Đề tài BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá Thực trạng và giải pháp

Thanh hóa là một tỉnh đông dân, tỷ lệ đói nghèo còn rất cao, không những vậy số lượng đối tượng hưởng chính sách BHXH, BHYT của tỉnh lớn so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Những năm trước đây để chăm lo sức khỏe cho người nghèo tỉnh thực hiện giải pháp tạm thời cấp sổ chứng nhận hộ đói nghèo để các cơ sở y tế miễn phí cho người nghèo khi đi khám chữa bệnh. Những năm gần đây, tỉnh thực hiện cấp thẻ BHYT theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc triển khai chính sách hỗ trợ người nghèo trong CSSK thông qua cấp thẻ BHYT đã từng bước giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản, tránh được các cú sốc về kinh tế. Tuy nhiên, việc triển khai chính sách BHYT cho người nghèo trong thời gian qua đã bộc lộ một số yếu kém và bất cập cần đòi hỏi phải có các giải pháp phù hợp. Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài: “BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá. Thực trạng và giải pháp”. Nội dung của đề tài bao gồm: Chương I: Lý thuyết cơ bản về BHYT, ChươngII: Thực trạng hoạt động BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá, Chương III: Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá.

doc63 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 4489 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Thanh hóa là một tỉnh đông dân, tỷ lệ đói nghèo còn rất cao, không những vậy số lượng đối tượng hưởng chính sách BHXH, BHYT của tỉnh lớn so với các tỉnh, thành phố trong cả nước. Những năm trước đây để chăm lo sức khỏe cho người nghèo tỉnh thực hiện giải pháp tạm thời cấp sổ chứng nhận hộ đói nghèo để các cơ sở y tế miễn phí cho người nghèo khi đi khám chữa bệnh. Những năm gần đây, tỉnh thực hiện cấp thẻ BHYT theo chủ trương của Đảng và Nhà nước. Việc triển khai chính sách hỗ trợ người nghèo trong CSSK thông qua cấp thẻ BHYT đã từng bước giúp người nghèo tiếp cận với các dịch vụ y tế cơ bản, tránh được các cú sốc về kinh tế. Tuy nhiên, việc triển khai chính sách BHYT cho người nghèo trong thời gian qua đã bộc lộ một số yếu kém và bất cập cần đòi hỏi phải có các giải pháp phù hợp. Đây chính là lý do em lựa chọn đề tài: “BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá. Thực trạng và giải pháp”. Nội dung của đề tài bao gồm: Chương I: Lý thuyết cơ bản về BHYT, ChươngII: Thực trạng hoạt động BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá, Chương III: Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt BHYT cho người nghèo ở Thanh Hoá. Do còn hạn chế về trình độ kiến thức cũng như các tài liệu tham khảo nên bài viết chắc chắn còn có nhiều thiếu sót, hạn chế. Chúng em rất mong các thầy cô đóng góp ý kiến chỉ bảo những thiếu sót trong bài viết này để các lần viết sau chúng em có điều kiện nâng cao chất lượng của bài viết. Cuối cùng chúng em xin chân thành cảm ơn Thầy Phạm Đức Trọng đã tận tình giúp đỡ chúng em trong việc hoàn thành bài viết này đồng thời chúng em xin cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Bảo Hiểm đã truyền đạt các kiến thức trong khi giảng