Đề án Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế & mối quan hệ với công ty cổ phần

Trong vòng 10 năm (1988-1998) thực hiện đường lối của Đảng, kiên trì phương châm chiến lược: coi trọng hợp tác quốc tế theo xu thế hội nhập, khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, tranh thủ mọi khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực từ bên ngoài, bao gồm cả vốn, công nghệ, thị trường và trình độ quản lý. Việt nam đã thu hút được hơn 2400 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn gần 36 tỷ USD, trong đó có khoảng 13 tỷ USD đã được thực hiện (chiếm gần 90% tổng vốn đăng kỳ) Cùng với các nguồn tài trợ khác, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thực (ODA) và đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) thật sự đang là một nguồn lực tài chính quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước, góp phần cho mức tăng trưởng GDP trong những năm qua đạt trên 8% giải quyết việc làm cho hơn 27 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn khẳng định nguồn lực trong nước mới là nhân tố quyết định cho quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững. Nguồn lực nội sinh là một khái niệm rất rộng, là tổng hợp toàn bộ các nguồn lực trong nước, không chỉ có ở vốn tài sản cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích luỹ được mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, lợi thế về địa lý kinh tế, chính trị, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thầy gắn với truyền thống văn hoá của dân tộc. Thời gian qua, bằng một loạt các giải pháp đồng bộ đổi mới, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách, cơ chế môi trường sản xuất kinh doanh, nguồn lực của đất nước đã có sự khởi động và bước đầu phát huy tác dụng. Thế nhưng hiệu quả đạt được còn chưa lớn, nhiều tiềm năng còn bị lãng phí. Việc huy động nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư tăng trưởng còn chưa như mong muốn. Ước tính còn có 5-6 tỷ USD vốn nhà rỗi trong dân cư nhưng việc huy động vẫn gặp khó khăn, vì nhân dân còn e ngại, các cơ chế, chính sách còn có trói buộc và nhất là chưa xây dựng được mô hình huy động vốn hợp lý. Một trong các nguồn lực nội sinh nữa còn để lãng phí là nguồn lực lao động, nguồn lực trí tuệ, đặc biệt là của đội ngũ trí thức, dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám" mà chưa có một giải pháp nào khắc phục hữu hiệu. Những hạn chế này trong việc phát huy nguồn lực nội sinh sẽ là nguyên nhân làm suy giảm dòng chaỷ đầu tư từ nước ngoài vào nước ta, gây khó khăn cho nền kinh tế . Trước những thách thức về khủng hoảng kinh tế khu vực và trên thế giới, việc giải quyết những nhược điểm trên đây trong chính sách vĩ mô về phát huy nội lực nền kinh tế sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới. Từ thực tế nền kinh tế của một số quốc gia trong khu vực Đông năm á như Thái lan, Indonêxia, Malaisia, Philipin. nhiều nhà kinh tế phải thừa nhận rằng: Thị trường chứng khoán là một trong những tác nhân làm cho tình trạng khủng hoảng kinh tế thêm trầm trọng. Và do vậy, không chỉ có người dân cảm thấy lo ngại khi đầu tư vào chứng khoán, mà chính các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán cũng không thật sự an tâm. Tuy nhiên, cũng chính thực tế của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cho thấy, họ đã đạt được những bước tiến đáng kể sau khi xây dựng thành công thị trường chứng khoán. Trong sự chuyển động của nền kinh tế Việt Nam theo xu hướng đổi mới, thông qua các hoạt động đa dạng của nó, thị trường chứng khoán Việt nam sẽ được hình thành và đi vào hoạt động trong thời gian tới. Nó sẽ không chỉ phát huy được nội lực của nền kinh tế mà còn thu hút mạnh mẽ hơn các nguồn vốn đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" như lời chủ tịch Hồ chí Minh đã nói. Điều này cho thấy, sự thành lập thị trường chứng khoán (TTCK) ở Việt nam là thực sự quan trọng và rất cần thiết; nó cho thấy rằng, Đảng và chính phủ ta đã có những chủ trương và đường lối hoàn toàn đúng đắn. