Đề án Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới hướng tới thế kỷ XXI, không một quốc gia nào phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế lao động khu vực, điều đó không loại trừ đối với Việt Nam đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước hiện nay, Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế, thực hiện chiến lược CNH_HĐH hướng mạnh vào xuất khẩu. Để tăng xuất khẩu thời gian tới, Việt Nam chủ trương kết hợp xuất khẩu những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối (những mặt hàng xuất khẩu truyền thống: hàng nông lâm thủy sản, khoáng sản, nhiên liệu và hàng may mặc) và một số hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao. Xuất khẩu hàng may mặc là một mặt hàng dữ vai trò quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Bộ công nghiệp dự kiến năm 2005 sẽ đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt-may với mức tăng 21,05% so với thực hiện năm 2002 và đạt khoảng 2,3 tỷ USD. Sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thì kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ dự kiến sẽ đạt 1 tỷ USD/năm. Hiện nay, hàng may mặc Việt Nam phải chịu thuế nhập khẩu vào Mỹ khá cao nên năm 2002 mới xuất khẩu được 49 triệu USD, 5 tháng đầu năm 2003 xuất khẩu 17 triệu USD hàng may mặc vào Mỹ Hơn nữa ngành may mặc còn giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam và góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người cũng như góp phần thoả mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của thị trường nội địa. Do đó, ngành may mặc là một trong những ngành kinh tế quan trọng, nhưng rất nhạy cảm và đặc biệt là xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ, nơi có tiềm năng to lớn. Do vậy tìm hiểu và nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ để các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Mỹ là rất cần thiết.

doc32 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 3346 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC  Trang   LỜI MỞ ĐẦU  3   CHƯƠNG I. TÌNH HÌNH VÀ ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG MAY MẶC HOA KỲ  4   I. Tình hình thị trường Hoa Kỳ  4   1. Một vài nét về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội  4   2. Sự phát triển kinh tế Hoa Kỳ - một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thị trường nói chung & thị trường may mặc nói riêng  5   II. Đặc điểm thị trường may mặc Hoa Kỳ  6   1. Thị hiếu người tiêu dùng  6   2. Chính sách và luật về kinh tế hàng may mặc của chính quyền G.BUSH  7   3. Sức mua tiêu dùng  10   4. Hệ thống phân phối ở thị trường Mỹ  10   CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ  13   I. Hiện trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ trong thời gian qua  13   1. Thực trạng xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam  13   2. Những kết quả tồn tại trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam  16   3. Nguyên nhân tồn tại trong kinh doanh xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam  17   II. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ  19   2. Đánh giá thực trạng xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Hoa Kỳ  20   CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP CHO CÁC DOANH NGHIỆP MAY MẶC XUẤT KHẨU VIỆT NAM ĐỂ TĂNG CƯỜNG XUẤT KHẨU HÀNG MAY MẶC SANG THỊ TRƯỜNG MỸ  22   1. Về doanh nghiệp  22   2. Về chính phủ  22   KẾT LUẬN  25   TÀI LIỆU THAM KHẢO  26   LỜI MỞ ĐẦU Trong điều kiện toàn cầu hóa và khu vực hóa của đời sống kinh tế thế giới hướng tới thế kỷ XXI, không một quốc gia nào phát triển nền kinh tế của mình mà không tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế lao động khu vực, điều đó không loại trừ đối với Việt Nam đặc biệt là trong sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước hiện nay, Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ IX tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới và mở cửa nền kinh tế, thực hiện chiến lược CNH_HĐH hướng mạnh vào xuất khẩu. Để tăng xuất khẩu thời gian tới, Việt Nam chủ trương kết hợp xuất khẩu những mặt hàng mà đất nước có lợi thế tương đối (những mặt hàng xuất khẩu truyền thống: hàng nông lâm thủy sản, khoáng sản, nhiên liệu và hàng may mặc) và một số hàng có hàm lượng kỹ thuật công nghệ cao. Xuất khẩu hàng may mặc là một mặt hàng dữ vai trò quan trọng trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Bộ công nghiệp dự kiến năm 2005 sẽ đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt-may với mức tăng 21,05% so với thực hiện năm 2002 và đạt khoảng 2,3 tỷ USD. Sau khi Hiệp định thương mại Việt-Mỹ có hiệu lực thì kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc sang Mỹ dự kiến sẽ đạt 1 tỷ USD/năm. Hiện nay, hàng may mặc Việt Nam phải chịu thuế nhập khẩu vào Mỹ khá cao nên năm 2002 mới xuất khẩu được 49 triệu USD, 5 tháng đầu năm 2003 xuất khẩu 17 triệu USD hàng may mặc vào Mỹ Hơn nữa ngành may mặc còn giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu tổng sản phẩm quốc nội của Việt Nam và góp phần quan trọng trong việc giải quyết công ăn việc làm cho hàng triệu người cũng như góp phần thoả mãn nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng của thị trường nội địa. Do đó, ngành may mặc là một trong những ngành kinh tế quan trọng, nhưng rất nhạy cảm và đặc biệt là xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ, nơi có tiềm năng to lớn. Do vậy tìm hiểu và nghiên cứu thị trường Hoa Kỳ để các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Mỹ là rất cần thiết. Nhận biết được tầm quan trọng của xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang Mỹ trong thời gian tới. Em đã chọn nghiên cứu đề tài: “ Giải pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ”. Tuy nhiên, trình độ hiểu biết còn có nhiều hạn chế cho nên không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong muốn nhận được sự góp ý, chỉ bảo của các thầy cô, các chuyên viên và bạn bè để em có những tiến bộ hơn sau này. Em xin chân thành cảm ơn ! CHƯƠNG I TÌNH HÌNH & ĐẶC ĐIỂM THỊ TRƯỜNG MAY MẶC HOA KỲ I.Tình hình thị trường Hoa Kỳ 1.Một vài nét về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội a. Về kinh tế Sự tăng trưởng liên tục của nền kinh tế Mỹ trong nhiều thập kỉ qua đã đảm bảo vị trí đặc biệt cho nước này về trao đổi thương mại toàn cầu và các thể chế tài chính thế giới, trong