Đề án Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện

Xây dựng một các ngành kinh tế hợp lý, hiệu quả cao là vấn đề hết sức quan trọng để nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với yêu cầu và bước đi trong tiến trình hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới là một trong những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước do Đai hội lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đề ra. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 ở nước ta có cơ cấu GDP theo ngành là: tỷ trọng nông nghiệp khoảng 20-21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 40-41%, tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 41-42%. Để đạt được mục tiêu đề ra trên đây, góp phần thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mỗi nhóm ngành phải đạt tốc độ tăng trưởng: nông nghiệp khoảng 4,3%, công nghiệp và xây dựng 10,8%, dịch vụ 6,2%; tăng trưởng GDP bình quân 7,5%. Trong những năm qua cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, mang tính tự phát, chưa thật sự chủ động, còn nhiều bấp bênh, rủi ro; hiệu quả sản xuất thấp dẫn đến không đạt được kế hoạch tăng trưởng kinh tế đề ra. Nó là vấn đề bức xúc nhất hiện nay, đang là vấn đề trung tâm trong các cuộc nghiên cứu,thảo luận của Quốc hội và Chính phủ. Ngày nay, thế giới có những biến đổi sâu sắc, ngày càng nhiều những biến động khó lường, nhiều yếi tố tác động đến sự phát triển kinh tế. Đề án nghiên cứu theo phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành một cách chủ động, linh hoạt phù hợp với những biến động của trong và ngoài nước. Đề án nghiên cứu "Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện".

doc48 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2156 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở đầu Xây dựng một các ngành kinh tế hợp lý, hiệu quả cao là vấn đề hết sức quan trọng để nền kinh tế phát triển với tốc độ cao và bền vững. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phù hợp với yêu cầu và bước đi trong tiến trình hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới là một trong những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới nền kinh tế đất nước do Đai hội lần thứ VII, VIII và IX của Đảng đề ra. Mục tiêu phấn đấu đến năm 2005 ở nước ta có cơ cấu GDP theo ngành là: tỷ trọng nông nghiệp khoảng 20-21%, tỷ trọng công nghiệp và xây dựng khoảng 40-41%, tỷ trọng các ngành dịch vụ khoảng 41-42%. Để đạt được mục tiêu đề ra trên đây, góp phần thực hiện chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá; mỗi nhóm ngành phải đạt tốc độ tăng trưởng: nông nghiệp khoảng 4,3%, công nghiệp và xây dựng 10,8%, dịch vụ 6,2%; tăng trưởng GDP bình quân 7,5%. Trong những năm qua cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, mang tính tự phát, chưa thật sự chủ động, còn nhiều bấp bênh, rủi ro; hiệu quả sản xuất thấp dẫn đến không đạt được kế hoạch tăng trưởng kinh tế đề ra. Nó là vấn đề bức xúc nhất hiện nay, đang là vấn đề trung tâm trong các cuộc nghiên cứu,thảo luận của Quốc hội và Chính phủ. Ngày nay, thế giới có những biến đổi sâu sắc, ngày càng nhiều những biến động khó lường, nhiều yếi tố tác động đến sự phát triển kinh tế. Đề án nghiên cứu theo phương hướng chuyển dịch cơ cấu ngành một cách chủ động, linh hoạt phù hợp với những biến động của trong và ngoài nước. Đề án nghiên cứu "Kế hoạch hoá chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế thời kỳ 2001-2005 ở Việt Nam và các giải pháp thực hiện". Em xin chân thành cảm ơn đã nhiệt tình giúp đỡ em nghiên cứu hoàn thành đề án này. mặc dù đã hết sức cố gắng trong qúa