Đề tài Ảnh hưởng của thi pháp đồng dao trong thơ trần Đăng Khoa tuổi ấu thơ

Đăng Khoa, người nổi lên như một thần đồng thơ của những năm thập kỷ 60. Nhà văn Đình Kính đã nhận xét về thơ Trần Đăng Khoa: “Thơ Trần Đăng Khoa không là loại cô-nhắc pha nhiều hợp chất nhằm đánh lừa dân nghiền, đến nỗi thoảng ngửi hơi đã thèm, cuống quýt muốn uống ngay. Thơ Trần Đăng Khoa hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây xốc, không làm chúng ta khùng nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ.”.Trần Đăng Khoa bắt đầu làm thơ lúc 8 tuổi, lúc Trần Đăng Khoa 10 tuổi thì tập thơ đầu tay Góc sân và khoảng trời được in lần đầu gồm 52 bài với số lượng 10.000 cuốn; năm 1973, Góc sân và Khoảng trời được bổ sung thành 66 bài, in với số lượng lên tới 50.000 bản. Thế là từ đấy, tập thơ này mỗi năm đều được bổ sung thêm và in lại nhiều lần ở nhiều nhà xuất bản khác nhau. Cho đến lần in năm 2002 là lần thứ 50, một con số có lẽ là kỷ lục cho những cuốn sách được tái bản nhiều lần ở nước ta. Năm 2002, Góc sân và khoảng trời là một trong ba tập thơ của Trần Đăng Khoa được trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Là một nhà thơ nhỏ tuổi, nhưng Trần Đăng Khoa đã biết chắt lọc cái hay, cái tinh hoa của tác giả khác; đặc biệt là em biết khai thác cái tinh túy của đồng dao để đưa vào thơ một cách đầy sáng tạo. Thi pháp đồng dao được thể hiện trong thơ Trần Đăng Khoa như thế nào mà có thể lay động hàng triệu triệu tâm hồn trẻ em? Đây quả thực là một đề tài hấp dẫn. Thơ trong Góc sân và Khoảng trời là thơ của tuổi thơ viết về tuổi thơ, vì thế mà được nhiều tác giả SGK chọn đưa vào chương trình Tiểu học từ trước đến nay. Sách giáo khoa hiện hành cũng có một số lượng các bài rút trong tập này ví dụ như: Kể cho em nghe; Trăng sáng sân nhà em; Vườn em; Nghe thầy đọc thơ; Khi mẹ vắng nhà; Ò ó o.; Cây dừa; Trăng ơi.từ đâu đến?; Hạt gạo làng ta; Mẹ ốm;. Trong thực tế dạy học, nhiều giáo viên gần như không quan tâm yếu tố thi pháp nào đã làm nên hồn thơ Trần Đăng Khoa? Trần Đăng Khoa đã sử dụng những chất liệu đồng dao nào? Cái chất dân gian nào đã làm nên những tứ thơ rất riêng ấy? Là một người giáo viên, chúng ta phải nắm chắc những điều đó để có thể giúp học sinh cảm thụ thơ Trần Đăng Khoa một cách sâu sắc hơn, tinh tế hơn. Và đó là con đường tốt nhất dẫn dắt trẻ thơ đi sâu tìm hiểu vườn hoa muôn màu của những sáng tác văn học. Với những lý do trên, em đã chọn đề tài này để nghiên cứu, tìm hiểu. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu ảnh hưởng của thi pháp đồng dao đối với thơ Trần Đăng Khoa tuổi ấu thơ nhằm mục đích ứng dụng vào dạy học môn Tiếng Việt bậc Tiểu học. Cụ thể là giúp giáo viên có cách nhìn, cách cảm thụ sâu sắc về thơ thiếu nhi nói chung, thơ Trần Đăng Khoa nói riêng. Từ đó tìm ra con đường tốt nhất, chính xác nhất và ngắn nhất để dẫn dắt trẻ thơ đi sâu tìm hiểu cái đẹp, cái sáng tạo của những tác phẩm thơ thiếu nhi dựa trên nguồn cảm hứng của đồng dao, góp phần trau dồi tri thức về cuộc sống, bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục tình cảm cao đẹp cho thiếu nhi.