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và hiểu biết về TTCK là rất cần thiết đối với chúng ta (những nhà kinh tế tương lai). TTCK là một vấn đề rộng lớn và rất phức tạp, vì vậy trong phạm vi đề án này, tôi xin trình bày về "Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế và mối quan hệ với công ty cổ phần"

doc32 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2357 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề án Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế & mối quan hệ với công ty cổ phần, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỞ ĐẦU Trong vòng 10 năm (1988-1998) thực hiện đường lối của Đảng, kiên trì phương châm chiến lược: coi trọng hợp tác quốc tế theo xu thế hội nhập, khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế, tranh thủ mọi khả năng thu hút và sử dụng có hiệu quả hơn nữa các nguồn lực từ bên ngoài, bao gồm cả vốn, công nghệ, thị trường và trình độ quản lý. Việt nam đã thu hút được hơn 2400 dự án đầu tư nước ngoài với tổng số vốn gần 36 tỷ USD, trong đó có khoảng 13 tỷ USD đã được thực hiện (chiếm gần 90% tổng vốn đăng kỳ) Cùng với các nguồn tài trợ khác, nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thực (ODA) và đầu tư trực tiếp của nước ngoài (FDI) thật sự đang là một nguồn lực tài chính quan trọng thúc đẩy sự phát triển đất nước, góp phần cho mức tăng trưởng GDP trong những năm qua đạt trên 8% giải quyết việc làm cho hơn 27 vạn lao động trực tiếp và hàng chục vạn lao động gián tiếp. Tuy nhiên, Đảng và Nhà nước Việt Nam vẫn khẳng định nguồn lực trong nước mới là nhân tố quyết định cho quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững. Nguồn lực nội sinh là một khái niệm rất rộng, là tổng hợp toàn bộ các nguồn lực trong nước, không chỉ có ở vốn tài sản cơ sở vật chất - kỹ thuật đã tích luỹ được mà còn là tài nguyên chưa đưa vào sử dụng, lợi thế về địa lý kinh tế, chính trị, trong đó quan trọng nhất là nguồn lực con người bao gồm cả sức lao động, trí tuệ và tinh thầy gắn với truyền thống văn hoá của dân tộc. Thời gian qua, bằng một loạt các giải pháp đồng bộ đổi mới, điều chỉnh và hoàn thiện chính sách, cơ chế môi trường sản xuất kinh doanh, nguồn lực của đất nước đã có sự khởi động và bước đầu phát huy tác dụng. Thế nhưng hiệu quả đạt được còn chưa lớn, nhiều tiềm năng còn bị lãng phí. Việc huy động nguồn lực tài chính nhàn rỗi trong dân cư cho đầu tư tăng trưởng còn chưa như mong muốn. Ước tính còn có 5-6 tỷ USD vốn nhà rỗi trong dân cư nhưng việc huy động vẫn gặp khó khăn, vì nhân dân còn e ngại, các cơ chế, chính sách còn có trói buộc và nhất là chưa xây dựng được mô hình huy động vốn hợp lý. Một trong các nguồn lực nội sinh nữa còn để lãng phí là nguồn lực lao động, nguồn lực trí tuệ, đặc biệt là của đội ngũ trí thức, dẫn đến tình trạng "chảy máu chất xám" mà chưa có một giải pháp nào khắc phục hữu hiệu. Những hạn chế này trong việc phát huy nguồn lực nội sinh sẽ là nguyên nhân làm suy giảm dòng chaỷ đầu tư từ nước ngoài vào nước ta, gây khó khăn cho nền kinh tế . Trước những thách thức về khủng hoảng kinh tế khu vực và