trình nghiên cứu, nhưng do trình độ, kinh nghiệm còn hạn chế và thời gian ngắn chưa nghiên cứu được sâu sắc vấn đề nên bài viết không tránh khỏi những hạn chế và thiếu sót. Mong được sự góp ý của các thầy, các cô và bạn bè để em có thể hiểu sâu sắc hơn vấn đề. Chương I Một số vấn đề lý luận về sự chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế I. Cơ cấu kinh tế và phân loại cơ cấu kinh tế 1. Khái niệm cơ cấu kinh tế Trong các tài liệu kinh tế có nhiều cách tiếp cận khác nhau về khái niệm cơ cấu kinh tế. Các cách tiếp cận này thường bắt đầu từ khái niệm “cơ cấu”. Là một phạm trù triết học, khái niệm cơ cấu được sử dụng để biểu thị cấu trúc bên trong, tỷ lệ và mối quan hệ giữa các bộ phận hợp thành của một hệ thống. Cơ cấu được biểu hiện như là những mối quan hệ liên kết hữu cơ, các yếu tố khác nhau của một hệ thống nhất định. Cơ cấu là thuộc tính của một hệ thống. Do đó, khi nghiên cứu cơ cấu phải đứng trên quan điểm hệ thống. Đứng trên quan điểm duy vật biện chứng và lý thuyết hệ thống có thể hiểu: cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có những mối liên hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về số lượng và chất lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế-xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào những mục tiêu nhất định. Theo quan điểm này, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội. Một cách tiếp cận khác thì cho rằng: cơ cấu kinh tế hiểu một cách đầy đủ là một tổng thể hệ thống kinh tế bao gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau trong những không gian và thời gian nhất định, trong những điều kiện kinh tế - xã hội nhất định, được thể hiện cả về mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng lẫn chất lượng, phù hợp với mục tiêu được xác định của nền kinh tế. Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất chủ yếu của cơ cấu kinh tế. Đó là các vấn đề: - Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố câú thành hệ thống kinh tế của một quốc gia. - Số lượng và tỷ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước. - Các mối quan hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố...hướng vào các mục tiêu đã xác định. Cơ cấu kinh tế còn là một phạm trù trừu tượng; muốn nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế và thực thi các giải pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân. 2. Phân loại cơ cấu kinh tế 2.1. Cơ cấu ngành kinh tế Trong bàI viết chú trọng nghiên cứu cơ cấu ngành kinh tế. Cơ cấu ngành của nền kinh tế là tập hợp tất cả các ngành hình thành lên nền kinh tế và các mối quan hệ tương đối ổn định giữa chúng. Các chỉ tiêu đánh giá: - Loại chỉ tiêu dịnh lượng thứ nhất:tỷ trọng các ngành so với tổng thể các ngành của nền kinh tế. - Chỉ tiêu định lượng thứ hai:Có thể mô tả được phần nào mối quan hệ tác động qua lại giữa các ngành kinh tế, đó là các hệ số trong bảng can đối liên ngành (của hệ MPS) hay bảng Vào- Ra (I/O)(của hệ SNA). Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao động xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là nét đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo 3 nhóm ngành (khu vực): + Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. + Nhóm ngành công nghiệp:bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng. + Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm các ngành thương mại, bưu điện, du lịch... Trong công nghiệp cần chú ý đến các hệ số liên hệ phía “thượng nguồn” và các hệ số liên hệ phía “hạ nguồn”. * Các ngành công nghiệp “thượng nguồn”:là những ngành công nghiệp tạo nguyên liệu và sản phẩm trung