Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam

Ở hầu hết các nước, ngành ngân hàng được coi là khu vực then chốt đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động một cách nhịp nhàng. Vì vậy khu vực này được chính phủ các nước quan tâm đặc biệt, và là một trong những ngành được giám sát chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng tại các nước này thường bị chỉ trích mạnh mẽ đó là thiếu sức cạnh tranh và còn thụ động trong hoạt động. Ngoài ra, cơ chế và bộ máy quan liêu ở những nước đang phát triển cũng làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế. Kỹ năng và trình độ quản trị ngân hàng còn nhiều yếu kém làm cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại chưa đạt hiệu quả, ví dụ các khoản vay không có khả năng thu hồi đã làm tăng chi phí và dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Hơn 20 năm qua, nhờ mạnh dạn đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và dần dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết quả đã thu được nhiều thành tựu to lớn trong việc phổ cập giáo dục, xoá đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Cũng nhờ chính sách đổi mới kinh tế, trong 20 năm qua, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những thay đổi to lớn và Việt Nam đã xây dựng được các cơ sở quan trọng về tiền tệ và hệ thống ngân hàng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường. Hiện nay trong quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, Việt Nam đã đạt được nhiều thay đổi tích cực. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm đúng mức. Để có thể xây dựng được một hệ thống ngân hàng hiện đại, có đủ năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, chúng ta cần đánh gía lại hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua một cách khách quan. Qua đó giúp chúng ta nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam điểm mạnh là gì và điểm yếu là gì? Có như vậy mới giúp ta hoạch định chính sách cũng như quản trị ngân hàng thương mại trở nên có hiệu quả hơn và nhờ đó mà nâng cao hoạt động ngân hàng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế đó, tôi xin trình bày nghiên cứu của chuyên đề là: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” nhằm mục tiêu đánh giá tổng quan hoạt động của các ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua trên các khía cạnh về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, tiến bộ công nghệ, cơ chế và thể chế cũng như trình độ của nguồn nhân lực Qua đó đưa ra một số gợi ý về mặt chính sách làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Nội dung chuyên đề được thiết kế gồm ba phần: Phần I. Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại Việt Nam. Phần II. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Phần III. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng Việt Nam.

doc33 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2060 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Chuyên đề Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1 PHẦN I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM 3 I. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 3 1. Qúa trình hình thành và phát triển 3 2. Khái niệm và phân loại Ngân hàng thương mại 3 3. Chức năng của Ngân hàng thương mại 5 II. CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 5 1. Huy động vốn 5 2. Cho vay và đầu tư tài chính 6 3. Là trung gian tài chính 7 III.CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG 7 1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời trong hoạt động ngân hàng 7 2. Nhóm các chỉ tiêu rủi ro 9 3. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng ………………………………………………………………10 PHẦN II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ……………………………………………………………………….10 1. Giai đoạn 1987 - 1990 ..