dạy để chúng em có thể hoàn thành bài viết này. Một lần nữa chúng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô. CHƯƠNG I LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ BHYT I. KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA BHYT 1. Khái niệm và bản chất của BHYT 1.1. Khái niệm về BHYT Trong cuộc sống con người luôn mong muốn được khoẻ mạnh, ấm no, hạnh phúc, nhưng những rủi ro bất ngờ về sức khoẻ như ốm đau, bệnh tật luôn luôn có thể xảy ra. Các chi phí KCB này không được xác định trước, mang tính “đột xuất”, vì vậy cho dù lớn hay nhỏ, đều gây khó khăn cho ngân quỹ mỗi gia đình, mỗi cá nhân, đặc biệt đối với những người có thu nhập thấp. Không những thế những rủi ro này nếu tái phát, biến chứng vừa làm suy giảm sức khoẻ, suy giảm khả năng lao động, vừa kéo dài thời gian không tham gia lao động sẽ làm cho khó khăn trong cuộc sống tăng lên. Để khắc phục khó khăn cũng như chủ động về tài chính khi rủi ro bất ngờ về sức khoẻ xảy ra, người ta đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như tự tích luỹ, bán tài sản, kêu gọi sự hỗ trợ của người thân, đi vay…Mỗi biện pháp đều có ưu điểm và nhược điểm riêng, tuy nhiên, không thể áp dụng trong trường hợp rủi ro kéo dài và lặp đi lặp lại. Vì thế, cuối thế kỉ XIX, BHYT ra đời nhằm giúp đỡ mọi người lao động và gia đình khi gặp rủi ro về sức khoẻ để ổn định đời sống, góp phần đảm bảo an toàn xã hội. Đồng thời cùng với sự tăng trưởng kinh tế, đời sống con người được nâng cao và nhu cầu KCB cũng tăng lên. Bởi khi điều kiện kinh tế cho phép thì dù trạng thái sức khoẻ thay đổi rất ít như nhức đầu, mệt mỏi, kém ngủ…đều có nhu cầu KCB. Hơn nữa, một số bệnh mới và nguy hiểm xuất hiện, đe doạ đời sống con người. Thêm vào đó chi phí KCB ngày càng tăng lên do ngành y tế sử dụng các trang thiết bị y tế hiện đại, các loại thuốc men cũng tăng giá do biến động giá cả chung của thị trường. Do đó phải huy động các thành viên trong xã hội đóng ...nhằm giảm gánh nặng cho ngân sách Nhà nước (NSNN) và cũng để phục vụ chính bản thân mình khi gặp rủi ro về sức khoẻ. Càng ngày BHYT càng tỏ ra không thể thiếu trong đời sống con người. Vậy BHYT là gì? BHYT là loại bảo hiểm do Nhà nước tổ chức, quản lý nhằm huy động sự đóng góp của cá nhân, tập thể và cộng đồng xã hội để chăm lo sức khỏe, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân”. (Khái niệm về BHYT được trình bày trong cuốn “Từ điển Bách Khoa Việt Nam 1 xuất bản năm 1995”-Nhà xuất bản từ điển Bách Khoa) 1.2. Bản chất của BHYT BHYT trước hết là một nội dung cơ bản của Bảo hiểm xã hội (BHXH)- một trong những bộ phận quan trọng của hệ thống đảm bảo xã hội hay còn gọi là hệ thống an sinh xã hội. Cùng với các hệ thống cung cấp (hay còn gọi là chế độ ưu đãi xã hội, chế độ bao cấp) và hệ thống cứu trợ xã hội, hoạt động của BHYT nói riêng và hoạt động của BHXH nói chung, đã thực sự trở thành nền móng vững chắc cho sự bình ổn xã hội. Chính vì vai trò cực kì quan trọng của BHXH như vậy, cho nên ở mọi quốc gia trên thế giới, hoạt động của BHXH luôn do nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện theo hệ thống pháp luật về BHXH. Đó cũng là