gian, đòi hỏi vốn đầu tư cao và công nghệ cơ bản, công nghệ cao. * Các ngành công nghiệp “hạ nguồn”:là những ngành công nghiệp sản xuất ra sản phẩm cuối cùng cho tiêu dùng, thường đòi hỏi vốn đầu tư ít, sử dụng nhiều lao động, có thể có quy mô sản xuất vừa và nhỏ. Những ngành công nghiệp thượng nguồn và hạ nguồn nêu trên có mối quan hệ dọc rất chặt chẽ. Trong một chuyên ngành nhất định có thể có một hình thức tổ chức khép kín từ công nghiệp thượng nguồn đến hạ nguồn của một quốc gia hay theo sự phân công lao động quốc tế (theo thương mại hay hợp đồng gia công) giữa các quốc gia. 2.2. Cơ cấu lãnh thổ Nếu cơ cấu kinh tế hình thành từ sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản suất thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu lãnh thổ và cơ cấu địa lý thực chất là hai mặt của một thể thống nhất và đều là sự biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhát trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu hướng phát triển kinh tế lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có ưu tiên một vài ngành và gắn liền sự hình thành phân bổ dân cư phù hựp với các đIều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triể có hiệu quả của các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước, phù hợp với đặc đIểm tự nhiên ngành kinh tế xã hội, phong tục tập quángành truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó. 2.3. Cơ cấu thành phần kinh tế Nếu như phân công lao động xã hội đã là cơ sở hình thành cơ cấu ngành và cơ cấu lãnh thổ, thì chế độ sở hữu là cơ sở hình thành cơ cấu thành phần kinh tế. Một cơ cấu thành phần kinh tế hợp lý pháI dựa trên cơ sở hệ thống tổ chức kinh tế với chế độ sở hữu có khả năng thúc đẩy sự phats triển của lực lượng sản xuất, thúc đấy phân công lao động xã hội...Theo nghĩa đó, cơ cấu thành phần kinh tế cũng là một nhân tố tác động đến cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. Sự tác động đó là một biểu hiện sinh động của mối quan hệ giữa các loạI cơ cấu trong nền kinh tế. Ba bộ phận cơ bản hợp thành cơ cấu kinh tế là cơ cấu ngành kinh tế, cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu lãnh thổ có quan hệ chặt chễ với nhau. Trong đó cơ cấu ngành kinh tế có vai trò quan trọng hơn cả. Cơ cấu ngành và thành phần kinh tế chỉ có thể được chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ và trên phạm vi cả nước. Mặt khác, việc phân bố không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ. II. Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 1. Khái niệm chuyển dịch cơ cấu kinh tế Khái niệm: Sự thay đổi của cơ cấu kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển được coi là sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. * Khái niệm chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là quá trình chuyển cơ cấu ngành kinh tế từ dạng này sang dạng khác phù hợp với trình độ phát triển của phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất và các nhu cầu về kinh tế-xã hội của đất nước. Chuyển dịch cơ cấu đem tính khách quan thông qua thông qua những nhận thức chủ quan của con người, trong quá trình chuyển dịch cơ cấu đã hình thành các khái niệm: - Điều chỉnh cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số mặt, một số yéu tố cơ cấu, làm cho nó thích ứng với điều kiện khách quan từng thời kỳ không tạo ra sự thay đổi đột biến, tức thời. - CảI tổ cơ cấu:Đó là quá trình chuyển dịch cơ cấu cơ cấu trên cơ sở thay đổi một số mặt bản chất so với thực trạng cơ cấu ban đầu, nhanh chóng tạo ra sự đột biến. Cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu ngành kinh tế nói riêng luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số lượng các ngành hoặc sự thay đổi tỷ lệ giữa các ngành do sự xuất hiện hoặc sự biến mất của một số ngành và và sự tăng trưởng giữa các yếu tố cấu thành là không đồng đều. Đây không chỉ đơn thuần là sự thay đổi vị trí, mà còn là sự biến đổi cả về lượng và chất trong nội bộ cơ cấu. Việc chuyển dịch cơ cấu ngành phải dựa trên cơ sở một cơ cấu hiện có, do đó nội dung của chuyển dịch cơ cấu là cảI tạo cơ cấu cũ lạc hậu hoặc chưa phù hợp để xây dựng cơ cấu mới tiên tiến, hoàn thhiện và bổ sung cơ cấu cũ nhằm biến cơ cấu cũ thành cơ cấu mới hiện đại và phù hợp hơn. 2. Sự cần thiết chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Cơ cấu ngành kinh tế luôn luôn biến đổi cùng với qúa trình phát triển của nền kinh tế. Mỗi thời kỳ, với những điều kiện cụ thể các ngành kinh tế tăng trưởng với tốc độ khác nhau dẫn đến cơ cấu ngành thay đổi. Các điều kiện này vừa có những tác động tích cực vừa có tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, cần chủ động chuyển dịch cơ cấu ngành phát huy những thuận lợi và hạn chế những khó khăn do điều kiện hiện tại đặt ra để thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh và bền vững là vấn đề dặt ra đối với tất cả các quốc gia ở tất cả các giai đoạn phát triển. 3. Những lý luận cơ bản về chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế 3.1. Những yếu tố cơ bản có liên quan đến xu thế phát triển kinh tế của đất nước a. Quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel Ngay từ đầu thế kỷ 19, nhà kinh tế học người Đức E.Engel đã nhận thấy rằng khi thu nhập của gia đình tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu của họ cho lương thực, thực phẩm giảm đi. Do chức năng chính của khu vực nông nghiệp là sản xuất lương thực, thực phẩm nên có thể suy ra là tỷ tọng nông nghiệp trong toàn bộ nền kinh tế sẽ giảm đi khi thu nhập tăng lên. Quy luật của E.Engel được phát hiện cho tiêu dùng lương thực, thực phẩm nhưng nó có ý nghĩa quan trọng trong việc định hướng cho việc nghiên cứu tiêu dùng các loại sản phẩm khác. Các nhà kinh tế học gọi lương thực, thực phẩm là các sản phẩm thiết yếu, hàng công nghiệp là sản phẩm tiêu dùng lâu bền, và việc cung cấp dịch vụ là sự tiêu dùng cao cấp. Qua qúa trình nghiên cứu, họ phát hiện ra xu hướng chung là khi thu nhập tăng lên thì tỷ lệ chi tiêu cho hàng tiêu dùng lâu bền tăng phù hợp với tăng thu nhập, còn chi tiêu cho tiêu dùng cao cấp tăngnhanh hơn tốc độ tăng thu nhập. Như vậy, quy luật tiêu thụ sản phẩm của E.Engel đã làm rõ tính xu hướng của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong qúa trình phát triển. b. Quy luật tăng năng suất lao động của A.Fisher Năm 1935, trong cuốn “Các quan hệ kinh tế của tiến bộ kỹ thuật”, A. Fisher đã giới thiệu kháI niệm việc làm ở khu vực thứ nhất, thứ hai, thứ ba. A. Fisher quan sát thấy rằng, các nước có thể phân theo tỷ lệ phân phối tổng lao động của từng nước vào ba khu vực. Khu vực thứ nhất bao gồm sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp và theo một số quan điểm còn bao gồm cả khai thác mỏ. Khu vực thứ hai bao gồm công nghiệp chế biến và xây dựng. Khu vực thứ ba gồm có vận tải, thông tin, thương nghiệp, dịch vụ nhà nước, dịch vụ tư nhân. Theo A.Fisher, tiến bộ kỹ thuật đã có tác động đến sự phân bố lao động vào ba khu vực này. Trong qúa trình phát triển, việc tăng cường sử dụng máy móc và các phương thức canh tác mới đã tạo điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất lao động. Kết quả là, để bảo đảm lượng lương thực, thực phẩm cần thiết cho xã hội thì không cần đến lượng lao động như cũ và