………………………………………………………………………………….10 2. Giai đoạn 1990 – 1999 …………………………………………………………………………………..11 3. Giai đoạn 2000 – 2005 …………………………………………………………………………………..13 PHẦN III. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM ……………………………………………………………………………….26 1. Giải pháp từ phía chính phủ và ngân hàng nhà nước ……………………………………………………26 2. Giải pháp trong nội bộ các ngân hàng …………………………………………………………………...27 TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………………………….32 MỞ ĐẦU Ở hầu hết các nước, ngành ngân hàng được coi là khu vực then chốt đảm bảo cho nền kinh tế hoạt động một cách nhịp nhàng. Vì vậy khu vực này được chính phủ các nước quan tâm đặc biệt, và là một trong những ngành được giám sát chặt chẽ nhất trong nền kinh tế, đặc biệt là tại các nước đang phát triển. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng tại các nước này thường bị chỉ trích mạnh mẽ đó là thiếu sức cạnh tranh và còn thụ động trong hoạt động. Ngoài ra, cơ chế và bộ máy quan liêu ở những nước đang phát triển cũng làm cho hoạt động của các ngân hàng thương mại còn nhiều hạn chế. Kỹ năng và trình độ quản trị ngân hàng còn nhiều yếu kém làm cho hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại chưa đạt hiệu quả, ví dụ các khoản vay không có khả năng thu hồi đã làm tăng chi phí và dẫn đến mất khả năng thanh toán của ngân hàng. Hơn 20 năm qua, nhờ mạnh dạn đổi mới và hội nhập, Việt Nam đã kiểm soát được lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, tạo ra các điều kiện thuận lợi cho tăng trưởng kinh tế và dần dần chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết quả đã thu được nhiều thành tựu to lớn trong việc phổ cập giáo dục, xoá đói giảm nghèo và nâng cao đời sống nhân dân. Cũng nhờ chính sách đổi mới kinh tế, trong 20 năm qua, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những thay đổi to lớn và Việt Nam đã xây dựng được các cơ sở quan trọng về tiền tệ và hệ thống ngân hàng phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường. Hiện nay trong quá trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng, Việt Nam đã đạt được nhiều thay đổi tích cực. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều bất cập và chưa được quan tâm đúng mức. Để có thể xây dựng được một hệ thống ngân hàng hiện đại, có đủ năng lực cạnh tranh trong thời kỳ hội nhập, chúng ta cần đánh gía lại hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam trong thời gian qua một cách khách quan. Qua đó giúp chúng ta nhìn thấy bức tranh toàn cảnh của hệ thống ngân hàng Việt Nam điểm mạnh là gì và điểm yếu là gì? Có như vậy mới giúp ta hoạch định chính sách cũng như quản trị ngân hàng thương mại trở nên có hiệu quả hơn và nhờ đó mà nâng cao hoạt động ngân hàng, đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế đó, tôi xin trình bày nghiên cứu của chuyên đề là: “Thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam” nhằm mục tiêu đánh giá tổng quan hoạt động của các ngân hàng Việt Nam trong thời gian qua trên các khía cạnh về năng lực tài chính, khả năng cạnh tranh, tiến bộ công nghệ, cơ chế và thể chế cũng như trình độ của nguồn nhân lực… Qua đó đưa ra một số gợi ý về mặt chính sách làm cho hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu quả hơn để góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước trong thời kỳ đổi mới. Nội dung chuyên đề được thiết kế gồm ba phần: Phần I. Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại Việt Nam. Phần II. Thực trạng hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Phần III. Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng Việt Nam. PHẦN I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Quá trình hình thành và phát triển Trên thế giới, lịch sử hình thành và phát triển của Ngân hàng gắn liền với lịch sử phát triển của nền sản xuất hàng hóa. Trong quá trình phát triển của nền kinh tế đã đòi hỏi sự phát triển của Ngân hàng và đến lượt mình sự phát triển của Ngân hàng lại thúc đẩy sự tăng trưởng của kinh tế. Ở Việt Nam, ngày 6/5/1951 Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, chính thức khai sinh một ngành kinh tế rất trọng yếu của Nhà nước – ngành Ngân hàng. Ngân hàng quốc gia Việt Nam ban đầu có những nhiệm vụ chủ yếu là: quản lý việc phát hành giấy bạc và tổ chức lưu thông tiền tệ, quản lý kho bạc nhà nước, huy động vốn và cho vay phục vụ sản xuất và lưu thông hàng hóa, quản lý ngoại hối và các khoản giao dịch bằng ngoại tệ và đấu tranh tiền tệ với địch. Ngày 21/1/1960 Ngân hàng quốc gia Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến năm 1975 các chính sách và cơ chế quản lý kinh tế cũng như hệ thống tiền tệ - ngân hàng theo mô hình ở miền Bắc đã áp dụng thống nhất trong cả nước, song do nhiều nguyên nhân mà trong nhiều năm liên tục, cán cân thanh toán quốc tế bội chi rất lớn, kinh tế vĩ mô mất cân đối nghiêm trọng, tình hình tài chính tiền tệ căng thẳng, lạm phát phi mã tới 3 con số (774% năm 1986), sản xuất đình trệ… Đại hội Đảng lần thứ VI đã đề ra đường lối đổi mới cho đất nước, hai pháp lệnh Ngân hàng được công bố ngày 24/5/1990 là cơ sở pháp lý quan trọng khẳng định sự thay đổi mạnh mẽ của Ngân hàng: từ Ngân hàng một cấp thành Ngân hàng hai cấp. Ngân hàng nhà nước Việt Nam là cơ quan quản lý Nhà nước về tiền tệ, tín dụng và ngân hàng với vai trò là Ngân hàng Trung Ương được theo sau bởi một hệ thống ngân hàng thương mại với chức năng kinh doanh. Hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ qua thực tiễn đã yêu cầu đưa hoạt động Ngân hàng vào khuôn khổ pháp luật cao hơn, hai pháp lệnh Ngân hàng đã được tổng kết, nâng lên thành hai luật được thông qua và có hiệu lực thi hành từ 1/10/1998. Từ đây, ngành ngân hàng đã đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp cách mạng chung của dân tộc và phát triển ngày càng lớn với 5 NHTM Quốc doanh, 31 chi nhánh của 26 ngân hàng nước ngoài, 4 ngân hàng liên doanh, 35 NHTM cổ phần, 959 quỹ tín dụng nhân dân và một số công ty tài chính khác. Các nghiệp vụ ngân hàng đã trở nên phong phú, đa dạng, và không ngừng tăng lên, huy động vốn tăng gấp trên 1.000 lần so với năm 1986 và gấp 21 lần so với năm 1990, cho vay nền kinh tế tăng gấp 28 lần so với năm 1990. Khái niệm và phân loại Ngân hàng thương mại. a. Khái niệm: Ở Việt Nam, Pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990 của hội đồng Nhà nước Việt Nam xác định: Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà họat động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền kí gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử dụng số tiền đó để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán. Như vậy qua NHTM các chính sách tài chính tiền tệ của Quốc gia sẽ được thực hiện một cách nhanh chóng và cũng nhờ đó mà việc kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp theo đúng luật pháp được dễ dàng hơn đảm bảo ổn định và phát triển kinh tế - xã hội. b. Phân loại: Có nhiều cách để phân loại NHTM nhưng ở Việt Nam phân loại NHTM theo hình thức sở hữu. Theo cách phân loại này, NHTM bao gồm: NHTM Nhà nước(NHTM Quốc doanh) NHTM cổ phần Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài Ngân hàng liên doanh Các NHTM Nhà nước hiện nay: Vietcombank: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam Agribank: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam Viettinbank: Ngân hàng công thương Việt Nam BIDV: Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam MHB: Ngân hàng phát triển nhà đồng bằng sông Cửu Long Tổ chức hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay  Chức năng của Ngân hàng thương mại Trong sự phát triển của nền kinh tế xã hội, Ngân hàng là một yếu tố không thể thiếu với các chức năng cơ bản của nó là: Chức năng trung gian tín dụng Chức năng trung gian thanh toán Chức năng “tạo tiền” Chức năng cung