấp tín dụng - Hoạt động dịch vụ thanh toán - Hoạt động ngân quỹ - Các hoạt động khác như góp vốn, mua cổ phần, tham gia thị trường tiền tệ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh vàng, kinh doanh bất động sản, kinh doanh dịch vụ và bảo hiểm, nghiệp vụ ủy thác và đại lý,.[1] 1.2 Những vấn đề cơ bản về tín dụng : 1.2.1 Khái niệm về tín dụng : Tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu (NHTM) sang người sử dụng (người vay), sau một thời gian nhất định lại quay về với lượng giá trị lớn hơn lượng giá trị ban đầu.[1,4] 1.2.2 Vai trò của tín dụng : Tín dụng cung cấp vốn đầy đủ và kịp thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình sản xuất kinh doanh được diễn ra liên tục, bên cạnh đó còn góp phần phát triển đầu tư và phát triển kinh tế. Tín dụng là một trong những công cụ để tập trung vốn một cách hữu hiệu và còn là công cụ thúc đẩy tích tụ vốn cho các tổ chức kinh tế, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư. Có thể nói trong mọi nền kinh tế xã hội, tín dụng đều phát huy vai trò to lớn của mình, tạo động lực phát triển mạnh mẽ mà khó có công cụ nào có thể thay thế được. Tín dụng thúc đẩy quá trình lưu thông hàng hóa, phát triển sản xuất. Đây là cơ sở đảm bảo cho lưu thông tiền tệ được ổn định, tạo ra nhiều cơ hội, việc làm, thu hút nhiều lực lượng sản xuất mới, thúc đẩy tăng trưởng kin tế và ổn định xã hội. Tín dụng góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá, làm giảm áp lực lạm phát. Ngoài ra còn tạo điều kiện để giao lưu hợp tác quốc tế, phát triển kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới.[1,4] 1.2.3. Chức năng của tín dụng : - Tập trung và phân phối lại tài nguyên theo nguyên tắc có hoàn trả. - Tiết kiệm tiền mặt và chi phí lưu thông cho toàn xã hội. - Phản ánh và kiểm soát các hoạt động kinh tế.[1,4] 1.2.4. Phân loại tín dụng : 1.2.4.1 Căn cứ vào thời gian sử dụng vốn vay : - Tín dụng ngắn hạn: là loại tín dụng có thời hạn dưới một năm, thường được sử dụng vào nghiệp vụ thanh toán, cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời về vốn lưu động của các doanh nghiệp hay cho vay phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dùng của cá nhân. - Tín dụng trung hạn: có thời hạn từ 1 đến 5 năm, được dùng để cho vay vốn phục vụ nhu cầu mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới kỹ thuật, mở rộng và xây dựng các công trình nhỏ có thời hạn thu hồi vốn nhanh. - Tín dụng dài hạn: là loại tín dụng có thời hạn trên 5 năm, được sử dụng để cung cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến và mở rộng sản xuất có quy mô lớn.[1,4] 1.2.4.2 Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay : - Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp. - Cho vay tiêu dùng cá nhân. - Cho vay mua bán bất động sản. - Cho vay sản xuất nông nghiệp. - Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu.[1,4] 1.2.4.3 Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng : - Cho vay không có đảm bảo :Là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của bản thân KH vay vốn để quyết định cho vay. - Cho vay có đảm bảo : Là loại cho vay dựa trên cơ sở các đảm bảo cho tiền vay như thế chấp, cầm cố hoặc phải có sự bảo lãnh của người thứ 3. [1,4] 1.2.4.4 Căn cứ vào phương thức cho vay : - Cho vay theo món vay : Mỗi lần đi vay vốn, KH và tổ chức TD làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng TD. - Cho vay theo hạn mức tín dụng : Tổ chức TD và KH xác định thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời gian nhất định hoặc theo chu kỷ sản xuất. - Cho vay theo hạn mức thấu chi : Là hình thức cấp tín dụng của tổ chức TD cho KH bằng cách cho phép KH chi tiêu vượt một số tiền nhất định mà NH cấp cho trong tài khoản tiền gửi thanh toán của KH, đáp ứng nhu cầu cần tiền nóng của KH.