việc thực hiện các chương trình hỗ trợ kinh tế trên qui mô lớn từ đó Hoa Kỳ càng khảng định là một thị trường lớn nhất trên thế giới (GDP > 9000 tỷ USD ). Nước Mỹ nắm vị trí dẫn đầu trong 5 lĩnh vực kinh tế quan trọng nhất, chiếm 35,8% chi phí của thế giới cho sản xuất công nghệ mới, hơn 40% vốn đầu tư của cả thế giới vào ngành công nghệ thông tin với hơn 220 tỷ USD. Tăng trưởng kinh tế Mỹ dưới thời tổng thống B.Clinton là thời Kỳ tăng trưởng kéo dài nhất trong lịch sử nước Mỹ từ trước đến nay. Số liệu tăng trưởng GDP của Mỹ năm 2000 và đầu năm 2001 như sau: Biểu 1 :GDP Mỹ (%)1    Năm 2000  Năm 2001   Quí I  4,8  0,75   Quí II  5,6  2,25   Quí III  2,2  …   Quí IV  1,4  …   Nguồn: tạp chí Châu Mỹ ngày nay- số 3/2001 Qua số liệu trên, chúng ta thấy sự giảm sút của nền kinh tế Mỹ là đáng kinh ngạc, và có thể do một số nguyên nhân sau: - Toàn bộ ngành chế tạo của Mỹ phát triển chậm lại, sản lượng giảm sút mạnh trong tháng 12 năm 2000, đạt mức thấp nhất trong 2 năm rưỡi qua (ví dụ: ngành sản xuất ô tô giảm tới 5% ). - Chi phí sản xuất tăng lên, đặc biệt chi phí năng lượng tăng nhanh do giá dầu mỏ tăng đặc biệt nhanh, có lúc đã lên tới 35 USD /thùng trong năm 2000 khoảng 16%, sang quí III giảm còn 7,8% và quí IV giảm hơn nữa. - Giá hàng hóa ở Mỹ tăng, xuất khẩu giảm, nhập siêu tăng khiến cho hàng hóa Mỹ bị tồn kho nhiều gây ách tắc sản xuất, lưu thông và tiêu dùng. - Một nguyên nhân nữa là trong năm 2000, Cục điều tra liên bang Mỹ (Fed) đã 6 lần điều chỉnh tăng tỉ giá chống lạm phát và làm giảm tốc độ tăng trưởng khá cao của nền kinh tế Mỹ. b.Về văn hóa chính trị Mỹ Văn hóa chính trị, với tư cách là tổng hợp những giá trị được hình thành từ trong thực tiễn chính trị, góp phần chi phối, định hướng hoạt động của công dân và nhà chính trị trong việc tham gia vào đời sống chính trị nhằm phục vụ cho một lợi ích căn bản của một giai cấp, tầng lớp nhất định. Văn hóa chính trị vừa mang những chuẩn mực giá trị chung vừa mang những nét đặc thù do đặc điểm nền kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội và truyền thống lịch sử v.v... Do đó nền văn hóa chính trị Mỹ cũng có những nét đặc thù riêng. Sự hình thành văn hóa chính trị ở Mỹ: Văn hóa chính trị ở Mỹ hình thành thông qua con đường giáo dục văn hóa ở mọi cấp học và cho mọi đối tượng từ trẻ đến già. Nhà nước, các đảng phái, nhà thờ, nhà kinh doanh, nhà khoa học và quân đội đều có thể tham gia vào việc giáo dục văn hóa với những hình thức và phương thức khác nhau. Hợp chủng quốc Hoa Kỳ gồm nhiều dân tộc và bộ lạc khác nhau sinh sống ở khắp các bang, từ đó có thể nói nền văn hóa ở đây là một nền văn hoá đa sắc tộc, phong phú và đa dạng. Đồng thời thể chế chính trị của Mỹ đi theo con đường chủ nghĩa tư bản, nên sự tác động về văn hoá chính trị đến yếu tố thương mại là không nhỏ. 2. Sự phát triển kinh tế Hoa kỳ - một trong những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến thị trường nói chung & thị trường may mặc nói riêng. Sự phát triển kinh tế Mỹ tác động không nhỏ đến nhu cầu chi tiêu của người tiêu dùng, trong đó ảnh hưởng đến sức mua sắm của người dân là khá lớn. Bởi vì, một khi nền kinh tế phát triển thì khi GDP tăng và giảm khả năng