trên thế giới, việc giải quyết những nhược điểm trên đây trong chính sách vĩ mô về phát huy nội lực nền kinh tế sẽ có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa đất nước phát triển trong giai đoạn mới. Từ thực tế nền kinh tế của một số quốc gia trong khu vực Đông năm á như Thái lan, Indonêxia, Malaisia, Philipin... nhiều nhà kinh tế phải thừa nhận rằng: Thị trường chứng khoán là một trong những tác nhân làm cho tình trạng khủng hoảng kinh tế thêm trầm trọng. Và do vậy, không chỉ có người dân cảm thấy lo ngại khi đầu tư vào chứng khoán, mà chính các nhà đầu tư và kinh doanh chứng khoán cũng không thật sự an tâm. Tuy nhiên, cũng chính thực tế của nhiều quốc gia trong khu vực và trên thế giới, cho thấy, họ đã đạt được những bước tiến đáng kể sau khi xây dựng thành công thị trường chứng khoán. Trong sự chuyển động của nền kinh tế Việt Nam theo xu hướng đổi mới, thông qua các hoạt động đa dạng của nó, thị trường chứng khoán Việt nam sẽ được hình thành và đi vào hoạt động trong thời gian tới. Nó sẽ không chỉ phát huy được nội lực của nền kinh tế mà còn thu hút mạnh mẽ hơn các nguồn vốn đầu tư nước ngoài để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, làm cho "dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh" như lời chủ tịch Hồ chí Minh đã nói. Điều này cho thấy, sự thành lập thị trường chứng khoán (TTCK) ở Việt nam là thực sự quan trọng và rất cần thiết; nó cho thấy rằng, Đảng và chính phủ ta đã có những chủ trương và đường lối hoàn toàn đúng đắn. Chính vì vậy, việc tìm hiểu và hiểu biết về TTCK là rất cần thiết đối với chúng ta (những nhà kinh tế tương lai). TTCK là một vấn đề rộng lớn và rất phức tạp, vì vậy trong phạm vi đề án này, tôi xin trình bày về "Thị trường chứng khoán với phát triển kinh tế và mối quan hệ với công ty cổ phần" Mong muốn thì nhiều nhưng vì khả năng và trình độ có hạn cho nên ở tập đề án này sẽ không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Nhưng với trách nhiệm là một nhà kinh tế tương lai trước vận hội mới của đất nước, tôi mong muốn được tiếp tục nghiên cứu để có thêm những tri thức đúng đắn và hoàn thiện hơn nữa, góp phần nhỏ bé của mình trong sự nghiệp CNH- HĐH đất nước. Rất mong được bạn đọc gần xa góp ý kiến để đề án của tôi được hoàn thiện hơn. PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG I/ LỊCH SỬ HÌNH THÀNH THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VÀ CHỨNG KHOÁN 1. Thị trường chứng khoán trước công ty cổ phần. Vào khoảng thế kỷ thứ 15-16, với sự xuất hiện của ngành hàng hải, thương mại thế giới bước vào một kỷ nguyên phát triển dữ dội. Có thể nói đó là thế kỷ của thương mại, Frankfut ở nước Đức và Amstecdam thủ đô của Hà Lan, là hai thương cảng lớn nhất thời bấy giờ. Cũng chính tại đây người ta tụ tập nhau lại để buôn bán các chứng từ văn tự nợ (debenture). Trong buôn bán nợ nần lẫn nhau là chuyện phổ biến. Các chứng từ ghi nợ (debentủe) là những giấy tờ được coi là những giấy tờ có giá trị như tiền vâỵ. Các chứng từ nợ này lại được chia làm hai loại. Các kỳ phiếu (bill) và các hối phiếu (bill of exchange). Các kỳ phiếu là các giấy nợ có ghi kỳ hạn thanh toán mà con nợ phải trả cho chủ nợ một số tiền nhất định. Các hối phiếu là một lệnh trả mà con nợ yêu cầu một người thứ ba nào đó trả hộ mình một món nợ cho chủ nợ (có thể có kỳ hạn hoặc không có kỳ hạn thanh toán). Như vậy, kỳ phiếu ứng với loại thanh toán trực tiếp giữa chủ nợ và con nợ; hối phiếu ứng với loại thanh toán gián tiếp thông qua người thứ ba. Ví dụ, nếu bạn phải trả một món tiền cho người nào đó khi bạn không còn