[1,4] 1.2.4.5 Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay : - Cho vay trả nợ một lần khi đáo hạn. - Cho vay trả góp. - Cho vay có thể trả nợ bất kỳ lúc nào.[1,4] 1.2.5 Rủi ro tín dụng : 1.2.5.1 Khái niệm rủi ro tín dụng : Rủi ro tín dụng là loại rủi ro phát sinh trong quá trình cấp tín dụng của NH, biểu hiện trên thực tế qua việc khách hàng không trả được nợ hoặc trả nợ không đúng hạn cho ngân hàng. Hiểu theo nghĩa rộng, rủi ro tín dụng có thể xuất hiện trong các mối quan hệ mà trong đó NH là chủ nợ, mà khách nợ lại không thực hiện hoặc không đủ khả năng thực hiện nghĩa vụ trả nợ khi đến hạn. Nó diễn ra trong quá trình cho vay, chiết khấu công cụ chuyển nhượng và giấy tờ có giá, cho thuê tài chính, bảo lãnh, bao thanh toán của NH và kể cả việc NH mua các loại trái phiếu của các doanh nghiệp. Rủi ro tín dụng còn được gọi là rủi ro mất khả năng chi trả và rủi ro sai hẹn, là loại rủi ro liên quan đến chất lượng hoạt động tín dụng của ngân hàng.[2] 1.2.5.2 Những tác động của rủi ro tín dụng : - Đối với ngân hàng : Khi gặp rủi ro tín dụng, NH không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng NH phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho NH bị mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay của vốn tín dụng bị chậm lại làm NH kinh doanh không hiệu quả và có thể mất khả năng thanh khoản. Điều này làm giảm lòng tin của người gởi tiền, ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy tín của NH. - Đối với nền kinh tế : Hoạt động NH liên quan đến nhiều cá nhân, nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế, vì vậy khi một NH gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gởi tiền hoang mang lo sợ và ồ ạt kéo nhau đi rút tiền không chỉ ở NH đó mà còn ở các NH khác, làm cho toàn bộ hệ thống NH gặp khó khăn. Ngân hàng phá sản sẽ ảnh hưởng đến tình hình sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp do không có tiền trả lương công nhân, mua nguyên liệu. Lúc bấy giờ, giá cả hàng hóa sẽ tăng, thất nghiệp tràn lan, xã hội mất ổn định, nền kinh tế lâm vào suy thoái. Rủi ro tín dụng có thể châm ngòi cho một cơn khủng hoảng tài chính ảnh hưởng đến cả khu vực và thế giới. Như vậy, rủi ro tín dụng của một NH có thể xảy ra ở nhiều mức độ khác nhau : nhẹ nhất là NH bị giảm lợi nhuận khi không thu hồi được lãi vay, nặng nhất là NH không thu được vốn lẫn lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến NH bị lỗ và mất vốn. Tình trạng này kéo dài sẽ làm NH bị phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống NH nói riêng.[2] 1.3 Những vấn đề cơ bản về tín dụng cá nhân : 1.3.1 Khái niệm : Tín dụng cá nhân là một hình thức TD trong hoạt động kinh doanh của một NHTM. Nó là các khoản cho vay nhằm tài trợ cho nhu cầu vốn của cá nhân, hộ gia đình. Cũng như các loại hình TD khác, TDCN cũng là một sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị, nếu hiểu theo nghĩa hẹp thì TDCN có nghĩa là vay mượn mà trong đó hai chủ thể là người cho vay và người đi vay sẽ thỏa thuận một mức thời hạn nợ và mức lãi nhất định, còn nếu hiểu theo nghĩa rộng thì TDCN là sự vận động vốn từ người thừa tiền đến người thiếu tiền.