cấp các dịch vụ tài chính – ngân hàng CÁC HOẠT ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠIi Huy động vốn Bản chất của Ngân hàng là “đi vay để cho vay” vì vậy hoạt động huy động vốn là hoạt động quan trọng của Ngân hàng. Trong thời buổi kinh tế hội nhập, nhu cầu vốn lớn và sự cạnh tranh ngày càng gay gắt các Ngân hàng đều tìm cách mở rộng thu hút tiền gửi để tập trung được những nguồn vốn lớn cho kinh doanh. Các hình thức huy động vốn ngày càng phong phú, các loại hình tiền gửi khác nhau được đưa ra đã đáp ứng đước nhu cầu của khách hàng: tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm … Ngân hàng có thể huy động vốn từ các nguồn sau: 1.Tiền gửi thanh toán của khách hàng loại có kỳ hạn và không kỳ hạn. 2. Tiền gửi tiết kiệm của khách hàng loại có kỳ hạn và không kỳ hạn. 3. Vay NHTW - Vay thông thường - Vay tái chiết khấu - Vay cầm cố - Vay thanh toán bù trừ - Vay hỗ trợ đặc biệt 3. Vay các NHTM khác - Vay thông thường - Vay chiết khấu các giấy tờ có giá - Vay theo hồ sơ tín dụng - Vay cầm cố - Vay hỗ trợ … 4. Vay phát hành - Kỳ phiếu ngân hàng - Trái phiếu ngân hàng - Chứng chỉ tiền gửi 5. Vốn huy động khác - Vốn tài trợ - Vốn ủy thác đầu tư - Vốn để cho vay đồng tài trợ - Nhận vốn liên doanh liên kết 2. Cho vay và đầu tư tài chính Khi đã huy động được vốn, căn cứ vào nhu cầu của khách hàng Ngân hàng sẽ thực hiện các nghiệp vụ cho vay và đầu tư tài chính để hưởng phần chênh lệch lãi suất cũng như các khoản phí. Hiện nay các Ngân hàng có các hình thức cho vay chủ yếu sau: Cho vay từng lần (Cho vay theo món) Cho vay theo hạn mức tín dụng Cho vay dự án đầu tư Cho vay đồng tài trợ Cho vay bảo lãnh Chiết khấu các giấy tờ có giá Cho thuê tài chính Mua bán nợ 3. Là trung gian tài chính Cung cấp các tiện ích cho khách hàng luôn là mục tiêu của mỗi Ngân hàng, bắt đầu từ việc giữ hộ tiền ngày nay các dịch vụ đã phát triển vượt bậc cả về số lượng, chất lượng đáp ứng tốt hơn cho khách hàng. Các hoạt động chủ yếu của Ngân hàng khi là một trung gian tài chính bao gồm: Mua bán ngoại tệ Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn Cho thuê thiết bị trung và dài hạn Cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán Dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán Dịch vụ bảo hiểm bảo lãnh Quản lý ngân quỹ Tài trợ các hoạt động của chính phủ CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG 1. Các chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời trong hoạt động ngân hàng. Các chỉ tiêu quan trọng nhất đo lường khả năng sinh lời của ngân hàng được sử dụng hiện nay gồm: Tỷ lệ thu nhập trên vốn chủ sở hữu – ROE, tỷ lệ thu nhập trên tổng tài sản – ROA, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên – NIM, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên, tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên, thu nhập cận biên trước những giao dịch đặc biệt – NRST, thu nhập trên cổ phiếu – EPS. Công thức xác định:  Giống như tất cả các chỉ số tài chính khác, mỗi tỷ lệ đo lường khả năng sinh lời được sử dụng trong từng trường hợp khác nhau và phản ánh những ý nghĩa không khác nhau đáng kể. ROA là một thông số chủ yếu về tính hiệu quả quản lý, nó chỉ khả năng của hội đồng quản trị ngân hàng trong quá trình chuyển tài sản của ngân hàng thành thu nhập ròng. Ngược lại, ROE là một chỉ tiêu đo lường tỷ lệ thu nhập cho các cổ đông của ngân hàng, nó thể hiện thu nhập mà các cổ đông nhận được từ việc đầu tư vào ngân hàng. Tỷ lệ thu nhập hoạt động cận biên, tỷ lệ thu nhập lãi cận biên và tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên là các thước đo tính hiệu quả cũng như khả năng sinh lời. Chúng chỉ ra năng lực của hội đồng quản trị và nhân viên ngân hàng trong việc duy trì sự tăng trưởng của các nguồn thu (chủ yếu là thu từ các khoản cho vay, đầu tư và phí dịch vụ) so với mức tăng của chi phí (chủ yếu là chi phí