thất nghiệp thì chi tiêu theo đầu người sẽ tăng. Do đó thị trường may mặc sẽ bị chi phối bởi sự phát triển kinh tế Hoa Kỳ, trong những năm gần đây nền kinh tế Mỹ phát triển cao nên thị trường may mặc Hoa Kỳ thể hiện một tiềm năng to lớn. Nhưng sau sự kiện ngày 11 tháng 9 năm 2001 nền kinh tế Mỹ phát triển chững lại, tỉ lệ thất nghiệp cao. Để đối phó với sự suy giảm nền kinh tế, lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp cao, chính phủ Mỹ đã cắt giảm lãi suất lần thứ 5 trong năm nay, (đây là một trong những biện pháp kích thích người tiêu dùng tăng chi tiêu ). Từ đó các doanh nghiệp Việt Nam phải tận dụng mọi nguồn lực sẵn có ở trong và ngoài nước để tăng khả năng sản xuất và xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Thị trường may mặc Hoa Kỳ cũng có những biến động sau sự kiện ngày 11 tháng 9 trên nhưng không chịu ảnh hưởng lớn như những ngành khác: hàng không, du lịch ... Bên cạnh đó các doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận ra sức cạnh tranh khốc liệt của các công ty may mặc Hoa Kỳ, công ty từ mọi quốc gia trên thế giới xuất khẩu vào Mỹ và đặc biệt là các công ty của Trung Quốc, Thái Lan ... Năm 2000 Hoa Kỳ nhập khẩu hàng hóa của Việt Nam trị giá khoảng 732,4 triệu USD trong đó hàng may mặc chiếm 6,8% (49,7 triệu USD ), một tỷ trọng khiêm tốn nhưng sau khi hiệp định thương mại Việt - Mỹ được hai chính phủ thông qua thì khả năng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam vào Mỹ chắc chắn sẽ tăng lên và khi đó kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc không chỉ dừng ở con số trên. II.Đặc điểm thị trường may mặc Hoa kỳ 1.Thị hiếu người tiêu dùng Hiện nay với số dân khoảng 270 triệu người, tổng sản phẩm quốc nội lên tới 10.000 USD/năm, trong đó 80% được dành cho tiêu dùng, Mỹ có nền kinh tế mạnh nhất, là thị trường có sức mua lớn nhất thế giới, cùng với diện tích rộng lớn, và nền văn hóa đa sắc tộc nên thị hiếu người tiêu dùng là rất khác nhau. Mặc dù là một cường quốc trên thế giới với mức thu nhập tính trên đầu người cao nhưng ở đó cũng không tránh khỏi sự đối xử phân biệt về tầng lớp xã hội, từ đó cách ăn mặc ở mỗi tầng lớp cũng khác nhau. Những người có thu nhập thấp thì phần lớn họ không đòi hỏi cao về cách ăn mặc, quần áo đơn giản và thường là rẻ tiền và phù hợp với mức thu nhập của họ. Và ngược lại đối với tầng lớp trung lưu và thượng lưu thì cách ăn mặc của họ mang tính chất hưởng thụ nhiều hơn. Yêu cầu đối với hàng may mặc khắt khe : “chất lượng và thời trang”, đặc biệt là trong công việc cần có sự giao tiếp thì cần phải lịch sự. Còn những lúc nghỉ ngơi giải trí thì quần áo hợp thời trang lúc này là điều kiện tất yếu đối với họ. Nhưng nhìn chung cách ăn mặc của người dân Mỹ có điểm chung là phù hợp với công việc, nghỉ ngơi và giải trí. Tất nhiên thị hiếu người tiêu dùng ở Mỹ cũng có thể chia thành những nhóm người, nhóm tuổi, mỗi người thích một nhóm màu khác nhau tùy theo thị hiếu của họ mà không phụ thuộc vào tuổi tác. Đối với thời trang của nam nữ thanh niên, màu sắc thay đổi phụ thuộc vào mùa. Họ theo xu hướng thời trang, giới trẻ chịu tác động rất mạnh bởi các phương tiện thông tin đại chúng thông qua các tạp chí, phim