Đề án Công nghiệp hóa ở các nước Asean và khả năng vận dụng tại Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình này được khởi xướng từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII với mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển, kĩ thuật hiện đại Đảng ta luôn xác định đây là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm tiến hành đổi mới chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng tạo ra thế và lực mới cho quá trình phát triển cao hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chúng ta cũng khó tránh khỏi một số thiếu sót. Muốn tiếp tục phát huy thành tích, khắc phục yếu kém, đẩy lùi nguy cơ tụt hâu về kinh tế, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước nghèo nàn lạc hậu, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, thì không còn con đường nào khác là chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở học tập và rút kinh nghiệm từ bài học của các nước đi trước.

doc21 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2109 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Công nghiệp hóa ở các nước Asean và khả năng vận dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bộ giáo dục và đào tạo Trường đại học Kinh Tế Quốc Dân -----*****-----  Đề án kinh tế chính trị Đề tài: Công nghiệp hóa ở các nước ASEAN và khả năng vận dụng tại Việt Nam. Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thanh Hiếu Sinh viên thực hiện: Nguyễn Hữu Duy Lớp: Tin 44C Khoa: Tin học kinh tế Hà Nội: Năm 2003   Lời mở đầu Hiện nay, Việt Nam đang trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Quá trình này được khởi xướng từ đại hội đảng toàn quốc lần thứ VIII với mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp phát triển, kĩ thuật hiện đại Đảng ta luôn xác định đây là nhiệm vụ trung tâm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong những năm tiến hành đổi mới chúng ta đã thu được nhiều thành tựu quan trọng tạo ra thế và lực mới cho quá trình phát triển cao hơn. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện chúng ta cũng khó tránh khỏi một số thiếu sót. Muốn tiếp tục phát huy thành tích, khắc phục yếu kém, đẩy lùi nguy cơ tụt hâu về kinh tế, sớm đưa đất nước ra khỏi tình trạng một nước nghèo nàn lạc hậu, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực quốc phòng và an ninh, thì không còn con đường nào khác là chúng ta phải đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên cơ sở học tập và rút kinh nghiệm từ bài học của các nước đi trước. Trong bài viết này là một số ý kiến của em về quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở các nước ASEAN và khả năng vận dụng tại Việt Nam hiện nay, trên cơ sở tổng hợp các ý kiến của những bậc thầy đi trước. Và với khuôn khổ một nghiên cứu nho nhỏ như thế này khó có thể trình bày hết những khía cạnh của vấn đề nghiên cứu. Em chỉ xin nêu một số nét cơ bản, nhưng thiếu sót là không thể tránh khỏi. Vì thế sự chỉ dẫn của của thầy cô là rất quý giá. Hà nội: Tháng 9 năm 2003 Tổng quan về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 1) Khái niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Thực tiễn lịch sử đã chỉ rõ rằng, để thủ tiêu tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, khai thác tối ưu tiềm năng của đất nước và các lợi thế, bảo đảm phát triển nhanh và ổn định; mỗi quốc gia phải xác định được cơ cấu kinh tế hợp lý, trang bị kĩ thuật hiện đại, phương thức sản xuất tiên tiến cho tất cả các ngành kinh tế quốc dân. Quá trình ấy gắn bó chặt chẽ với tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hiện nay có khá nhiều khái niệm về công nghiệp hóa, trong đó có một số khái niệm điển hình sau: Công nghiệp hóa là một quá trình được đánh dấu bằng sự chuyển từ nền kinh tế chủ yếu là nông nghiệp sang một nền kinh tế được gọi là công nghiệp. (Mazalish.B. The breakdown of connecaions and mordern development. World development. 