doc23 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6920 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Ảnh hưởng của thi pháp đồng dao trong thơ trần Đăng Khoa tuổi ấu thơ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ THI PHÁP ĐỒNG DAO ĐỐI VỚI THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA TUỔI ẤU THƠ PHẦN MỞ ĐẦU: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Nói đến thơ thiếu nhi không thể không nói đến thơ của nhà thơ tí hon Trần Đăng Khoa, người nổi lên như một thần đồng thơ của những năm thập kỷ 60. Nhà văn Đình Kính đã nhận xét về thơ Trần Đăng Khoa: “Thơ Trần Đăng Khoa không là loại cô-nhắc pha nhiều hợp chất nhằm đánh lừa dân nghiền, đến nỗi thoảng ngửi hơi đã thèm, cuống quýt muốn uống ngay. Thơ Trần Đăng Khoa hấp dẫn như loại vang nho, nhẹ, không gây xốc, không làm chúng ta khùng nhưng uống rồi sẽ ngấm, sẽ say lâu và khó bỏ...”.Trần Đăng Khoa bắt đầu làm thơ lúc 8 tuổi, lúc Trần Đăng Khoa 10 tuổi thì tập thơ đầu tay Góc sân và khoảng trời được in lần đầu gồm 52 bài với số lượng 10.000 cuốn; năm 1973, Góc sân và Khoảng trời được bổ sung thành 66 bài, in với số lượng lên tới 50.000 bản. Thế là từ đấy, tập thơ này mỗi năm đều được bổ sung thêm và in lại nhiều lần ở nhiều nhà xuất bản khác nhau. Cho đến lần in năm 2002 là lần thứ 50, một con số có lẽ là kỷ lục cho những cuốn sách được tái bản nhiều lần ở nước ta. Năm 2002, Góc sân và khoảng trời là một trong ba tập thơ của Trần Đăng Khoa được trao giải thưởng Nhà nước về văn học nghệ thuật. Là một nhà thơ nhỏ tuổi, nhưng Trần Đăng Khoa đã biết chắt lọc cái hay, cái tinh hoa của tác giả khác; đặc biệt là em biết khai thác cái tinh túy của đồng dao để đưa vào thơ một cách đầy sáng tạo. Thi pháp đồng dao được thể hiện trong thơ Trần Đăng Khoa như thế nào mà có thể lay động hàng triệu triệu tâm hồn trẻ em? Đây quả thực là một đề tài hấp dẫn. Thơ trong Góc sân và Khoảng trời là thơ của tuổi thơ viết về tuổi thơ, vì thế mà được nhiều tác giả SGK chọn đưa vào chương trình Tiểu học từ trước đến nay. Sách giáo khoa hiện hành cũng có một số lượng các bài rút trong tập này ví dụ như: Kể cho em nghe; Trăng sáng sân nhà em; Vườn em; Nghe thầy đọc thơ; Khi mẹ vắng nhà; Ò ó o...; Cây dừa; Trăng ơi...từ đâu đến?; Hạt gạo làng ta; Mẹ ốm;... Trong thực tế dạy học, nhiều giáo viên gần như không quan tâm yếu tố thi pháp nào đã làm nên hồn thơ Trần Đăng Khoa? Trần Đăng Khoa đã sử dụng những chất liệu đồng dao nào? Cái chất dân gian nào đã làm nên những tứ thơ rất riêng ấy? Là một người giáo viên, chúng ta phải nắm chắc những điều đó để có thể giúp học sinh cảm thụ thơ Trần Đăng Khoa một cách sâu sắc hơn, tinh tế hơn. Và đó là con đường tốt nhất dẫn dắt trẻ thơ đi sâu tìm hiểu vườn hoa muôn màu của những sáng tác văn học. Với những lý do trên, em đã chọn đề tài này để nghiên cứu, tìm hiểu. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nghiên cứu ảnh hưởng của thi pháp đồng dao đối với thơ Trần Đăng Khoa tuổi ấu thơ nhằm mục đích ứng dụng vào dạy học môn Tiếng Việt bậc Tiểu học. Cụ thể là giúp giáo viên có cách nhìn, cách cảm thụ sâu sắc về thơ thiếu nhi nói chung, thơ Trần Đăng Khoa nói riêng. Từ đó tìm ra con đường tốt nhất, chính xác nhất và ngắn nhất để dẫn dắt trẻ thơ đi sâu tìm hiểu cái đẹp, cái sáng tạo của những tác phẩm thơ thiếu nhi dựa trên nguồn cảm hứng của đồng dao, góp phần trau dồi tri thức về cuộc sống, bồi dưỡng tâm hồn, giáo dục tình cảm cao đẹp cho thiếu nhi. III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU: Thi pháp đồng dao trong thơ Trần Đăng Khoa. NỘI DUNG: I. KHÁI NIỆM VỀ ĐỒNG DAO: Đồng dao là thơ ca dân gian truyền miệng trẻ em. Chúng bao gồm những bài hát dân gian thuộc một thể loại văn học dân gian nhất định và trẻ em nhất thiết phải là chủ thể chủ yếu và đích thực của sự sáng tạo và lĩnh xướng. Đồng dao được hiểu theo phạm vi rộng, bao gồm nhiều thể loại như: ca dao, câu đố, vè, hát ru...Đồng dao ở đây là một thuật ngữ mang tính “chủng loại”. Đối tượng của đồng dao là trẻ em, được trẻ em trực tiếp sử dụng.Dù là thể loại nào: ca dao, câu đố, vè hay hát ru mà dành cho trẻ em thì đều được gọi là đồng dao. Như vậy,đồng dao là một thể loại của văn học dân gian, đồng dao có thể là những lời hát dân gian mộc mạc của trẻ con, có từ xa xưa và được truyền miệng từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đồng dao cũng có thể là những bài hát ru của chị đưa nôi cho em những trưa hè nắng gắt, là những lời hát vần điệu của đám trẻ chăn trâu cắt cỏ hay những câu vè của đám trẻ con chơi trò đánh đáo, đánh chuyền, dung dăng dung dẻ những đêm sáng trăng… II. MỐI QUAN HỆ GIỮA THI PHÁP ĐỒNG DAO VÀ THƠ THIẾU NHI: 1. Thi Pháp Là gì? Hệ thống những nguyên tắc, cách thức xây dựng hình tượng, tổ chức tác phẩm, lựa chọn và sử dụng, tổ chức các phương tiện ngôn ngữ để làm nên tác phẩm văn học – nghĩa là toàn bộ hình thức nghệ thuật được nhà văn sáng tạo nhằm thể hiện nội dung tác phẩm được gọi là thi pháp. Thi pháp là tất cả những gì làm nên cái độc đáo, riêng biệt về phương diện phẩm chất nghệ thuật của tác phẩm, tác giả. Đồng dao là một thể loại của văn học dân gian, vì vậy khi nghiên cứu thi pháp đồng dao chúng ta phải tìm hiểu thi pháp văn học dân gian. Theo Chu Xuân Diên thì: “Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật, về phương thức và thủ pháp miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài, cốt truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người. Việc nghiên cứu thi pháp văn học dân gian bao gồm từ việc khảo sát những yếu tố riêng lẻ như phép so sánh thơ ca, các biểu tượng và luật thơ, các mô típ và cấu tạo cốt truyện, cách mô tả diện mạo bên ngoài và tâm lý bên trong của nhân vật...