tiền trong túi hoặc bạn không muốn dùng tiền trong túi để trả, trong khi đó lại có một người khác đang nợ bạn, bạn có thể yêu cầu người đó trả hộ bạn món nợ đó. Việc chuyển nhượng các văn tự nợ trước thời hạn thanh toán để đổi lấy tiền mặt cho các vụ buôn bán trước mắt là chuyện thường trong buôn bán. Ví dụ bạn cần tiền mặt là 1 triệu đồng cho một vụ buôn bán ngày mai, trong khi đó bạn chỉ có các khoản nợ (ví dụ cũng là 1 triệu) mà người khác nợ bạn, những khoản nợ này lại chưa đến kỳ hạn thanh toán. Vì vậy bạn phải nhượng lại văn tự nợ đó cho một người khác để có tiền mặt tức thì cho vụ buôn bán hôm sau. Tất nhiên khi chuyển nhượng lại khoản nợ như vậy bạn sẽ không thể nhận được trọn cả 1 triệu đồng mà thay vào đó là một khoản dưới 1 triệu đồng, bởi vì bạn phải trả một khoản lãi suất nhất định cho người mua do phải chờ đến kỳ hạn thanh toán. Hoạt động này người ta gọi là sự triết khấu (discounting). Với sự phát triển ồ ạt của thương nghiệp như vậy thì tốc độ di chuyển vốn ngày càng phải nhanh. Yêu cầu di chuyển vốn nhanh tất yếu dẫn đến sự gia tăng trong việc chuyển nhượng các văn tự nợ. Frankfurt và Amstecdam như đã nói ở trên, đã nổi lên thành hai trung tâm thế giới trong việc mua bán, chuyển nhượng các văn tự nợ này. Đồng thời với sự phát mạnh mẽ của thương mại là sự nảy sinh các sáng kiến vay vốn trả lãi cho công chúng của các chính phủ nhằm huy động vốn xây dựng các công trình lớn như đập nước, đường giao thông (điển hình là kênh đào Suy-ê).v.v... Để có đủ tài chính cho việc xây dựng các công trình lớn như vậy, các chính phủ thấy không còn cách nào khác là phải huy dộng vốn từ trong dân chúng bằng cách phát hành các trái phiếu vay nợ (bond) ra công chúng. Những người mua trái phiếu này sẽ được hưởng một khoản lợi tức theo một lãi suất đã được ấn định cho đến kỳ hạn thanh toán, chẳng hạn 10, 20 năm.v.v.. tuỳ từng trường hợp cụ thể. Sáng kiến này sau đó được các chính quyền địa phương noi theo nhằm vào các mục đích phát triển ở địa phương. Như vậy, các trái phiếu chính phủ là một nguồn tiết kiệm sinh lãi đối với những người sở hữu các trái phiếu đó. Tuy nhiên cuộc đời thật éo le, không phải ai cũng có thể chờ được đến kỳ hạn thanh toán của trái phiếu, vì nhiều khi cần tiền mặt mà trong tay lại chỉ có các trái phiếu. Và thế là việc bán và chuyển nhượng các trái phiếu trước kỳ hạn thanh toán lại xảy ra y hệt như đối với các thương phiếu. Các hoạt động chuyển nhượng các giấy tờ có giá trị như vậy được gọi là các hoạt động mua bán chứng khoán đầu tiên, và được tập trung lớn nhất ở Frankfurt và amstecdam. Thật vậy, chứng khoán (securities hay stock) là tất cả các loại giấy tờ có giá trị được mua bán, chuyển nhượng; lĩnh vực diễn ra các hoạt động mua bán đó được gọi là thị trường chứng khoán (stock market hay security market); và các nơi diễn ra các hoạt động đó được gọi là các sở giao dịch chứng khoán (the stock exchange). Đến thế kỷ 15,16 TTCK được hình thành như thế ở Frankfurt và Amstecdam, và những chứng khoán đầu tiên là những thương phiếu (gồm các kỳ phiếu và hối phiếu) và các trái phiếu (chính phủ trung ương và địa phương). Như vậy chứng khoán như là các giấy tờ có giá trị nảy sinh do đòi hỏi của việc huy động vốn (trong trường hợp của trái phiếu) hoặc do kỹ thuật của việc mua bán trao đổi (trong trường hợp của thương phiếu). Và các hoạt động mua bán trao đổi các giấy tờ này hình thành nên TTCK. Đó là TTCK trước khi có công ty cổ phần. 2. Thị trường chứng khoán sau công ty cổ phần. a) Công ty cổ phần: Thế kỷ 19 là thế kỷ xuất hiện nhiều ngành công nghiệp nhờ sự xuất