1991. Vol. 19, No3, P.31-44). Công nghiệp hóa là hoạt động mở rộng tiến bộ kĩ thuật với sự lùi dần tính thủ công trong sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ. (Encyclopedi Francaise, 1973, P.6298). Công nghiệp hóa là một quá trình mà các xã hội chuyển từ một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp với đặc điểm năng xuất thấp và tăng trưởng cực kì thấp hay bằng không sang một nền kinh tế hiện đại tăng trưởng cao dựa trên cơ sở máy móc, công nghệ hiện đại. Từ những khái niệm trên đây về công nghiệp hóa, có thể thấy rằng việc đưa ra một khái niêm chung nhất, tổng quát nhất là rất khó. Trước hết, đây là quá trình nhằm nhiều mục tiêu, chứa đựng nhiều nội dung, bao trùm nhiều ngành và nhiều mặt hoạt động với nhiều phương thức thực hiện khác nhau. Thứ đến là những mục tiêu cụ thể, những điều kiện kinh tế - xã hội và những quan điểm của các quốc gia không giống nhau, tuy rằng các quốc gia đều phải thực hiện quá trình công nghiệp hóa. Hiện đại hóa: Xét trên góc độ kinh tế kĩ thuật hiện đại hóa là cái đích của công nghiệp hóa. Xét toàn cục hiện đại hóa chỉ là phương tiện, điều kiện để đạt được mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa. Nhận thức rõ sự gắn kết tất yếu giữa công nghiệp hóa và hiện đại hóa, đảng ta khẳng định: Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là “quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính, sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học – công nghệ, tạo ra năng suất lao động xã hội cao”. (Đảng cộng sản Việt Nam: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành trung ương khóa VII, NXB Chính trị quốc gia Hà Nội,1994, Trang 42). 2) Vai trò công nghiệp hóa, hiện đại hóa: Công nghiệp hóa là nhiệm vụ tất yếu, một quy luật có tính phổ biến đối với tất cả các quốc gia để chuyển nền kinh tế từ trạng thái kém phát triển sang phát triển và phụ thuộc sang một xã hội phát triển và văn minh đều nhất thiết phải trải qua. Với mục tiêu là bảo đảm sự phát triển kinh tế - xã hội nhanh, ổn định và vững trắc, khai thác có hiệu quả các nguồn lực trong nước để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, xây dựng một xã hội văn minh công nghiệp. Mục tiêu này sẽ được thực hiện từng bước và trong từng giai đoạn sẽ có những mục tiêu trọng điểm. 3) Đặc điểm: Công nghiệp hóa là quá trình thay thế các thiết bị và quy trình sản xuất thủ công bằng máy móc hiện đại và quy trình sản xuất công nghiệp. 4) Thực chất công nghiệp hóa là sự phát triển công nghệ, là quá trình chuyển nền sản xuất xã hội từ trình độ công nghệ kém phát triển tới tiên tiến hiện đại. Cũng được hiểu như là một quá trình ứng dụng khoa học và công nghệ sản xuất hiện đại trên toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Cụ thể hơn, đó là việc xây dựng cơ cấu đa ngành. Sự cân đối giữa các ngành, các vùng được xem xét trong điều kiện kinh tế mở nhằm phát huy lợi thế của mỗi quốc gia. 5)Cơ sở khoa học của việc thực hiện công nghiệp hóa: Hiện nay có nhiều học thuyết kinh tế khác nhau. Các học thuyết này đều có những nét đặc sắc riêng. Một số được dùng làm cơ sở lý luận cho việc nghiên cứu và thực hiện quá trình công nghiệp hóa. Học thuyết Mác-Lênin được coi là nền