đến việc khảo sát những đặc điểm thi pháp chung của từng thể loại và những đặc điểm dân tộc của thi pháp văn học dân gian nói chung. Nghiên cứu văn học dân gian còn bao gồm cả việc khảo sát những đặc điểm phong cách cá nhân của người sáng tạo và diễn xướng trong mối quan hệ với những đặc điểm thi pháp truyền thống. Mặt khác nói đến thi pháp văn học dân gian là nói đến thi pháp của các thể loại văn học dân gian. Những gì tạo nên đặc trưng nghệ thuật của văn học dân gian một mặt là chung cho tất cả những tác phẩm thuộc cùng một thể loại, một mặt là chỉ riêng cho thể loại này khi so sánh với thể loại khác.Điều này có liên quan đến thi pháp đồng dao. Yếu tố thi pháp đặc trưng của đồng dao là kết cấu, thể thơ và ngôn ngữ. 2. Thi pháp đồng dao và những hình thức biểu hiện trong thơ thiếu nhi. * Thể thơ, vần và nhịp: - Thể thơ 4 chữ: Đặc trưng của đồng dao là thể thơ 4 chữ, nó chiếm một số lượng khá lớn (252/567 bài). Đây là thể thơ hầu như duy nhất chỉ tồn tại ở đồng dao. Vần được gieo tương đối linh hoạt: Giữa câu (vần lưng), cuối câu (vần chân), vần lưng xen vần chân. Cách ngắt nhịp cuối dòng hoặc ngắt nhịp theo thể thơ 2/2, có bài được ngắt theo nhịp hành động. Thể hiện trong thơ thiếu nhi ở 2 dạng: Dạng 1: Nhịp 2/2, vần lưng hoặc vần chân. Dạng 2:Nhịp 2/2, vần liền từng cặp là vần chân; bằng trắc luân phiên nhau. Thơ cho thiếu nhi giai đoạn đầu có hình thức tương tự đồng dao dạng 1, nhưng phổ biến nhất là dạng 2. - Thể thơ lục bát: Lục bát không phải là thể thơ đặc trưng của đồng dao, tuy nhiên nó vẫn chiếm một số lượng tương đối lớn (240/567 bài).cách gieo vần chủ yếu là chữ thứ 6 của câu lục bắt vần với chữ thứ 6 của câu bát, còn chữ thứ 8 của câu bát bắt vần với chữ thứ 6 của câu lục tiếp theo. Ngoài ra có cách gieo không phổ biến là chữ thứ 6 câu lục bắt vần với chữ thứ 4 câu bát: Vân Tiên cõng mẹ đi ra Đụng phải cột nhà cõng mẹ đi vô Vân Tiên cõng mẹ đi vô Đụng phải cái bồ cõng mẹ đi ra Cũng có trường hợp gieo theo vần trắc: Tò vò mà nuôi con nhện Đến khi nó lớn nó quện nhau đi. * kết cấu: - Kết cấu trùng điệp: Trùng điệp cú pháp( lặp cú pháp) Kết cấu lặp đầu cuối - Kết cấu hỏi đáp: Kết cấu này tồn tại không phổ biến trong đồng dao. Lời thoại ngắn gọn chặt chẽ, trong sáng, giàu hình tượng, làm phong phú thêm tâm hồn trẻ thơ. * Ngôn ngữ và một số hình ảnh nghệ thuật khác: - Tính chất kể của ngôn ngữ thơ thiếu nhi: Dạng 1: Kể với ý nghĩa kể vật, kể việc, liệt kê sự kiện, hành động mà không có cốt truyện, nhân vật. Dạng 2: Thuật lại một câu chuyện có đầu, có cuối, có nội dung cốt truyện Hiện tượng mượn lời và cải lời: + Mượn lời: Sử dụng nguyên phần lời có sẵn hoặc lấy cảm hứng từ phần lời của một bài đồng dao trong quá trình sáng tạo thơ thiếu nhi. + Cải lời: Trên cơ sở một bài đồng dao nguyên mẫu, tước bỏ phần lời, chỉ sử dụng lại hình thức kết cấu của nó; hoặc sửa đổi một phần lời cho phù hợp với việc diễn tả nội dung mới. Thường là giữ nguyên câu mở đầu của bài đồng dao, phần còn lại thường là cải lời. Một số hình ảnh nghệ thuật: Hình ảnh con cò: Trong đồng dao, con cò là một hình ảnh đẹp đẽ và sinh động, đáng yêu.Con cò đến với trẻ thơ qua lời ru của mẹ.Không chỉ có ý nghĩa về đời sống tinh thần, về tác động tâm lí thông qua lời ru mà nó đi vào thơ ca hiện đại của thiếu nhi với những bài học có tinh thần giáo dục cao: Con cò trắng bạch như bông Mỗi ngày nó đứng rỉa lông mấy lần Rỉa xong lại xắn cao quần Tìm nơi trong sạch rửa chân kĩ càng Hình ảnh con cò không còn là hình ảnh thực nữa mà trở thành hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng cho sự thanh cao, trong trắng, sự hi sinh. Hình ảnh con trâu, con nghé: Hình ảnh con trâu, con nghé luôn gắn với công việc hàng ngày chăn trâu giữ nghé đã trở thành người bạn chí cốt gắn bó với đời sống trẻ thơ.Các em gọi nghé, gọi trâu với những tình cảm thân thương, trìu mến. Thường mở đầu bằng những câu gọi đáng yêu thân thương: Nghé ọ nghé ơi... Nghé ăn rơm tươi Nghé ăn cỏ tốt Nghé ơi...nghé à Mày đi theo ta Đừng theo kẻ trộm Ngoài ra còn có những bài thúc dục, cổ vũ trâu bò hai bên đánh nhau ( Dục trâu báng chắc) để vui chơi. Hình ảnh trăng sao: Chỉ riêng hình ảnh trăng sao mới thực sự là người bạn của các em trong các cuộc vui chơi ca hát. Trăng sao là những hiện tượng thiên nhiên của vũ trụ bí ẩn. Nó xa vời và cách biệt với cuộc sống trần thế của con người, thuộc về một thế giới khác- thế giới của huyền thoại. Trăng, sao trong đồng dao được các em âu yếm gọi là “ông” nhưng tính cách thì chẳng khác gì trẻ con: Ông giẳng ông giăng Ông giằng búi tóc Ông khóc ông cười Ông lười đi trâu Mẹ ông đánh đau Ông ngồi ông khóc Ông phóc xuông đây Ông nắm lấy dây Dung dăng dung dẻ. ( Lời đồng dao ) Ông sảo ông sao Bụng đói như cào Đòi ăn bánh đúc Cùi dừa bún ốc Đòi ổi đòi ngô Chẳng có ai cho Ông ngồi ông khóc ( Thơ thiếu nhi ) Trăng sao trong đồng dao đã trở thành những người bạn không thể thiếu trong các cuộc vui chơi ca hát của các em, có lẽ vì thế mà các bài đồng dao về trăng sao thường mở đầu bằng lời mời gọi trăng sao cùng xuống chơi: Ông sảo ông sao Xuống chơi với tôi Có bầu có bạn Có ván cơm xôi Có nồi cơm nếp Có nệp bánh chưng ( Lời đồng dao ) Ông trăng ông xuống Chơi với cậu tôi Cậu tôi cho mõ Xuống chơi nồi chõ Nồi chõ cho vung ( Lời đồng dao ) Ông trăng ơi Mời ông xuống chơi Phá cỗ ( Thơ thiếu nhi ) Nhân cách hóa trong đồng dao – phương tiện tu từ ngữ nghĩa đặc sắc: Nhân hóa là một biến thể của ẩn dụ, lấy những từ ngữ biểu đạt thuộc tính dấu hiệu con người, làm cho đồi tương miêu tả trở nên gần gũi, dễ hiểu hơn, đồng thời làm cho người nói có khả năng bày tỏ kín đáo tâm tư, thái độ của mình. Biểu hiện: + Dùng những từ chỉ tình cảm, hoạt động của con người để biểu thị tính chất, hoạt động của đối tượng không phải con người. + Coi đối tượng không phải là con người như con người và tâm tình trò chuyện với nhau. Điển hình là các bài về trăng , sao, nghé...