do vậy, tỷ lệ của lực lượng lao động trong nông nghiệp giảm. Dựa vào số liệu thống kê thu thập được, A. Fisher cho rằng tỷ lệ giảm này có thể giảm từ 80% đối với các ngành chậm phát triển nhất xuóng 11-12 % ở các nước công nghiệp phát triển và trong điều kiện đặc biệt có thể xuống tới 5%. Ngược lại, tỷ lệ lao động được thu hút vào khu vực thứ hai và khu vực thứ ba ngày càng tăng do tính co giãn về nhu cầu sản phẩm của hai khu vực này và khả năng hạn chế hơn của viẹc áp dụng tiến bộ kỹ thuật, đặc biệt là đối với khu vực thứ ba. c. Vai trò của khoa học vai trò nghệ trong thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu Khoa học và công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong qúa trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nhất là trong bối cảnh hiện nay khi mà nền kinh tế thế giới đang chuyển từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tri thức. Sự phát triển của khoa học và công nghệ không chỉ đẩy nhanh tốc độ phát triển của các ngành mà còn làm phân công lao động xã hội trở nên sâu sắc và đưa đến sự phân chia các ngành thành nhiều ngành nhỏ hơn, xuất hiện nhiều ngành, nhiều lĩnh vực kinh tế mới, từ đó làm thay đổi cơ cấu, vị trí giữa các ngành, hay thúc đẩy các ngành chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng: + Các ngành sản xuất vật chất (nông nghiệp, công nghiệp)đều tăng lên về sản lượng tuyệt đối, nhưng về tỷ trọng trong GDP so với các ngành sản xuất phi vật chất (dịch vụ) lại giảm tương đối. + Cơ cấu kinh tế trong, nội bộ mỗi ngành cũng biến đổi theo hướng ngày càng tăng mạnh quy mô sản xuất ở các ngành có hàm lượng kỹ thuật, công nghệ cao. d. Xu thế kinh tế thế giới * Xu thế hoà bình hợp tác Nhìn tổng quát, có thể dự báo xu thế hoà bình hợp tác phát triển trên thế giới và khu vực tiếp tục gia tăng đi đôi với những cọ sát đấu tranh, cạnh tranh ngày càng gay gắt, có thể có những bùng nổ khó lường. Các nước lớn, các trung tâm phát triển lớn đang và sẽ giằng co, tranh giành ảnh hưởng, lấn át kinh tế đối với các nước khác. Bên cạnh đó, trình độ phát triển ngày càng cao của lực lượng sản xuất cũng như kinh tế nói chung của thế giới đã tạo ra những cơ hội hợp tác, hội nhập để khai thác các nguồn lực quốc tế phục vụ cho nhu cầu phát triển quốc gia. Mỗi nước với trình độ phát triển khác nhau đều tìm thấy lợi thế của mình qua các quan hệ kinh tế quốc tế và có thể tham gia opj tác phát triển dưói nhiều hình thức. * Tác động của cách mạng khoa học và công nghệ Trong thế kỷ XXI, với dự báo cách mạng khoa học và công nghệ sẽ có những nhảy vọt khó lường, yêu cầu mới và cũng là khả năng mới trong điều kiện nhân loại đang bứoc vào nền kinh tế tri thức. Trong điều kiện đó, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phải triển khai theo tư duy mới, phù hợp với giai đoạn mới. Việt Nam có những lới thế so sánh về tài nguyên thiên nhiên và dồi dào về nguồn nhân lực, nếu được phát huy sẽ là nhân tố tích cực để tiếp nhận khoa học và công nghệ gây dựng năng lực nội sinh. * Toàn cầu hoá và khu vực hoá Là xu thế khác quan ngày càng tác động mạnh, thậm chí chi phối phát triển kinh tế của các nước. Trong bối cảnh đó, chúng ta cần thấy hết mặt tích cực, thuận lợi, cả mặt tiêu cực, khó khăngành thách thức và có chiến lược thích ứng và lợi dụng qúa trình này có hiệu quả nhất. Dòng vốn Đầu tư trực tiếp nước ngoài(FDI) đến các nước đang phát triển: Từ những năm đầu của thạp kỷ 90, toàn cầu hoá và khu vực hoá đã tạo điều kiện cho các dòng vốn FDI đến với các nền kinh tế đang phát triển. Nguồn vốn này tăng liên tục qua các năm, tuy có suy giảm do tác động của khủng hoảng kinh tế năm 97. Dòng vốn hỗ trợ chính thức với các điều kiện ưu đãi (ODA) đến các nước đang phát triển có xu hướng giảm dần. Quốc tế hoá thương mại, vốn và sản xuất. Bốn mươi năm qua kim ngạch thương mại hàng hoá của toàn thế giới đã tăng 6%/năm trong khi đó sản xuất hàng hoá chỉ tăng 3,7%. Mức độ mở cửa của các nước tăng. Sau thương mại vốn đầu tư cũng đã nhanh chóng được quốc tế hoá. Cạnh tranh thương mại và thu hút đầu tư trên thế giới diễn ra ngày càng mạnh mẽ. 3.2. Các lý thuyết phát triển Với tư các là loạI lý thuyết chủ yếu nghiên cứu các con đường hay các mô hình phát triển kinh tế của các nước chạm phát triển hiện đang nỗ lực tiến hành công nghiệp hoá, các lý thuyết phát triển trực tiếp hoặc gián tiếp đều bàn tới một trong những nội dung cơ bản nhất của công nghiệp hoá là chuyển dịch cơ cấu ngành. Song, do bản thân thế giới chậm phát triển bao gồm nhiều quốc gia với các đặc đIểm đặc thù khác nhau, do xuất phát từ các quan điểm và các góc độ nghiên cứu khác nhau nên cách giảI quyết vấn đề chuyển dịch cơ cấu ngành trong qúa trình công nghiệp hoá của các loạI lý thuyết phát triển cũng rất khác nhau. Có thể thấy đIều này qua một số lý thuyết phát triển chủ yếu sau. a. Lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế Tư tưởng cơ bản của người chủ xưởng lý thuyết này Walt Rostow cho rằng, qúa trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào cũng đều trảI qua 5 giai đoạn tuần tự như sau: 1/ Xã hội truyền thống: Với đặc trưng là nông nghiệp giữ vai trò thống trị trong đời sống kinh tế, năng suất lao động thấp và xã hội kém linh hoạt. 2/ Giai đoạn chuẩn bị cất cánh: Với những thay đổi quan trọng là trong xã hội đã xuất hiện tầng lớp chủ xí nghiệp có khả năng đổi mới, kết cấu hạ tầng sản xuất, nhất là giao thông đã phát triển. Bắt đầu hình thành những khu vực đầu tầu có tác động lôI kéo nền kinh tế phát triển. 3/ Giai đoạn cất cánh: với những dấu hiệu quan trọng như tỷ lệ đầu tư so với thu nhập quốc dân đạt mức 10%, xuất hiện những ngành công nghiệp chế biến có tốc độ tăng trưởng cao, có những chuyển biến mạnh mẽ trong thể chế xã hoọi, thuận lợi cho sự phát triển của khu vực sản xuất hiện đai và kinh tế đối ngoại. 4/ Giai đoạn chuyển tới sự chín muồi kinh tế là giai đoạn mà tỷ lệ đầu tư trên thu nhập quốc dân đạt mức cao(từ 10-20%) và xuất hiện nhiều cực tăng trưởng mới. 5/ Kỷ nguyên tiêu dùng hàng loạt:là giai đoạn kinh tế phát triển cao, sản xuất đa dạng hoá, thị trường linh hoạt và có hiện tượng suy giảm nhịp độ tăng trưởng. Theo lý thuyết phân kỳ phát triển này hầu hết các nước đang phát triển đang tiến hànhcông nghiệp hoá hiện nay nằm ở giai đoạn 2và 3, tuỳ theo mức độ phát triển của từng nước. NgoàI những dấu hiệu kinh tế - xã hội khác, về mặt cơ cấu,phải bắt đầu hình thành một số ngành công nghiệp chế biến có khả năng lôi kéo toàn bộ nền kinh tế tăng trưởng. Đồng thời, cùng với sự chuyển tiếp từ giai đoạn 2 sang 3 là sự thay đổi của những lĩnh vực đóng vai trò đầu tàu. Nghĩa là trong chính sách cơ cấu cần xét đến trật tự ưu tiên phát triển những lĩnh vực có thể đảm trách vai trò đó qua mỗi giai đoạn phát triển cụ thể. Do tiếp cận vấn đề góc độ khái quát lịch sử của nhiều nước, lý thuyết phân kỳ phát triển kinh tế không mô tả sâu những khía cạnh đặc thù của từng nước hay từng nhóm nước, song những nhận xét khái quát chung ấy có thể xem như những gợi ý rất có ý nghĩa đối vấn đề chuyển dịch cơ cấu trong qúa trình công nghiệp hoá của từng nước đang phát triển hiện nay. b. Lý thuyết nhị nguyên Lý thuyết nhị nguyên do A. Lewis (giải thưởng Nobel năm 1979) khởi xướng, tiếp cận vấn đề từ đời số
Luận văn liên quan