tảng tư tưởng, phương pháp luận và kim chỉ nam cho mọi hành động ở những nước chọn con đường xã hội chủ nghĩa. Học thuyết chỉ ra các quy luật kinh tế quan trọng: Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nếu sự phát triển của quan hệ sản xuất không theo kịp sự phát triển của lực lượng sản xuất thì sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế. Còn nếu quan hệ sản xuất phát triển quá nhanh so với lực lượng sản xuất thì kinh tế cũng không thể phát triển được. Do đó phải xây dựng một nền kinh tế dựa trên sự phát triển nhịp nhàng giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất. Hiện nay nước ta đang trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đang xây dựng quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa. Để làm được điều đó việc quan trọng trước tiên là phải phát triển lực lượng sản xuất, mà trong điều kiện hiện nay đó là việc thực hiện cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật trong tất cả các ngành kinh tế quốc dân, xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý. Sử dụng đúng mức tác động tích cực của quan hệ sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất phát triển. Cơ chế quản lý và phân phối cũng phải được hoàn thiện cho thích ứng với lực lượng sản xuất và kích thích lực lượng này phát triển. Tính tất yếu của công nghiệp hóa: 1) Bối cảnh quốc tế và trong nước của công nghiệp hóa ở các nước ASEAN: Từ thập kỷ 80, toàn cầu hóa là hiện tượng nổi bật và là xu thế khách quan của nền kinh tế thế giới. Mỗi nước trong quá trình phát triển không thể tách rời sự tác động của thị trường khu vực và thế giới. Liên kết kinh tế và hội nhập trở thành một xu thế tất yếu của thời đại. Trong bối cảnh đó, hầu hết các nước trên thế giới đã có sự điều chỉnh hoặc cải cách kinh tế ở các mức độ và hình thức khác nhau. a) Ảnh hưởng của cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật : Khởi đầu của quá trình công nghiệp hóa ở các nước ASEAN gần như trùng với cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại với sự xuất hiện và biến đổi nhanh chóng của một loạt công nghệ mới như: công nghệ điện tử, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học... đã làm thay đổi một cách căn bản phương thức sản xuất của nhân loại. Tốc độ phát triển như vũ bão của cách mạng khoa học – kỹ thuật đã làm cho khoa học thực sự trở thành một lực lượng sản xuất trực tiếp nhờ triển khai nhanh chóng các thành tựu trong nghiên cứu thành các công nghệ trong sản xuất, trong tổ chức và quản lý. Những máy móc hiện đại có thể làm năng suất cao gấp trăm lần, ngàn lần trước đây, lại tiêu tốn ít năng lượng, nguyên liệu, nhiên liệu, giúp tiết kiệm được đầu vào cho sản xuất, làm cho sản xuất phát triển mau chóng. Nhưng quan trọng hơn, nó tạo ra tiền đề cho các nước đi sau có thể tận dụng thời cơ, rút ngắn quá trình công nghiệp hóa thông qua chiến lược “đi tắt đón đầu”, kết hợp các bước đi tuần tự và nhảy vọt để đuổi bắt các nước đi trước. Kinh nghiệm cho thấy, trong thời đại cách mạng khoa học - kỹ thuật, nước nào có khả năng ứng dụng nhanh những thành tựu của cách mạng khoa học - kỹ thuật, nước đó sẽ thành công. Vấn đề là lựa chọn, tiếp thu và làm chủ các công nghệ sẵn có sao cho phù hợp với điều kiện thực tiễn của nước nhà. Việc lựa chọn phải hết sức sáng suốt, phải có tầm nhìn chiến lược vì công nghệ đang thay đổi từng ngày. Một công nghệ mới có thể trở thành lạc hậu chỉ trong vòng 1 đến 3 năm. Nếu các nước đi sau tiến hành công nghiệp hóa chỉ dựa vào công nghệ hạng hai, họ sẽ mãi mãi rơi vào sự phụ thuộc về công nghệ, vĩnh