một cơ sở quan trọng để phân biệt loại hình BHYT này với BHYT trong Bảo hiểm thương mại (BHTM). Ở các nước công nghiệp phát triển thì loại hình BHYT trong BHTM cũng được phát triển và cũng tồn tại song song với BHYT của Nhà nước. Vì vậy, nói đến BHYT ở đây là chúng ta hiểu là đang đề cập đến BHYT của Nhà nước hay nói cách khác là BHYT theo luật pháp. BHYT sẽ đảm bảo cho những người tham gia BHYT và gia đình họ những khả năng để phòng tránh bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật, chữa trị và khôi phục sức khỏe sau bệnh tật. Do các chế độ BHXH về khám chữa bệnh (KCB), chế độ thai sản và chế độ ốm đau đều có cùng phương thức hoạt động và các nguyên tắc cơ bản chung, cho nên tùy theo đặc điểm lịch sử, tập quán của từng nước mà BHYT có thể bao gồm cả chế độ KCB, chế độ thai sản và chế độ ốm đau hoặc được tách ra theo từng chế độ riêng biệt. Điều đó liên quan đến phạm vi đối tượng tham gia BHXH, đến mức đóng góp và đối tượng tham gia BHXH, đến mức đóng góp và các chế độ được hưởng. Ở các nước công nghiệp phát triển người ta định nghĩa BHYT trước hết là một tổ chức cộng đồng đoàn kết tương trợ lẫn nhau, nó có nhiệm vụ gìn giữ sức khỏe, khôi phục lại sức khoẻ hoặc cải thiện tình trạng sức khoẻ của người tham gia BHYT. Như vậy trong hoạt động BHYT thì tính cộng đồng đoàn kết cùng chia sẻ rủi ro rất cao, là nền tảng cho lĩnh vực bảo vệ và chăm sóc sức khỏe, nó điều tiết mạnh mẽ giữa người khoẻ mạnh với người ốm yếu, giữa thanh niên với người già cả, giữa những người có thu nhập cao và những người có thu nhập thấp. Sự đoàn kết tương trợ lẫn nhau trong BHYT là sự đảm bảo cho từng người dựa trên cơ sở của sự đoàn kết không điều kiện, của sự hợp tác cùng chung lòng, chung sức và gắn kết chặt chẽ với nhau. Đây cũng chính là bản chất nhân văn của hoạt động BHYT mà chúng ta thường đề cập đến. Tuy nhiên đoàn kết tương trợ không chỉ là quyền được nhận mà còn phải là nghĩa vụ đóng góp. Sự công bằng và bình đẳng của một chế độ xã hội được gắn bó với sự đoàn kết được thể hiện ở chỗ: ai muốn đạt được sự bền chặt và đoàn kết thì phải thực hiện nhiều hơn sự công bằng. Điều đó chỉ có thể được tạo ra thông qua sự điều chỉnh trong thực tế, vì “sự công bằng” là yếu tố động, nó chỉ đạt được tại một thời điểm, còn lại đều là sự không công bằng. Đây là một trong những yếu tố tác động đến sự phát triển xã hội. Do vậy cần có sự tích cực điều chỉnh thực tế một cách thường xuyên nhằm đảm bảo mối quan hệ tương thích giữa nghĩa vụ và quyền lợi trong hoạt động BHYT. Nếu nhìn trên giác độ tổng thể nền kinh tế quốc dân và xét về phương diện điều tiết kinh tế vĩ mô thì công cụ BHYT là công cụ thứ hai trong quá trình phân phối lại (công cụ thứ nhất là thuế) góp phần đảm bảo sự bình đẳng và công bằng xã hội. Hệ thống BHYT ngay từ khi hình thành đã không định hướng theo mức độ rủi ro mà định hướng theo nguyên tắc đáp ứng đặc biệt và không phải chi trả trực tiếp. Điều đó được thể hiện rất rõ là: khi bị ốm đau thì người bệnh sẽ được chữa trị cho đến khi khoẻ mạnh trở lại bằng phương pháp, kỹ thuật tiên tiến hiện thời mà không căn cứ vào trước đó họ đã đóng góp BHXH được bao