ảnh và các sự kiện trên thế giới. Nếu có một mốt nào đó đang được ưa chuộng thì phương tiện thông tin đều đề cập đến mốt đó và lúc đó ai cũng muốn có bộ quần áo hợp mốt. Tuy nhiên,tuy nhiên cũng thay đổi rất nhanh, điều đó tương ứng với việc sản phẩm không còn tiêu thụ mạnh trên thị trường. Do đó các doanh nghiệp Việt Nam phải cung ứng một cách kịp thời những sản phẩm hợp mốt, đặc biệt là đối với khách hàng trẻ - những người có sở thích may mặc thay đổi rất nhanh. Bởi vì New Yok là một trong những trung tâm thời trang lớn của thế giới nên người tiêu dùng nắm bắt rất nhanh xu hướng thời trang trên thế giới. 2.Chính sách và luật về kinh tế-hàng may mặc của chính quyền G.BUSH Sau khi tổng thống GEORGE W.BUSH lên cầm quyền đã đưa ra chính sách Châu Á-Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam gồm một số điểm chính là: . Chú trọng đến vấn đề an ninh . Chú trọng hơn khu vực châu á Thái Bình Dương . Chú trọng hơn vai trò của các nước đồng minh . Cứng rắn hơn với các đối thủ cạnh tranh Nhưng chúng ta thừa nhận rằng sau chiến tranh Việt Nam kết thúc, Quan hệ Việt- Mỹ không được tiến triển. Mặc dù vậy trong những năm qua, quan hệ Việt- Mỹ đã được cải thiện đáng kể, đặc biệt là sau khi Hoa Kỳ dỡ bỏ cấm vận Việt Nam tháng 2 năm1994 và bình thường hóa quan hệ vào tháng 7 năm 1995, đặc biệt hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được tổng thống G.Bush thông qua tháng 10/2001. Mỹ là nước có hệ thống luật pháp phức tạp nhưng chặt chẽ và khắt khe thuộc loại hàng đầu thế giới. Do tính chất nghiêm ngặt của luật pháp Mỹ nên để kinh doanh thành công trên thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu các công cụ chính sách thương mại của Mỹ, nắm vững các đạo luật về bảo vệ môi trường, luật chống độc quyền, luật chống phá giá, luật thuế bù giá, luật về trách nhiệm sản phẩm, luật về nhãn hiệu hàng hóa và phát minh sáng chế …Mặc dù hàng hoá của Việt Nam được hưởng mức thuế suất theo qui chế quan hệ thương mại thông thường (NTR), nhưng việc thâm nhập thị trường Mỹ gặp khó khăn bởi những trở ngại phi thuế quan khác, ví dụ như việc cấp hạn ngạch đối với hàng may mặc xuất khẩu Việt Nam. Cùng với sự cải thiện tốt đẹp về quan hệ Việt-Mỹ trên thì phía Mỹ đưa ra đạo luật làm ảnh hưởng xấu tới Việt Nam và có thể nói là can thiệp thô bạo vào công việc nội bộ của Việt Nam như là: “Đạo luật nhân quyền Việt Nam” đã được hạ nghị viện Mỹ thông qua. Không những vậy một số nghị sỹ Mỹ đã yêu cầu áp dụng luật chống phá giá và nhãn mác của nước xuất xứ đối với hàng hóa Việt Nam. +Về thuế quan của Mỹ là hệ thống thuế quan điều hòa. Hầu hết thuế quan của Mỹ là thuế tính theo giá trị với tỷ lệ giao động từ dưới 1% đến gần 40% (Mức thuế này thường cao hơn đối với hàng may mặc ). +Về qui chế tối huệ quốc (MFN), gần như tất cả các bạn hàng buôn bán của Mỹ đều được qui chế này. Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu thuế cao hơn, với qui định này, khi xuất khẩu hàng hóa sang Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam (khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Mỹ. Ngoài ra, Mỹ còn áp dụng một số trường hợp ưu đãi thuế đặc biệt như không đánh thuế đối với các loại phụ tùng được sản xuất ở Mỹ. +Về giá trị khai báo hải quan, Mỹ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức thương mại thế giới (WTO) để bảo vệ công ty Mỹ trước các hoạt động không bình đẳng (luật thuế đối kháng và luật thuế chống phá giá). +Về các công cụ phi thuế quan, đó là tiêu chuẩn sản phẩm, sở hữu trí tuệ và một số biện pháp khác để có lợi cho họ nhất. +Về lĩnh vực may mặc: Để thực hiện luật xác định sản phẩm dệt, ngoài các qui định có sẵn trong luật, các thông tin sau phải được ghi trên hóa đơn thương mại của chuyến hàng sợi dệt có trị giá trên 500 USD và hàng đó phải theo qui định về nhãn hàng hóa của luật này: . Chất liệu sợi hoặc tổng hợp các sợi, xác định theo tên chủng loại mỗi loại sợi thiên hoặc sợi nhân tạo theo thứ tự tỷ lệ trọng lượng từ thấp đến cao nếu loại sợi đó có trọng lượng từ 5% hoặc hơn trong tổng sản lượng sản phẩm đó . Tỷ lệ trọng lượng của mỗi loại sợi có trong sản phẩm . Tên hoặc đặc điểm nhận dạng khác của nhà sản xuất hoặc của một hay nhiều người phụ trách tiếp thị hoặc điều hành sản phẩm sợi dệt đã được đăng kí tại ủy ban thương mại của Hoa Kỳ. .Tên quốc gia gia công hay sản xuất sản phẩm. .Sản phẩm len có quy định riêng về nhãn hàng hóa sản phẩm len * Riêng nhãn hàng hóa sản phẩm len theo luật này bao gồm: -Tỷ lệ trọng lượng của tổng các sợi có trong sản phẩm len (không kể trọng lượng của các vật trang trí ) không quá 5% tổng trọng lượng sợi của: a.len, b.len tái chế, c.mỗi loại sợi nếu tỷ lệ trọng lượng sợi đó bằng hoặc lớn hơn 5% và d/tổng trọng lượng của các loại sợi khác. -Tỷ lệ trọng lượng tối đa của sản phẩm len, của các chất liệu không phải sợi. -Tên của nhà xuất khẩu: Khi sản phẩm len có giá trị đến trên 500 USD và thuộc quy định của luật này thì bắt buộc phải ghi tên nhà sản xuất. .Tất cả các hóa đơn nhập khẩu hàng dệt sợi vào Hoa Kỳ phải có thông tin về: trọng lượng sợi, sợi đơn hay sợi khác, sợi có dùng cho bán lẻ không, sợi có làm chỉ may không. Nếu trọng lượng của sợi chủ yếu là tơ thì hóa đơn phải ghi rõ tơ đó được xe lại hay là tơ sợi nhỏ. Luật xác định sản phẩm sợi dệt và luật về nhãn hiệu sản phẩm bằng len cũng qui định chi tiết về loại nhãn hàng hóa, cách thức gắn nhãn, vị trí của nhãn trên sản phẩm và nhãn trên bao bì. .Luật xác định sản phẩm sợi dệt và luật về nhãn hiệu sản phẩm bằng len, luật này cũng qui định chi tiết về loại nhãn hàng hóa, cách thức gắn nhãn, vị trí của nhãn trên sản phẩm và nhãn trên bao bì. .Trừ một vài trường hợp ngoại lệ, tất cả các sản phẩm sợi dệt khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải được đóng dấu, niêm phong ghi nhãn và đồng thời ghi lại cụ thể những gì do luật định. (Hầu hết các sản phẩm hàng may mặc nhập khẩu vào Hoa Kỳ đều phải tuân thủ các quy định của luật về sản phẩm dệt dễ cháy). Với chính sách trên, Hoa Kỳ càng thể hiện rõ ràng hơn về quyền muốn bá chủ thế giới của họ. Bởi hầu hết các chính sách kinh tế, chính trị (vĩ mô hay vi mô ) đều đem lại cho họ những lợi thế nhất. 3.Sức mua người tiêu dùng Trong thập kỷ gần đây, Mỹ khảng định vị thế về một thị trường lớn nhất thế giới, trong đó mức chi tiêu cho hàng hóa cá nhân ngày càng tăng và tất nhiên hàng may mặc là một trong những mặt hàng tiêu dùng