Đây là hình thức nhân hóa phổ biến trong đồng dao: Ông sảo ông sao Ông vào cửa sổ Ông ở với tôi Ông ngồi lên chiếu Tôi biếu củ khoai Ông nhai tóp tép Ông ghép với rau Ăn mau chóng lớn Ông ngồi dậy Ông về trời. Nghé ơi...nghé à Mày đi theo ta Đừng theo kẻ trộm Nó cắt mất rốn Nó xẻo mất đuôi Biêt lấy chi mà đuổi ruồi Biết lấy chi mà đập bọ Nghé ơ...nghé ọ Nhân cách hóa trong đồng dao gắn liền với đặc trưng thể loại, trở thành nguyên tắc sáng tạo đồng dao, phản ánh tư duy trẻ thơ. Nhân hóa còn thực hiện chức năng diễn xướng: Sên sển sền sên Mày lên công chúa Mày múa tao xem Đến mai tao may áo đỏ quần đen cho mày Nhân cách hóa là một biện pháp tu từ ngôn ngữ đặc sắc trong đồng dao cũng như trong sáng tác thơ cho thiếu nhi. Nhìn chung các tác giả thơ thiếu nhi đều kế thừa cái hay cái đẹp của đồng dao để đưa vào thơ làm cho hồn thơ mang đậm chất dân gian. Có hai xu hướng sáng tác: Xu hướng tiếp nhận phong cách dân gian nhưng sự đổi mới không cao, xu hướng này lệ thuộc quá nhiều vào đồng dao, nội dung chủ yếu là để giáo dục tư tưởng đạo đức cho các em. Xu hướng kết hợp hài hòa giữa các yếu tố truyền thống và hiện đại, kế thừa có chọn lọc trên cơ sở nâng cao tạo nên nhiều phong cách thơ độc đáo, Chuyển tải được những vấn đề của cuộc sống mới, thời đại mới đến với các em một cách hấp dẫn. Trần Đăng Khoa đã tiếp nhận phong cách đồng dao theo xu hướng này và đã làm nên một hồn thơ Trần Đăng Khoa. ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC YẾU TỐ THI PHÁP ĐỒNG DAO ĐỐI VỚI THƠ TRẦN ĐĂNG KHOA TUỔI ẤU THƠ Vài nét về thi sĩ nhỏ tuổi với tập thơ Góc sân và khoảng trời: Trần Đăng Khoa sinh tháng 4 năm 1957, tại xã Quốc Tuấn – huyện Nam Sách – tỉnh Hải Hưng. Khoa bắt đầu làm thơ lúc lên tám tuổi. Một hôm, khi đang ngồi đun bếp nấu cơm, Khoa nhìn thấy con bướm bay ngoài vườn, em buột miệng đọc thành bài thơ Con bướm vàng, đó là bài thơ đầu tay của Khoa: Con bướm vàng Con bướm vàng Bay nhẹ nhàng Trên bờ cỏ Em thích quá Em đuổi theo Con bướm vàng Nó vỗ cánh Vút lên cao Em nhìn theo... Từ đó Trần Đăng Khoa làm thơ và chép thành một tập, tự lấy tên là Từ góc sân nhà em. Sau này tập thơ được in với tên Góc sân và khoảng trời. Cái thế giới đầu tiên trong thơ Trần Đăng Khoa là cái góc sân nhà mình ra đó chạy chơi, từ đó mà khám phá rộng ra cả vườn, cả xóm, cả làng, cả nước: Góc sân nho nhỏ mới xây         Chiều chiều em đứng nơi này em trông               Thấy trời xanh biếc mênh mông         Cánh cò chớp trắng trên sông Kinh Thầy... Sau khi thăm góc sân nhỏ này, Nhà thơ Xuân Diệu nói: Tôi đã đến thăm cái sân ấy. Nó nhỏ lắm. Nhưng nó đã là cái thế giới đầu tiên của bé Khoa, từ lúc bé chập chững tập đi, cho tới lúc bé tám tuổi, làm những câu thơ đầu tiên. Cái vũ trụ tí hon ấy quan trọng như lòng đỏ của quả trứng gà. Tôi đã nhìn thấy, quanh sân, những “nhân vật” đã đi vào trong những bài thơ thứ nhất của bé