viễn là cái bóng của của các nước tiên tiến hơn. Do vậy, phải tùy khả năng và ưu thế của mình, lựa chọn những lĩnh vực có thể tiến thẳng lên công nghệ hiện đại. Tức là, công nghiệp hóa phải đi đôi với hiện đại hóa. Khoa học kĩ thuật hiện đại giúp công nghiệp hóa ít phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên hơn. Công nghệ hiện đại không những tạo ra những sản phẩm chất lượng cao, năng suất cao mà còn tiết kiệm được rất nhiều nguyên vật liệu và năng lượng. Vì lẽ đó, nhiều nước đã biết sử dụng lợi thế của cách mạng khoa học – kỹ thuật hiện đại để vượt qua hạn chế về tài nguyên, để vươn lên thành nước có nền công nghiệp phát triển. Trong đó Nhật Bản là một ví dụ tiêu biểu. b) Quá trình quốc tế hóa sản xuất, tự do hóa thương mại diễn ra mạnh mẽ và sâu sắc. Tự do hóa thương mại và quốc tế hóa sản xuất là hai quá trình đã tác động sâu sắc đến mô hình công nghiệp hóa ở các nước ASEAN. Nó buộc công nghiệp hóa phải tính đến sự gắn bó của nền kinh tế trong nước với nền kinh tế khu vực và thế giới, nó tạo điều kiện cho công nghiệp hóa hướng đến một thị trường tư liệu sản xuất và thị trường tiêu thụ sản phẩm vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Và trong điều kiện tự do hóa thương mại và quốc tế hóa sản xuất diễn ra mạnh mẽ, tất cả các chính sách công nghiệp hóa đều phải hướng tới khai thác được lợi thế so sánh của đất nước và mối liên hệ hợp tác kinh tế cùng quá trình chuyển giao khoa học công nghệ với các quốc gia thuộc mọi trình độ phát triển khác nhau. 2) Công nghiệp hóa là phương thức được áp dụng phổ biến ở các nước kém phát triển để rút ngắn khoảng cách tụt hậu so với các nước phát triển. Tính phổ biến của công nghiệp hóa, hiện đại hóa thể hiện ở nhiều khía cạnh: Bản thân công nghiệp hóa, hiện đại hóa là hiện tượng có tính phổ biến, nghĩa là để từ kém phát triển trở thành phát triển, từ lạc hậu trở thành tiên tiến, hiện đại, các nước đều phải tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mặc dù nội dung, cách thức, bước đi của công nghiệp hóa, hiện đại hóa có tính đặc thù, tùy thuộc vào điều kiện cụ thể của mỗi nước và bối cảnh quốc tế từng thời kỳ, nhưng những nội dung cơ bản nói lên thực chất của công nghiệp hóa, hiện đại hóa lại có những nét chung. Đó là ở mọi quốc gia, mọi thời kỳ, công nghiệp hóa, hiện đại hóa bao giờ cũng là quá trình trang bị kỹ thuật hiện đại cho các ngành kinh tế. Tuy rằng mỗi nước có mục tiêu riêng của mình, do bản chất chính trị, kinh tế - xã hội quy định, song vẫn có những nét tương đồng. Đó là, đều xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, khai thác có hiệu quả các nguồn lực của đất nước, tạo năng suất lao động xã hội cao, bảo đảm nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững. 3) Quan điểm về công nghiệp hóa nền kinh tế quốc dân: a) Bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội. Quá trình công nghiệp hóa phải tạo nên những chuyển biến căn bản và toàn diện đời sống kinh tế xã hội, trong đó sự chuyển biến có hiệu quả về kinh tế, kĩ thuật là cơ sở vật chất cho những chuyển biến về xã hội. Suy đến cùng mục tiêu của quá trình công nghiệp hóa ở nước ta là thực hiện dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh, bình đẳng, dân chủ, có kỉ cương, tạo điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, kết hợp lợi ích mỗi người với lợi ích chung của cả dân tộc. Về mặt xã hội, quá trình công nghiệp hóa phải đạt được những nội dung cơ bản sau: - Bảo đảm sự ổn định và củng cố chế độ chính trị - xã hội trên cơ sở đổi mới từng bước vững chắc. - Cải thiện một