hiện của máy móc. Nhiều ngành công nghiệp tiếp tục phát triển từ những ngành truyền thống với việc ứng dụng máy móc mới, ví dụ ngành dệt. Trong những ngành đó, vốn liếng của gia đình, giòng họ của người chủ có thể đủ để mua máy móc thiết bị mới để tăng năng suất, phát triển doanh nghiệp. Nhưng mặt khác, có những ngành công nghiệp mới xuất hiện lại đòi hỏi rất nhiều vốn liếng mới có thể mở được doanh nghiệp, ví dụ điển hình trong thời kỳ này là ngành đường sắt. Để có thể mở được doanh nghiệp, không một người nào có thể tự đảm bảo được đủ số vốn ban đầu để mở mang doanh nghiệp. Trong khi đó sự phát triển đầy triển vọng phát đạt của ngành này là rất rõ rệt và hấp dẫn đối với việc đầu tư. Trước đây, như đã đề cập ở phần trên, phát hành công trái là một sáng kiến từ thế kỷ 15 và 16 để huy động vốn xây dựng các công trình lớn đòi hỏi nhiều vốn. Giờ đây, ở vào thế kỷ 19, một sáng kiến nữa dường như được mô phỏng từ sáng kiến đó trong kinh doanh là sáng kiến thành lập công ty cổ phần (stock company). Để mở mang một doanh nghiệp lớn và mới, một nhóm người có cùng chung ý tưởng đầu tư kiếm lời trong một hoạt động kinh doanh nào đó đã cùng nhau góp vốn để mở doanh nghiệp. Phần đóng góp về tài chính của mỗi người trong công ty đó gọi là cổ phần (share). Và mỗi người đều giữ một hoặc nhiều văn tự chứng thực cho sự đóng góp cổ phần của mình, những văn tự này gọi là các cổ phiếu (shares). Điều đó có nghĩa là người ta có thể chia một cổ phần ra thành nhiều cổ phiếu với một giá trị đơn vị nhất định. Ví dụ bạn có cổ phần đóng góp trong công ty xà phòng Daso là một triệu đồng, và trong tay bạn cầm một trăm cổ phiếu, mỗi cổ phiếu trị giá (ghi trên cổ phiếu đó) là 10 nghìn đồng. Nói một cách khác 100 cổ phiếu trong tay của bạn chứng thực bạn có một cổ phần trị giá 1 triệu đồng trong công ty bột giặt Daso. Những người có cổ phần đóng góp này gọi là những cổ đông (share holders). Căn cứ vào bối cảnh đóng góp và hưởng lợi, người ta lại chia cổ phiếu (hay cổ phần) ra thành hai loại rất cơ bản: cổ phiêu (phần) thường (ordinary share) và cổ phiếu (phần) ưu đãi (preference share). Cổ phần thường hay còn gọi là cổ phần sáng lập là những cổ phần theo đó việc hưởng lợi từ công ty hoàn toàn tuỳ thuộc vào tình trạng kinh doanh của công ty. Nếu công ty làm ăn phát đạt thì phần chia lợi cho các cổ phần này sẽ tăng và ngược lại. Và những người nắm giữ cổ phần này là những cổ đông có quyền tham gia vào việc ra các quyết định trong kinh doanh, do đó họ được hưởng lợi hay phải chịu rủi ro trong kinh doanh do những quyết định của họ gây ra. Trái lại, cổ phần ưu đãi là những cổ phần giành cho những người không có khả năng hoặc không có điều kiện tham gia các hoạt động kinh doanh của công ty nhưng vẫn muốn đóng góp đầu tư vào công ty đó để hưởng lợi nhuận. Vì không tham gia vào việc ra quyết định kinh doanh , những cổ đông này không muốn phải chịu những rủi ro thất thường trong kinh doanh, mà thay vào đó là một thu nhập ổn định, mặc dù thấp, từ phần đóng góp. Vì vậy cổ phần ưu đãi được hưởng một tỷ lệ hoa lợi cố định theo quy định. Một điểm khác biệt nữa giữa cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi là khi công ty bị phá sản được dùng để trả các khoản nợ mà công ty đang nợ, sau đó (nếu còn) sẽ thanh toán cho các khoản đầu tư của các cổ phiếu ưu đãi trước, và cuối cùng (nếu còn) mới thanh toán cho các cổ phiếu thường. Một điều cần lưu ý ở đây là cần phân biệt giữa cổ phiếu ưu đãi và trái phiếu. Điểm giống nhau giữa hai loại này là cùng có một tỷ lệ hoa lợi nhất định trên mức đóng góp. Nhưng trái