Khoa; những nhân vật rất thông thường, nhưng đượm sắc thần tiên của hồn con trẻ, và đượm tình mến yêu của trái tim thơ ấu; đây “Ngọn mồng tơi - Nhảy múa”, xa hơn một chút, đây “Muôn nghìn cây mía - Múa gươm”, xa hơn chút nhữa, đây mấy cây bưởi vạn đời, mà lần đầu tiên mới có những con mắt thấy ra là “Hàng bưởi đu đưa - Bế lũ con - Đầu tròn trọc lóc”, đúng thế thật! Xa hơn chút nữa, kia là “Cây dừa - Sải tay - Bơi”, xa xa hơn, kia là “Bụi tre tần ngần - Gỡ tóc". Tại đây "Sấm ghé xuống sân - Khanh khách - Cười”; tại đây “Mưa chéo mặt sân - Sủi bọt”; cũng trên mảnh sân này “Cóc nhảy chồm chồm” sau khi trời đã mưa xuống rồi. Sân này là sân khấu của bài "Mưa", bài thơ vào loại hay nhất của Khoa. Vì thế mà khi đọc Góc sân và Khoảng trời, chúng ta thấy hiện lên cả một thế giới con người và sự vật mà trong đó con người nào cũng đều để lại một dấu ấn tốt đẹp trong con mắt của thi sĩ tí hon Trần Đăng Khoa; còn sự vật thì hầu như tất cả đều đã được nhân cách hóa, trở thành những bạn bè thân thiết, không thể xa rời. Đó là con bướm vàng, cái sân, dòng sông Kinh Thầy, con chim, con gà, vườn cải, cây đa, con trâu, cây trầu... và nhất là ánh trăng của làng quê. Đó là thế giới của một tuổi thơ làng quê. Trần Đăng Khoa đã đóng góp những bài thơ vào cuộc đời và đóng góp cái thế giới tầm hồn trẻ con vào thơ. “Thơ Khoa cất lên, cả thế giới đón lấy thơ em - một hồn thơ sáng tươi, hồn nhiên, yêu đời. Khoa có một hồn thơ sớm nhạy cảm. Cao hơn cả nhạy cảm, Khoa còn có xúc cảm thơ, nghĩa là xúc cảm thành sáng tạo thơ, thành hình tượng thơ”(Xuân Diệu). Thi pháp đồng dao trong thơ Trần Đăng Khoa: Thể thơ, vần và nhịp: Qua khảo sát 78 bài thơ trong tập Góc sân và khoảng trời có 33 bài viết ở thể lục bát, 20 bài là thể 5 chữ, 8 bài là thể 4 chữ, còn 17 bài là thể tự do và các thể thơ khác. Tám bài ở thể 4 chữ đều ngắt nhịp 2/2, đó là các bài: Tiếng võng kêu; Thả diều; Đánh tam cúc; Kể cho bé nghe; Hạt gạo làng ta; Mặt bão. Cách gieo vần cũng mang đậm chất đồng dao, bài gieo vần chân điển hình nhất là bài Kể cho bé nghe: Hay nói ầm ĩ Là con vịt bầu Hay hỏi đâu đâu Là con chó vện Hay chăng dây điện Là con nhện con Ăn no quay tròn Là cối xay lúa Mồm thở ra gió Là cái quạt hòm Không thèm cỏ non Là con trâu sắt Rồng phun nước bạc Là chiếc máy bơm Dùng miệng nấu cơm Là cua là cáy Chẳng vui cũng nhảy Là chú cào cào Đêm ngồi đếm sao Là ông cóc tía Ríu ran cành khế Là cậu chích chòe Hay múa xập xòe Là cô chim trĩ... Cách gieo vần chân cũng có trong một số bài khác: ...Hạt gạo làng ta Có bão tháng bảy Có mưa tháng ba Giọt mồ hôi sa Những trưa tháng sáu Nước như ai nấu Chết cả cá cờ Cua ngoi lên bờ Mẹ em xuống cấy... (Hạt gạo làng ta) Bão đến ầm ầm Như đoàn tàu hỏa Bão đi thong thả Như con bò cầy Xanh đẹp là cây Bão vặt trụi hết... (Mặt bão) Và đây là các bài được gieo vần lưng và vần chân: ...Bốn bề lên hương Dịu mát bờ sương Thoảng hơi gió nhẹ Vầng trăng mới hé Làn mây trong