cách căn bản đời sống vật chất và tinh thần của người dân về ăn ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất, nâng cao dân chí cùng với lối sống văn minh. - Bảo đảm quyền lợi cho mọi người dân, quyền bình đẳng giữa các tầng lớp xã hội. Về mặt kinh tế - kĩ thuật, cần đạt được những yêu cầu như: - Khai thác có hiệu quả các lợi thế và các nguồn lực của đất nước, liên kết với nước ngoài trên cơ sở bình đẳng và cùng có lợi. - Phát triển các ngành kinh tế quốc dân với tốc độ nhanh, ổn định và vững chắc. - Thay thế cơ bản các kĩ thuật và công nghệ truyền thống bằng kĩ thuật, công nghệ tiên tiến. Áp dụng phổ biến phương thức công nghiệp trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của đất nước. - Bảo đảm sự cân đối giữa các ngành, các lĩnh vực. Không ngừng tăng năng suất lao động, tăng tổng sản phẩm xã hội và tăng thu nhập quốc dân. b) Nâng cao trình độ khoa học - công nghệ Trong điều kiện hiện nay, thực hiện công nghiệp hóa cũng đồng thời có nghĩa là thực hiện cuộc cách mạng khoa học – công nghệ, tạo nên sự chuyển biến về chất của lực lượng sản xuất. Việc nâng cao trình độ khoa học – công nghệ phải đảm bảo các ngành kinh tế quốc dân sử dụng được máy móc với trình độ hiện đại khác nhau, phương pháp công nghệ từng bước được thay thế lao động thủ công. Cần kết hợp nhiều trình độ khác nhau, tranh thủ công nghệ tiên tiến, kết hợp đầu tư theo chiều sâu với đầu tư theo chiều rộng. c) Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan điểm này chi phối việc xác định nội dung và phương thức thực hiện công nghiệp hóa ở nước ta. Trên cơ sở đổi mới nền kinh tế, đảng ta chủ trương phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong đó mọi người đều được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp. Các doanh nghiệp không phân biệt quan hệ sở hữu đều tự chủ kinh doanh, hợp tác và cạnh tranh với nhau, bình đẳng trước pháp luật. d) Kết hợp giữa các mô hình “hướng ngoại”; “hướng nội”. Quá trình công nghiệp hóa cũng đồng thời là quá trình phát triển kinh tế hàng hóa. Xác định thị trường là điều không thể thiếu để phát triển sản xuất hàng hóa. Mô hình “hướng ngoại” là tập trung đầu tư trọng điểm vào những ngành hàng, lĩnh vực có khả năng xuất khẩu. Còn “hướng nội” là phát huy nội lực trong nước sản xuất những hàng hóa nhằm thay thế nhập khẩu. Việc tìm kiếm thị trường trong nước và ngoài nước phải có sự kết hợp hài hòa với nhau. Song, trong sự kết hợp ấy hiện nay chúng ta cần ưu tiên hơn vào chiến lược hướng ngoại là vì: - Hướng ngoại là động lực và điều kiện phát huy lợi thế so sánh của đất nước trên tinh thần bảo đảm hiệu quả của kinh tế đối ngoại và phát triển trong thế chủ động. - Hướng ngoại là cơ sở tạo nên nguồn ngoại tệ để giải quyết các vấn đề trong nước trong điều kiện trao đổi bình đẳng: đôi bên cùng có lợi. - Đòi hỏi khắt khe của thị trường nước ngoài, tạo động lực để nâng cao trình độ kỹ thuật, tăng sức cạnh tranh của hàng hóa. Nhưng cũng không thể không quan tâm đến chiến lược hướng nội vì: - Thị trường trong nước có quy mô lớn. Nhiều loại hàng hóa cung còn nhỏ hơn cầu. Bỏ qua thị trường này là một sai lầm khi chen chân vào thị trường thế giới hiện nay rất khó khăn. Hơn nữa với lợi thế “sân nhà” lẽ nào chúng ta chịu để thị trường nội địa bị chiếm lĩnh! - Bảo đảm khai thác mọi nguồn lực vào phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội bức bách (việc làm, trật tự xã hội...); - Tạo điều kiện nhất định cho thực hiện hướng ngoại và góp phần giải tỏa tình trạng căng thẳng thiếu ngoại tệ. Việc vận dụng quan điểm này phải được cụ thể hóa trong các chiến lược phát triển các ngành kinh tế. Công nghiệp hóa ở các nước ASEAN: Các bước tiến hành công nghiệp hóa. Một bước đi quan trọng của quá trình công nghiệp hóa ở các nước ASEAN là rất linh hoạt trong việc chuyển hướng công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu, sang công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu đồng thời quan tâm tới phát triển công nghiệp vừa và nhỏ. Điều nổi bật trong chiến lược này là kết hợp xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp truyền thống, sản phẩm sử dụng nhiều lao động với sản phẩm có hàm lượng kĩ thuật cao. Các nước ASEAN có chính sách tích cực thâm nhập thị trường nước ngoài. Có chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Việc thu hút vào đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ đã giúp cho các nước ASEAN đổi mới được công nghệ, hiện đại hóa và có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Trong quá trình công nghiệp hóa ASEAN đã chú trọng tới việc giáo dục văn hóa truyền thống và giáo dục hướng nghiệp cho người lao động, đồng thời tăng cường sự điều tiết của nhà nước trong quá trình công nghiệp hóa. Vai trò nhà nước. Các nước ASEAN đã xây dựng và áp dụng một loạt các chính sách quan trọng. Thứ nhất, là có định hướng chiến lược cho phát triển công nghiệp. Điểm nổi bật là chuyển hướng chiến lược từ công nghiệp hóa thay thế nhập khẩu sang công nghiệp hóa hướng về xuất khẩu. Thứ hai, là các chính sách can thiệp vào ngoại thương bảo hộ ngành chế tạo nội địa như chính sách đền bù thông qua thuế, khuyến khích xuất khẩu và điều tiết ngoại thương thông qua các quy định về thủ tục xuất khẩu, đơn giản hóa thủ tục cấp giấy phép đầu tư nhằm khuyến khích đầu tư. Thứ ba, nhà nước can thiệp vào thị trường lao động thông qua quy định mức lương tối thiểu, can thiệp vào thị trường vốn thông qua hoạt động của các ngân hàng nhà nước và sự kiểm soát của ngân hàng tư nhân. Những quy định về giá cả với hàng hóa thiết yếu để đảm bảo sự công bằng và chống độc quyền về giá cả. Thứ tư, nhà nước có chính sách thu hút vốn đầu tư kể cả đầu tư ra nước ngoài và huy động vốn đầu tư từ trong nước do vậy khuyến khích dân cư tiết kiệm để tăng đầu tư (ở Việt Nam thì nhà nước tích cực phát hành trái phiếu chính phủ). Thứ năm, nhà nước có chính sách cân bằng lại khu vực tư nhân và khu vực công cộng, đặc biệt chú trọng đẩy mạnh tư nhân hóa xí nghiệp nhà nước để nâng cao hiệu quả hoạt động của chúng. (Quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ ở Việt Nam). Xây dựng thị trường phục vụ công nghiệp hóa. Mọi quá trình sản xuất phải bắt đầu từ xem xét tổng cầu chứ không phải tổng cung. Tức là cần tìm hiểu người ta cần cái gì và cần bao nhiêu để sản xuất chứ không phải là mình sản xuất được bao nhiêu. Nói cách khác, để công nghiệp hóa thành công phải tạo ra được một thị trường rộng lớn, khuyến khích tiêu dùng trong nước. Nhưng với các nước đang phát triển, nếu chỉ tập chung vào thị trường nội địa sẽ dẫn tới thất bại. Do thu nhập thực tế thấp, năng suất lao động thấp nên thị trường nội địa là không đủ. Cần phải mở rộng buôn bán hợp tác quốc tế. Không phải chỉ quan hệ giữa các nước nghèo với nhau mà nên hợp tác buôn bán với các nước phát triển thì lợi ích đem lại sẽ lớn hơn rất nhiều. Có một điều chắc chắn rằng: thị trường trong nước là có hạn còn thị trường quốc tế là vô hạn. Vấn đề là khả năng của mỗi nước đến đâu? Khai thác lợi thế so sánh Các nước đang phát triển có những lợi thế nổi trội so với các nước phát triển, đó là nhân công dồi dào, giá rẻ,
Luận văn liên quan