phiếu (bond) là một khoản vay và đến kỳ hạn thanh toán người giữ trái phiếu được hoàn trả khảon tiền đã cho vay đó trong khi đó cổ phiếu ưu đãi là một khoản đầu tư không có kỳ hạn trả, và người giữ cổ phiếu đó không được đòi lại khoản tiền đó trừ khi công ty phá sản như đã đề cập ở trên. Như vậy, công ty cổ phần là một sáng kiến trong kinh doanh. Nó giải quyết một tình trạng thiếu vốn để mở hoặc phát triển các doanh nghiệp đòi hỏi vốn lớn mà một cá nhân không đủ khả năng tài chính cho việc đó. Những cổ đông tham gia kinh doanh hy vọng sẽ kiếm được lợi nhuận từ việc kinh doanh đó. Và trong tay họ có các cổ phiếu chứng thực cho sự đóng góp cổ phần của họ. Nói cách khác cổ phiếu là những giấy tờ có giá trị. Mặc dù về quy định người ta không thể đòi được các khoản đầu tư đó theo ý muốn, trong chừng mực công ty còn tồn tại những giấy tờ này đem lại cho người sở hữu chúng những khoản hoa lợi nhất định. Và như thế có nghĩa là người ta có thể chuyển nhượng (bán) chúng cho người khác tương tự như trong trường hợp của trái phiếu và thương phiếu nói ở trên. b. Sự bùng nổ của thị trường chứng khoán. Trước khi có công ty cổ phần, việc bán các trái phiếu và các thương phiếu thường chỉ xuất hiện khi các chủ sở hữu chúng có nhu cầu cần tiền mặt. Việc di chuyển đầu tư kiếm lời từ đầu tư vào loại công trái hay thương phiếu này sang loại công trái hay thương phiếu khác là rất hãn hữu vì mức lãi suất các loại trái phiếu về cơ bản là tương đương nhau, và độ an toàn cũng vậy, TTCK do đó chỉ hoạt động ở quy mô nhỏ. Trái lại, với sự xuất hiện công ty cổ phần việc giao dịch mua bán chứng khoán đã bùng nổ, và bước sang một giai đoạn hoàn toàn mới mẻ. Điều này bắt nguồn từ nhiều lý do. Thứ nhất, các lĩnh vực đầu tư trở nên vô cùng đa dạng, bao gồm toàn bộ các hoạt động sản xuất kinh doanh . Người đầu tư lúc này đứng trước hàng loạt lựa chọn đầu tư. Thứ hai, mức độ kiếm lời và rủi ro của các lĩnh vực này lại khác nhau, do đó mức sinh lời cho đầu tư các lĩnh vực hay công ty khác nhau cũng khác nhau; thậm chí mức sinh lãi của đầu tư còn phụ thuộc vào cả tình hình chính trị hay sự sống còn của một cá nhân có uy tín trong chính trường hay trong kinh doanh (xem phần các yếu tố ảnh hưởng đến TTCK). Nói cách khác, người đầu tư đứng trước hàng loạt các tình huống lựa chọn đầu tư, và do đó tạo ra nhiều khả năng cho việc di chuyển đầu tư từ lĩnh vực này sang lĩnh vực khác. Và tiếp theo đó, thứ ba, tính chất đầu cơ trong giao dịch mua bán loại chứng khoán này xuất hiện. Kết quả là, thứ tư một khối lượng lớn giao dịch mua bán chuyển nhượng chứng khoán trên thị trường trở nên thường xuyên với sự tham gia hết sức đông đảo của hầu hết các tầng lớp trong xã hội. TTCK đến lúc đó thực sự bước sang một giai đoạn phát triển hoàn toàn mới với sự phát triển mới cả về lượng cũng như về chất. Như vậy công ty cổ phần có một ảnh hưởng có tính chất cách mạng làm thay đổi toàn bộ hoạt động của thị trường chứng khoán. Nếu như trước đây TTCK chỉ là nơi giao dịch các trái phiếu và thương phiếu, thì giờ đây nó gồm thêm cả một loại chứng khoán có sức hấp dẫn đầu tư hơn gấp nhiều lần, đó là các cổ phiếu. Từ đây trở đi, cổ phiếu chiếm tỷ trọng áp đảo trong giao dịch mua bán tại TTCK. II/ VAI TRÒ, CHỨC NĂNG CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN. Với sự hình thành TTCK như thế, nền kinh tế quốc gia đã có thêm một công cụ mới trong quy trình vận hành của nó. Những đóng gọp của TTCK đối với nền kinh tế được thể hiện cụ thể trong những chức năng sau đây. 1. Chức năng huy động vốn Với sự xuất hiện của TTCK, chúng ta dễ dàng nhận thấy vai trò của nó trong việc huy động vốn cho đầu tư, đó là một cánh cửa qua đó các chính phủ, công ty và các tổ chức kinh tế có thể phát hành các trái phiếu và cổ phiếu để huy động vốn cho sản xuất và kinh doanh. Trước đây việc tìm ra nguồn vốn hầu như chỉ dựa vào con đường vay của ngân hàng. Giờ đây việc huy động vốn được tiền hành trực tiếp với những người có ý định đầu tư bằng tiền tiết kiệm của họ bằng cách tạo ra hàng loạt các lựa chọn khác nhau cho đầu tư. Nói cách khác, bên cạnh công ty huy động vốn trước đây là lãi suất ngân hàng, giờ đây chúng ta có thêm một công cụ nữa, đó là các chứng khoán. 2. Chức năng khuyến khích tiết kiệm và đầu tư: Trước khi có TTCK, cánh cửa duy nhất để gửi tiền tiết kiệm của người tiết kiệm là ngân hàng, và lãi suất ngân hàng là khuyến khích duy nhất đối với họ. Tất nhiên mức lãi suất ngân hàng có khác nhau vì mục đích cạnh tranh nhằm thu hút khách gửi tiền, sự khác nhau đó là không lớn. Sau khi có TTCK người gửi tiết kiệm có thêm một con đường nữa hấp dẫn hơn cho tiền tiết kiẹm có thêm một con đường nữa hấp dẫn hơn cho tiền tiết kiệm của họ. Họ không còn phải phụ thuộc vào lãi suất ngân hàng với những chênh lệch không đáng kể nữa. Trái lại, trước mặt họ là hàng loạt những lựa chọn khác nhau với những lãi suất khác nhau của các cổ phiếu và trái phiếu( mỗi công ty có thể có những loại cổ phiếu và trái phiếu khác nhau và tương ứng với những lãi suất khác nhau). Vì phải chịu rủi ro hơn so với lãi suất ngân hàng (vì là những khoản có tính chất đầu tư )lãi suất các chứng khoán thường cao hơn lãi xuất ngân hàng, nên nó có tác dụng khuyến khích tiết kiệm để đầu tư. 3. Chức năng công cụ di chuyển đầu tư Với sự ra đời của TTCK, khoảng cách giữa người tiết kiệm và người đầu tư được xoá bỏ. Bản thân cái gọi là người tiết kiệm, xét theo giác độ là người mua cổ phiếu, về thực chất đã phần nào trở thành người đầu tư rồi. Bởi vì khi mua cổ phiếu họ đã có những lựa chọn và toan tính đầu tư vào lĩnh vực nào thì có lợi hơn. Đứng trước hàng loạt những lựa chọn và những biến đổi thường xuyên của nền kinh tế trong đó một số ngành phát đạt trong thời kỳ này và ngành khác lại trì trệ, những người đầu tư này phải đưa ra các quyết định về việc họ có nên duy trì đầu tư của họ trong lĩnh vực cũ hay di chuyển đầu tư sang lĩnh vực khác. Để làm được việc đó họ phải quyết định xem có nên giữ loại cổ phiếu nào và bán loại cổ phiếu nào. Đó chính là chức năng quan trọng của TTCK giúp các nhà đầu tư có thể di chuyển vốn đầu tư một cách dễ dàng hơn. 4. Chức năng khuyến khích cạnh tranh TTCK là nơi hội tụ các loại cổ phiếu và trái phiếu của các công ty, trong đó giá cổ phiếu và trái phiếu của một công ty có thể lên hoặc xuống tại một thời điểm nào đó. Đồng thời, nếu so sánh với giá cổ phiếu và trái phiếu của công ty khác cùng lĩnh vực đầu tư, có thể giá cổ phiếu và trái phiếu của công ty này cao hơn của công ty khác. Điều đó thúc đẩy các công ty có giá cổ phiếu hoặc trái phiếu hạ hoặc thấp hơn phải tự xem xét laị hoạt động của công ty mình xem đã hiệu quả hay chưa, từ đó phải liên tục tổ chức lại để nâng cao hiệu quả sản xuất nhằm cạnh tranh với các đối thủ trên thương trường. 5. Chức năng thời biểu kinh tế Các chỉ số chứng khoán được tạo ra bằng nhiều cách khác nhau nhằm cung cấp những thông tin về tình trạng tốt hay xấu của TTCK. Ví dụ chỉ số Down Jhon tăng có nghĩa là giá trung bình của các chứng khoán ở TTCK New york tăng, và ngược lại. Tuy nhiên chỉ số đó không chỉ phản ánh động thái của TTCK. Chỉ số chứng khoán tăng có nghĩa là giá tr
Luận văn liên quan