nhiêu. Nếu định hướng theo mức độ rủi ro thì khi ốm đau họ sẽ được đền bù với mức là bao nhiêu căn cứ vào trước đó họ đã đóng góp theo mức nào như trong BHYT tư nhân hay còn gọi là bảo hiểm thương mại. Chính định hướng này đã làm nền tảng cho các nguyên tắc cơ bản về BHYT. Chính vì vậy, BHYT luôn mở rộng phạm vi đối tượng tham gia theo nghĩa vụ (mang tính chất bắt buộc) và ban đầu BHYT cho người làm thuê rồi đến BHYT cho người lao động làm thuê rồi đến BHYT cho người lao động tự do, cho người lao động trong nông nghiệp…cho đến khi BHYT toàn dân. Nếu nhìn nhận dưới giác độ kinh tế thì BHYT trước hết được hiểu là sự hợp nhất kinh tế của số lượng những người trước cùng một loại hiểm nguy do bệnh tật gây nên mà trong từng trường hợp cá biệt không thể tính toán trước và lo liệu được. Nhưng cái chung đó cần phải đáp ứng được bằng nguồn tài chính dự trữ một cách thoả đáng thông qua hệ thống cân bằng rủi ro tương ứng do nhà nước đứng ra tổ chức thực hiện. Cụ thể như sau: Tổng chi phí cho KCB = Tổng số tiền đóng góp của những người tham gia BHYT. Như vậy cân đối về chi phí KCB được thực hiện cân bằng giữa một bên là tổng chi phí KCB cho những người có nhu cầu và cần phải KCB và bên kia là tổng số đóng góp của tất cả những người tham gia BHYT bất kể họ có hoặc không có nhu cầu KCB. Thời gian cân đối về thu chi của BHYT thông thường là một năm. Có những nước người ta tính toán cân đối để dự trù kinh phí chi trả cho thời gian thêm một tháng. Việc cân đối thu chi còn có thể được bổ sung thêm tùy tình hình cụ thể của từng nước và từng năm cụ thể. Trong tổng số chi còn phải tính thêm khoản chi phí cho bộ máy quản lý làm công tác BHYT. Trong khoản thu có thể bao gồm cả các khoản thu từ đóng góp của ngân sách địa phương, của Trung ương và các khoản thu khác. Nguyên tắc cộng đồng chia sẻ rủi ro với ý tưởng nhân văn cao cả của nó đã loại trừ mục tiêu lợi nhuận thương mại của cộng đồng những người tham gia BHYT. Do vậy, hoạt động BHYT không có khoản thu lợi nhuận và đương nhiên cũng không vì mục đích lợi nhuận. Vì vậy tỉ lệ đóng góp chỉ được nâng lên theo đòi hỏi quyền lợi chung của quá trình thực hiện BHYT. Tức là tỉ lệ đóng góp BHYT chỉ được nâng lên theo nhu cầu chữa trị bệnh tật, nhu cầu nâng cao chất lượng KCB và ứng dụng những thành tựu khoa học tiên tiến và công tác KCB của cả cộng đồng. Phương thức đoàn kết chia sẻ rủi ro phải được thực hiện bằng sự điều tiết nhằm cân bằng mang tính xã hội. Việc lập ra quỹ BHYT và từng bước mở rộng phạm vi đối tượng tham gia từ đó đã mở rộng phạm vi cân bằng, chia sẻ rủi ro trong cộng đồng những người tham gia BHYT. Nguyên tắc đoàn kết tương trợ chia sẻ rủi ro chỉ được thực hiện một cách đầy đủ và hợp lí thông qua những giới hạn nhất định. BHYT chỉ bao gồm những đối tượng là những người về nguyên tắc luôn có nhu cầu được bảo vệ về sức khỏe. Những đối tượng cụ thể sẽ được quy định theo pháp luật. BHYT trước hết được thực hiện đối với những người lao động phụ thuộc, tức là người lao động không có tư liệu sản xuất và phải đi làm thuê hay những người có quan hệ lao động. Đây là loại hình BHXH nghĩa vụ, nó mang tính bắt buộc đối với mọi người lao động phụ thuộc và chủ sử dụng lao động. Sau đó do bản chất ưu việt nên nó được mở rộng ra các đối tượng lao động khác như người hành nghề tự do, lao động nông lâm, ngư nghiệp…và BHYT theo đơn vị gia đình. Vấn đề KCB không chỉ đơn thuần liên quan đến vấn đề kỹ thuật y tế mà còn liên quan một cách rất chặt chẽ đến các yếu tố kinh tế như: các khoản chi trả cho các nghiệp vụ chuyên môn kỹ thuật (khám bệnh, phẫu thuật, thủ thuật…) của các bác sỹ, chi phí cho bệnh viện với các trang thiết bị, vật tư y tế phục vụ cho KCB và thuốc men – nếu nhìn dưới giác độ kinh tế - đó là “Cung” của ngành y tế. Còn phía “Cầu” là bệnh tật, những bệnh tật này cần đến các dịch vụ KCB và những hàng hoá cần thiết cho sức khoẻ. Vì vậy khi thực hiện BHYT, ở các nước công nghiệp phát triển bên cạnh việc sử dụng vai trò điều tiết của Nhà nước, người ta còn chú trọng sử dụng quan hệ cung – cầu điều tiết trên thị trường sức khoẻ hay còn gọi là thị trường y tế nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng nguồn quỹ đóng góp của những người tham gia BHYT và nâng cao chất lượng KCB. Trong các nước công nghiệp phát triển ở Châu Âu, số người tham gia BHYT theo luật pháp chiếm tới 90% dân số, chỉ 10% dân số còn lại không tham gia BHXH. Nhóm người này không thuộc đối tượng điều chỉnh của luật BHYT và phần lớn trong số họ là những người giàu có, họ có đủ khả năng tự lo liệu khi ốm đau hoặc tham gia BHYT tư nhân để hưởng những quyền lợi cao hơn khi ốm đau. Ở nước ta BHYT được tiến hành từ năm 1992 và cho đến nay vẫn thực hiện BHYT bắt buộc đối với người lao động có quan hệ việc làm giữa người sử dụng lao động với người lao động. Những đối tượng xã hội như: người có công với cách mạng, thân nhân sỹ quan quân đội, người nghèo cũng được Nhà nước cấp kinh phí để tham gia BHYT. Các đối tượng là trẻ em dưới 6 tuổi được KCB miễn phí bằng nguồn ngân sách Nhà nước và địa phương và đang được xem xét để tham gia BHYT. Hình thức BHYT tự nguyện đang được vận động thực hiện đối với học sinh, sinh viên và nhóm cộng đồng theo địa bàn dân cư hoặc theo tổ chức xã hội… 2. Vai trò của BHYT Trong đời sống kinh tế – xã hội, ngoài những tác dụng to lớn của hoạt động bảo hiểm nói chung, BHYT còn có những tác dụng như sau: BHYT giúp người tham gia BHYT khắc phục sự thiếu hụt về tài chính, đáp ứng nhu cầu KCB của mọi người dân, khi bất ngờ bị ốm đau, bệnh tật vì việc khám, chữa, điều trị chi phí rất tốn kém, ảnh hưởng đến ngân sách gia đình, trong khi thu nhập của họ bị giảm đáng kể, thậm chí mất thu nhập. Từ đó góp phần ổn định cuộc sống của họ và gia đình, vai trò này thể hiện rõ nhất đối với người nghèo trong xã hội có thu nhập thấp. BHYT góp phần nâng cao chất lượng và thực hiện công bằng trong KCB. Bởi vì khi tham gia BHYT thì mọi người dân bất kể giàu nghèo đều được KCB và chăm sóc sức khoẻ tại các cơ sở y tế, do đó sẽ đảm bảo được công bằng xã hội. Đồng thời quỹ BHYT sẽ hỗ trợ cho ngân sách y tế để cải thiện các trang thiết bị y tế, sử dụng trang thiết bị hiện đại hơn, nâng cấp chất lượng dịch vụ của ngành y. BHYT góp phần giảm gánh nặng cho NSNN thông qua việc đóng góp vào quỹ BHYT, từ đó giảm bớt được khoản chi từ NSNN cho hệ thống y tế. Các quốc gia trên thế giới thường có khoản chi từ ngân sách cho hệ thống y tế. Tuy nhiên, ở một số quốc gia đặc biệt là những nước đang phát triển, khoản chi này thường chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển ngành y. Ở nhiều nước trên thế giới, Nhà nước chỉ đầu tư khoảng 60% ngân sách y tế, hoặc chỉ đầu tư ban đầu cho việc hình thành bệnh viện. Như vậy, Ngân sách y tế vẫn bị thiếu hụt. Có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề này như sự đóng góp của cộng đồng xã hội, trong đó có biện pháp thu phí của người đến khám, chữa bệnh. Nhưng đôi khi giải pháp này lại vấp phải trở ngại từ mức sống của dân cư. Vì vậy, biện pháp hiệu quả nhất là thực hiện BHYT để giám gánh nặng cho Ngân sách Nhà nước, hỗ trợ cho Ngân sách y tế, khắc phục sự thiếu hụt về tài chính, đảm bảo đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh của người dân. BHYT góp phần nâng cao tính cộng đồng đối với tất cả người dân trong xã hội trên tinh thần “mình vì mọi người, mọi người vì mình” thông qua quy luật số lớn. Vì vậy, mọi thành viên trong xã hội gắn bó với nhau hơn, đặc biệt là gắn bó với các chế độ xã hội. BHYT không ngừng mở rộng đối tượng tham gia, từ đó có sự chia sẻ rủi ro trong cộng đồng những người tham gia BHYT Chính sách BHYT đã thúc đẩy sự phát triển của một lĩnh vực khoa học mới, đó là lĩnh vực kinh tế y tế. BHYT góp phần khôi phục và phát triển hệ thống y tế trường học, thực hiện chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hỗ trợ về tài chính trong tai nạn và bệnh tật cho hàng triệu học sinh cả nước. BHYT đã đóng góp thiết thực vào công tác tăng cường và phát triển y tế cơ sở. II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA BHYT 1. Đối tượng, đối tượng tham gia và phạm vi BHYT 1.1. Đối tượng BHYT BHYT như trên đã nói nhằm mục đích chăm lo sức khoẻ, khám bệnh và chữa bệnh cho nhân dân do đó đối tượng của BHYT chính là sức khoẻ của mọi người được bảo hiểm. Có nghĩa là nếu người được bảo hiểm gặp rủi ro về sức khoẻ (bị ốm đau, bệnh tật…) thì sẽ được cơ quan BHYT xem xét chi trả bồi thường. BHXH ở nước ta hiện có các chế độ: Chế độ trợ cấp thai sản, chế độ trợ cấp ốm đau, chế độ trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, chế độ hưu trí, chế độ tử tuất như vậy cũng thể hiểu BHYT là chế độ khám chữa bệnh (KCB). Hoạt động y tế thường bao gồm: phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng. Tuỳ theo tính chất và phạm vi hoạt động mà BHYT ở mỗi quốc gia có các loại hình như: Phòng bệnh và chữa bệnh Chữa bệnh và phục hồi chức năng Phòng bệnh, chữa bệnh và phục hồi chức năng Ở các quốc gia có các loại hình như vậy thì BHYT được gọi là Bảo hiểm sức khoẻ. Còn nếu chỉ gồm hoạt động chữa bệnh thì chỉ gọi là BHYT. 1.2. Đối tượng tham gia BHYT BHYT nói riêng và bảo hiểm sức khoẻ nói chung là một dịch vụ bảo hiểm rất nổi tiếng trên thế giới và được đông đảo nhân dân tham gia. Bất kì ai có sức khoẻ có nhu cầu Bảo hiểm sức khỏe đều có quyền tham gia bảo hiểm. Như vậy đối tượng tham gia BHYT là mọi người dân có nhu cầu BHYT cho sức khoẻ của mình