trả lãi cho tiền gửi, những khoản vay trên thị trường tiền tệ tiền lương nhân viên và phúc lợi). Tỷ lệ thu nhập lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa thu từ lãi và chi phí trả lãi mà ngân hàng có thể đạt được thông qua hoạt động kiểm soát chặt chẽ tài sản sinh lời và theo đuổi các nguồn vốn có chi phí thấp nhất. Trái lại, tỷ lệ thu nhập ngoài lãi cận biên đo lường mức chênh lệch giữa nguồn thu ngoài lãi, chủ yếu là nguồn thu phí từ các dịch vụ với các chi phí ngoài lãi mà ngân hàng phải chịu (gồm tiền lương, chi phí sửa chữa, bảo hành thiết bị, và chi phí tổn thất tín dụng). Đối với hầu hết các ngân hàng, chênh lệch ngoài lãi thường là âm, chi phí ngoài lãi nhìn chung vượt quá thu từ phí, mặc dù tỷ lệ thu từ phí trong tổng các nguồn thu của ngân hàng đã tăng rất nhanh trong những năm gần đây. Nhóm các chỉ tiêu phản ánh rủi ro. Nợ có vấn đề/dư nợ Nợ quá hạn/dư nợ Nợ quá hạn/vốn của chủ Ngân quỹ/nguồn ngắn hạn Tài sản nhạy cảm/nguồn vốn nhạy cảm Nợ/Vốn của chủ Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro (rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất …) bổ sung cho các chỉ tiêu phản ánh sinh lời nhằm phản ánh đầy đủ kết quả kinh doanh của ngân hàng trong một thời kỳ. Nếu ngân hàng theo đuổi các khoản đầu tư mạo hiểm, có thể tỷ lệ sinh lời hiện tại sẽ cao hơn. Tuy nhiên, nếu tổn thất xảy ra (thường qua một thời gian nhất định), sinh lời của ngân hàng sẽ giảm sút, thậm chí có thể ngân hàng sẽ bị phá sản. Do vậy, thời kỳ này rủi ro cao có thể gây ra tổn thất kỳ sau, làm giảm khả năng sinh lời kỳ sau. Tỷ lệ Nợ/vốn của chủ càng cao, tỷ lệ sinh lời ROE càng lớn, song khả năng chống đỡ với những tổn thất của ngân hàng càng kém. Tỷ lệ Tài sản nhạy cảm/nguồn vốn nhạy cảm phản ánh rủi ro lãi suất khi lãi suất thay đổi theo hướng có lợi hoặc không thay đổi, thu nhập của ngân hàng sẽ gia tăng. Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng Điển hình của hoạt động trong ngân hàng là hoạt động tín dụng, chất lượng tín dụng chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố khác nhau và là một chỉ tiêu tổng hợp phản ánh mức độ thích nghi của NHTM với sự thay đổi của môi trường bên ngoài, nó thể hiện sức mạnh của một ngân hàng trong quá trình cạnh tranh để tồn tại. Chất lượng tín dụng được đánh giá theo một số chỉ tiêu cơ bản, vừa có chỉ tiêu mang tính định tính lại vừa có chỉ tiêu mang tính định lượng. Nhưng hiện nay ở nước ta việc qui định tiêu chuẩn cho các chỉ tiêu định tính rất khó do nó chỉ mang tính tương đối. Vì vậy nếu xét về bản chất và yêu cầu đối với một ngân hàng trước mắt cần qui định hệ thống chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng của các NHTM theo các chỉ tiêu sau: - Tỷ lệ nợ quá hạn - Cơ cấu vốn đầu tư - Tỷ lệ thanh toán nợ do bán tài sản của người vay - Vòng quay vốn tín dụng - Phân loại tài sản có PHẦN II THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI. 1. Giai đoạn 1987-1990 Đây chính là giai đoạn thực hiện thí điểm hệ thống ngân hàng hai cấp. Trong thời kỳ này các ngân hàng bước đầu chú ý tới hiệu quả hoạt động bởi vậy đã thúc đẩy tăng trưởng tín dụng đặc biệt là tín dụng ngắn hạn, trong đó cho vay vốn lưu động chiếm từ 90 đến 95% tổng dư nợ cho vay nền kinh tế. Tín dụng theo định mức vốn lưu động đã được xoá bỏ mà tín dụng trong thời kỳ này chỉ nhằm bổ xung nhu cầu vốn vượt quá vốn cần thiết của doanh nghiệp. Điều này đã phát huy được đòn bẩy tín dụng, chống bao cấp, thu hẹp dần phạm vi cấp phát vốn của ngân sách nhà nước thông qua tín dụng. Bằng việc cho vay trong và ngoài hạn mức tín dụng đã bước đầu gắn được hoạt động tín dụng của các ngân hàng với các hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp và buộc các doanh nghiệp phải sử dụng vốn hiệu quả hơn. Tuy nhiên hoạt động của các ngân hàng trong giai đoạn này cũng còn rất nhiều hạn chế và chưa có những ảnh hưởng tích