ngần ... Trời đất đêm nay Như chim mới hót Như rượu mới cất Như mật mới đông... ( Hương đồng) ...Nón che kín đầu Cháu thành con ốc Khăn bay mái tóc Cháu hóa bướm hồng Díp hoa quay tít Cháu thành con ong Nằm giữa lòng ông Cháu là hạt thóc... Chú khum bàn tay Miệng thay máy “Tạch!” (chụp ảnh) Đặc biệt có một số bài không phân thành khổ thơ, đúng với nét đặc trưng của đồng dao: Kể cho bé nghe; Hương đồng; mặt bão; Chụp ảnh... Còn 33 bài ở thể lục bát đều là lục bát chính thể: Số âm tiết của mỗi dòng không thay đổi, vị trí gieo vần cố định (âm tiết cuối của câu lục vần với âm tiết thứ 6 của câu bát; âm tiết cuối của câu bát này lại bắt vần với âm tiết cuối của câu lục tiếp theo, rồi cứ thế tiếp tục. Nhịp phổ biến là nhịp chẵn 2/2/2, một số câu có ngắt nhịp 3/3, 4/4, 2/4, 2/6: Quả dừa/ đàn lợn con nằm trên cao. ( Cây dừa) Lá trầu/ khô giữa cơi trầu... Người cho trứng,/ người cho cam Và anh y sĩ/ đã mang thuốc vào ( Mẹ ốm) Kết cấu: * Kết cấu trùng điệp: Ta thấy phổ biến trong thơ Trần Đăng Khoa là kiểu kết cấu trùng điệp. Kiểu kết cấu này được Trần Đăng Khoa sử dụng rất linh hoạt, diễn tả một cách sâu sắc nội dung của bài thơ. Đây là một hàng loạt bài sử dụng hình thức kết cấu lặp cú pháp: Trăng ơi ...từ đâu đến? Trăng ơi... từ đâu đến? Hay từ cánh rừng xa Trăng hồng như quả chín Lửng lơ lên trước nhà Trăng ơi...từ đâu đến? Hay biển xanh diệu kì Trăng tròn như mắt cá Không bao giờ chớp mi Trăng ơi...từ đâu đến? Hay từ một sân chơi Trăng bay như quả bóng bạn nào đá lên trời Trăng ơi...từ đâu đến? Hay từ lời mẹ ru Thương Cuội không được học Hú gọi trâu đến giờ! Trăng ơi...từ đâu đến? Hay từ đường hành quân Trăng soi chú bộ đội Và soi vàng góc sân Trăng từ đâu...từ đâu... Trăng đi khắp mọi miền Trăng ơi có nơi nào Sáng hơn đất nước em... Ánh trăng của tuổi thơ đã có mặt khắp mọi miền của đất nước, chúng ta thấy rõ hơn điều đó do tác giả cố ý lặp lại câu thơ Trăng ơi...từ đâu đến? Với việc lặp đi lặp lại câu thơ Cánh diều no gió, người đọc cảm nhận được sự tung bay phơi phới của cánh diều cũng như lòng yêu đời, yêu tự do của nhà thơ, diễn tả được một xã hội sáng tươi mặc dù còn chiến tranh: Thả diều Cánh diều no gió Sáo nó thổi vang Sao trời trôi qua Diều thành trăng vàng Cánh diều no gió Tiếng nó trong ngần Diều như chiếc thuyền Trôi trên sông ngân Cánh diều no gió Tiếng nó chơi vơi Diều là hạt cau Phơi trên nong trời ... Cánh diều no gió Nhạc trời réo vang Tiếng diều xanh lúa Uốn cong tre làng Còn việc điệp cú pháp ở bài thơ sau như là để tạo điểm nhấn khiến người đọc phải trăn trở và mong có lời giải đáp, để rồi đến cuối bài thơ là câu trả lời đồng thời là lời lên án tội ác của giặc Mĩ xâm lược. Nói với con gà mái Mày nhìn tao, con mắt lạc hẳn đi Tròng mắt vằn những tia máu đỏ Cái nhìn cháy như hai hòn lửa Có phải tại tao đâu! ... Mày nhìn tao, đôi cánh xù lông Đập rối loạn như điên, như dại Lông bù xù mỏ sao không chải Có phải t
Luận văn liên quan