hoặc cũng có thể là người đại diện cho một tập thể, một đơn vị, cơ quan…đứng ra kí kết hợp đồng BHYT cho tập thể, đơn vị, cơ quan đó. Trong trường hợp này, mỗi cá nhân tham gia BHYT tập thể sẽ được cấp một giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc thẻ bảo hiểm để phục vụ quyền lợi của riêng mình. Văn bản này có thể có tên gọi khác nhau như giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc thẻ bảo hiểm…ở các nước khác nhau. Trong thời kỳ đầu mới triển khai BHYT, thông thường các nước đều có hai nhóm đối tượng tham gia BHYT là bắt buộc và tự nguyện. Hình thức bắt buộc áp dụng đối với công nhân viên chức Nhà nước và một số đối tượng như người về hưu có hưởng lương hưu…Hình thức tự nguyện áp dụng cho mọi thành viên khác trong xã hội có nhu cầu và thường giới hạn trong độ tuổi nhất định tuỳ theo từng quốc gia. 1.3. Phạm vi bảo hiểm BHYT là một chính sách xã hội do Nhà nước tổ chức thực hiện, nhằm huy động sự đóng góp của các cá nhân, tập thể để thanh toán chi phí y tế cho người tham gia bảo hiểm. Thông thường, BHYT hoạt động trên cơ sở quỹ tài chính của mình, nhà nước chỉ hỗ trợ tài chính khi thật cần thiết. Vì hoạt động theo nguyên tắc cân bằng thu chi như vậy nên tuy mọi người dân trong xã hội đều có quyền tham gia BHYT nhưng thực chất BHYT không chấp nhận bảo hiểm cho những người mắc bệnh nan y nếu không có thoả thuận gì thêm. Những người đã tham gia BHYT khi gặp rủi ro về sức khoẻ như bị ốm đau, bệnh tật đều được thanh toán chi phí khám chữa bệnh với nhiều mức độ khác nhau tại các cơ quan y tế. Tuy nhiên nếu khám chữa bệnh trong các trường hợp tự huỷ hoại bản thân, trong tình trạng say, vi phạm pháp luật hoặc một số trường hợp loại trừ theo quy định của BHYT...thì không được cơ quan BHYT chịu trách nhiệm. Ngoài ra, mỗi quốc gia đều có những chương trình sức khoẻ quốc gia khác nhau, trong đó quy định một số loại bệnh mà người đến khám chữa bệnh đó được ngân sách của chương trình (hoặc ngân sách nhà nước) đài thọ chi phí. Cơ quan BHYT cũng không có trách nhiệm BHYT nếu họ khám chữa bệnh thuộc chương trình này. Tuy nhiên, do hoạt động BHYT có hai hình thức bắt buộc và tự nguyện nên có thể có các quy định khác nhau về phạm vi BHYT của hai nhóm đối tượng này. Thông thường phạm vi BHYT của nhóm BHYT tự nguyện linh hoạt hơn nhóm BHYT bắt buộc, do họ được quyền lựa chọn phạm vi BHYT theo nhu cầu. Nhưng do đó công tác quản lý sẽ phức tạp hơn. 2. Phương thức BHYT Căn cứ vào mức độ thanh toán chi phí khám chữa bệnh cho người có thẻ BHYT, BHYT được phân ra: BHYT trọn gói: Là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu phần trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT. BHYT trọn gói, trừ các đại phẫu thuật: Là phương thức BHYT trong đó cơ quan BHYT sẽ chịu trách nhiệm về mọi chi phí y tế thuộc phạm vi BHYT cho người được BHYT, trừ các chi phí y tế cho các cuộc đại phẫu thuật (theo quy định của cơ quan y tế). BHYT thông thường: Là phương thức BHYT trong đó trách nhiệm của cơ quan BHYT được giới hạn tương xứng với trách nhiệm và nghĩa vụ của người được BHYT. Đối với các nước phát triển, mức sống dân cư c
Luận văn liên quan