cực đến hoạt động của nền kinh tế cụ thể là: Các ngân hàng luôn bị động trong hoạt động của mình do không nắm được nhu cầu vốn của các đơn vị theo tỷ lệ trên cơ sở định mức. Điều này làm cho nhu cầu về vốn luôn căng thẳng, áp lực in tiền phục vụ sản xuất và lưu thông cao hơn hạn mức tín dụng của nền kinh tế. Tín dụng ngân sách tăng mạnh và chiếm tỷ trọng lớn, nếu năm 1986 cho vay ngân sách chỉ chiếm 22% thì đến năm 1990 đã lên tới 74.4%. Điều này gắn liền với tỷ lệ lạm phát gia tăng trong thời kỳ này. Hoạt động tín dụng của ngân hàng không theo cơ chế hoạch toán kinh tế thể hiện ở mức lãi suất âm(lãi suất cho vay < lãi suất huy động <tỷ lệ lạm phát và bình quân lãi suất tiền gửi giai đoạn 1987-1990 là 72% năm, lãi suất cho vay 51,6% và tỷ lệ lạm phát là 183,8%). Nguyên nhân chủ yếu của những yếu kém kể trên đó là các ngân hàng Việt Nam còn bị chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ quan quản lý cũ vì đây là giai đoạn nền kinh tế Việt Nam bắt đầu bước những bước đi đầu tiên sang cơ chế thị trường có sự quản lý vĩ mô của nhà nước, cơ chế quản lý mới chưa hoàn chỉnh, chưa đủ mạnh để thoát ra khỏi cơ chế cũ. Mặc dù chức năng ngân hàng chuyên doanh và ngân hàng nhà nước đã được tách ra tuy nhiên sự phân biệt vai trò, chức năng vẫn chưa rõ ràng giữa hai hệ thống này. Do vậy tính pháp nhân, độc lập, và khả năng tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của các ngân hàng thương mại là hết sức hạn chế. Hầu hết các nguồn huy động được gồm cả vốn ngân sách sử dụng cấp tín dụng theo hạn ngạch cho các doanh nghiệp thuộc các khu vực được nhà nước chỉ định. Chính điều này đã làm mất cân bằng cơ cấu giữa các ngành, các vùng, các thành phần kinh tế trong phạm vi toàn quốc. 2. Giai đoạn 1990-1999 Giai đoạn này phản ánh nhiều chuyển biến tích cực đối với hoạt động của hệ thống ngân hàng hai cấp ở Việt Nam. hoạt động của các ngân hàng từng bước đáp ứng tốt nhu cầu vốn của nền kinh tế. Ngân hàng đã duy trì được mức lãi suất dương và tiến dần đến mức lãi suất thị trường, từng bước đa dạng hoá các hoạt động tín dụng và phát triển các dịch vụ ngân hàng mới. Trong hệ thống ngân hàng thương mại thời kỳ này, hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần có sự phát triển mạnh về số lượng tuy nhiên các ngân hàng thương mại nhà nước vẫn nắm giữ một tỷ trọng thị phần chi phối toàn hệ thống. Bảng 2.2 cho biết thị phần của các ngân hàng thương mại từ 1993 đến năm 1996. Bảng 2.2. Thị phần các ngân hàng thương mại Việt Nam thập kỷ 1993-1996 Đơn vị: % Năm/loại hình  1993  1994  1995  1996   A. Tổng thị phần tiền gửi   1. NHTM NN  91  88  80  76   2. NHTM CP  6  8  9  10   3. NH LD  1  2  3  3   4. CN NH nước ngoài  2  2  8  11   B. Tổng thị phần tín dụng   1. NHTM NN  89  85  75  74   2. NHTM CP  7  11  15  14   3. NH LD  1  2  3  5   4. CN NH nước ngoài  3  2  7  7   Nguồn: Hideto Saito thời báo kinh tế Việt Nam số 69, 28/8/1999 Bảng 2.3 cho thấy dư nợ tín dụng trong nền kinh tế tăng dần theo các năm và nó chiếm một tỷ trọng khá lớn trong tổng dư nợ cho vay. Điều này cho thấy vai trò của hệ thống ngân hàng thương mại đã đóng vai trò tích cực hơn trong việc tạo vốn cho nền kinh tế và thông qua đó đóng góp một phần không nhỏ vào việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong thập niên 90 của thế kỷ 20. Bảng 2.3. Dư nợ tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại đối với nền kinh tế: 1991-1999. Đơn vị: tỷ đồng Chi tiêu  1991  1992  1993  1994  1995  1996  1997  1998  1999   GDP  76.701  110.528  140.257  178.534  228.892  272.038  313.617  361.024  399.938   Cho vay nền kinh tế  9.905  13.868  22.467  32.283  43.670  54.393  67.013  83.310  98.891   % so với GDP  12.4%  12.5%  16.0%  18.1%  19.1%  20.0%  21.4%  23.1%  24.7%   Nguồn: Niên giám thống kê, Ngân hàng nhà nước,% so với GDP tác giả dự tính Tuy các ngân hàng Việt
Luận văn liên quan