cao. Bảng2 :Xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam sang Hoa Kỳ (triệu USD)  1994  1995  1996  1997  1998  1999  2000   Hàng dệt  0,11  1,78  3,9  5,326  5,053  5,83  6,212   Hàng may mặc  2,45  15,09  20,01  20,602  21,347  28,97  31,253   Tổng  2,56  16,87  23,6  25,928  26,4  34,7  37,465   Tốc độ tăng trởng (%)   5,9  39,9  9,75  1,97  31,44  7,95   Nguồn: Bộ khoa học Mỹ: Hướng dẫn hội thảo khoa học-Hiệp định thương mại Việt-Mỹ ( trang 108/năm 2001). Qua số liệu trên chúng ta thấy sức tiêu thụ hàng may mặc trên thị trường Mỹ là rất lớn, nhưng con số xuất khẩu hàng may mặc của Việt Nam là khiêm tốn. Tất nhiên không phải bất cứ loại hàng hóa may mặc nào cũng được người dân Mỹ chấp nhận, việc mua sắm hàng hóa phụ thuộc khá nhiều vào sở thích và thị hiếu của họ và đặc biệt là các mặt hàng hợp thời trang, hợp công việc của họ, và dự kiến hàng may mặc Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này khoảng 70-80 triệu USD vào năm 2001. 4.Hệ thống phân phối ở thị trường Mỹ *Những cơ quan quản lý liên quan tới hoạt động xuất khẩu hàng may mặc sang thị trường Mỹ Chính sách thương mại về hàng may mặc của Mỹ do một bộ phận chuyên trách của chính phủ đảm nhiệm ban hành USTR (tổng thống đại diện thương mại Mỹ- US Trade Representative). Mặc dù Tổng thống là người có quyền ban hành chính sách nhưng USTR là cơ quan đứng đầu trong việc trình Tổng thống những vấn đề có liên quan tới thương mại nói chung cũng như các cuộc đàm phán thương mại quốc tế nói riêng. Uỷ ban về thực thi các hiệp định may mặc của Mỹ - CITA. Đây là cơ quan thực hiện các chương trình điều tiết nhập khẩu thường nhật của Mỹ. Đây là một cơ quan liên ngành bao gồm: đại diện của USTR chịu trách nhiệm về đàm phán và chính sách thương mại; Bộ thương mại Mỹ giải quyết các vấn đề liên quan tới các quyền lợi thương mại, tác động của thương mại tới sự bền vững của nền kinh tế cũng như mức độ cạnh tranh giữa các ngành của Mỹ. Phòng thương mại hàng may mặc – OTEXA là cơ quan trung tâm chịu trách nhiệm về điều tiết thương mại và kiểm soát chủng loại hàng may mặc của các quốc gia. Quốc hội Mỹ ban hành các vấn đề pháp lý liên quan tới thương mại. Các thành viên của ban này thường từ các bang sản xuất nhiều sản phẩm may mặc và họ đưa ra các đề xuất cho một chính sách thương mại phù hợp. Hải quan Mỹ chịu trách nhiệm điều tiết dòng vận động vật lý của hàng may mặc và thu thuế, nhãn mác, và các điều kiện về nguồn gốc cũng như kiểm nghiệm tiêu chuẩn chống cháy của sản phẩm. Uỷ ban đảm bảo an toàn sản phẩm cho người tiêu dùng CPSC chịu trách nhiệm quản lý hàng nhập khẩu và kiểm tra xem có phù hợp với các điều kiện chống cháy của sản phẩm. Hội đồng thương mại liên bang FTC quản lý những vấn đề liên quan tới nhãn hiệu hàng len dạ WPLA. Bởi vì luật nhập khẩu vào Mỹ khá rườm rà và phức tạp, nên hầu hết các mặt hàng may mặc xuất khẩu sang Mỹ đều phải qua các nước như Tây Âu, Singapo, Hồng Kông. Do đó phần lớn hàng may mặc được nhập khẩu vào thị trường Mỹ đều được phân phối đến người tiêu dùng qua các đại lí của chính các công ty xuất khẩu trên đất Mỹ, hoặc số lượng hàng hóa nhập khẩu sẽ qua tay các công ty xuyên quốc gia, hay các hãn
Luận văn liên quan