[4] 1.3.2 Những đặc điềm của tín dụng cá nhân : TDCN là một loại hình của TD, vậy nó mang những đặc điểm chung của TD. Ngoài ra, nó còn mang thêm những đặc điểm riêng : Quy mô : quy mô các khoản vay nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lớn. Các khoản TD cấp cho khách hàng cá nhân là tương đối nhỏ so với TD cấp cho doanh nghiệp. Hầu hết khách hàng tìm đến NH khi đã có số vốn tương đối và chỉ bổ sung phần còn thiếu. Tuy nhiên, đối tượng vay là tất cả các cá nhân trong xã hội với nhu cầu hết sức đa dạng. Do đó tổng quy mô các khoản TDCN là cũng khá lớn. Lãi suất : lãi suất cho vay cá nhân thường cao hơn cho vay đối với doanh nghiệp. Đối với các khoản vay cá nhân, NH thường tốn nhiều chi phí cho việc xác định thẩm định và xét duyệt vay. Số lượng các khoản vay thường rất lớn, nhưng quy mô mỗi khoản vay lại nhỏ. Để bù đắp chi phí và thu lợi nhuận, NH thường đặt ra mức lãi suất cao hơn so với cho vay doanh nghiệp. Tuy nhiên, KH thường quan tâm đến số tiền mà mình phải trả hơn là lãi suất mà mình phải chịu. Nhu cầu vay : nhu cầu vay của KHCN thường nhạy cảm theo chu kỳ kinh tế, tăng lên khi nền kinh tế mở rộng và giảm xuống khi nền kinh tế suy thoái. Ngoài ra nhu cầu vay còn phụ thuộc nhiều vào hai biến số là mức thu nhập và trình độ học vấn của người vay. Nguồn trả nợ : nguồn trả nợ của KH chủ yếu phụ thuộc vào nguồn thu nhập của họ. Nguồn trả nợ này có thể có những biến động lớn, phụ thuộc vào quá trình làm việc, kĩ năng và kinh nghiệm đối với công việc của họ. Sự kiểm soát các nguồn thu này nhiều khi rất khó khăn. Rủi ro : các khoản vay cá nhân thường có độ rủi ro cao hơn cho vay doanh nghiệp. Chất lượng thông tin tài chính do khách hàng cung cấp thường không cao. Tư cách KH là yếu tố quan trọng, quyết định sự hoàn trả của khoản vay, song nó lại là yếu tố định tính, rất khó xác định. Ngoài ra, do nguồn trả nợ của cá nhân chủ yếu là tử thu nhập của người vay, có thể có những biến động lớn. Khả năng trả nợ của KH còn phụ thuộc vào tình trạng sức khỏe của KH, đặc biệt nếu người vay chết thì NH sẽ khó có thể thu hồi nợ. Do vậy các khoản TDCN luôn được quản lý chặt chẽ và linh hoạt, đảm bảo an toàn cho NH và thường là các khoản vay có tài sản đảm bảo.[4] 1.3.3 Vai trò của tín dụng cá nhân : 1.3.3.1 Đối với Ngân hàng : - Tăng cường mối quan hệ với các KH, từ đó NH có thể mở rộng các hoạt động dịch vụ khác với KHCN như tăng khả năng huy động tiền gửi, dịch vụ thanh toán, tư vấn Đây là kênh Marketing hiệu quả đối với NH, tăng khả năng cạnh tranh giành thị phần trên thị trường tài chính. - Tạo điều kiện đa dạng hóa hoạt động kinh doanh, nhờ đó nâng cao lợi nhuận và phân tán rủi ro NH. Các khoản vay CN tuy có quy mô nhỏ nhưng số lượng lại khá lớn, do vậy tổng quy mô tài trợ cũng rất lớn. Đồng thời, lãi suất áp dụng đối với KHCN thường cao hơn so với khách hàng doanh nghiệp để bủ đắp chi phí cho vay nên các khoản vay cá nhân đóng góp một phần lợi nhuận không nhỏ trong tổng lợi nhuận của NH. - Đặc biệt đối với các NH nhỏ hoặc mới thành lập, việc cạnh tranh với các NH lớn, lâu đời trong việc giành c
Luận văn liên quan