Đề tài Bội chi ngân sách, Lý luận, thực tiễn và giải pháp

“ Như bà nội trợ, không được tiêu quá số tiền có trong túi. Quốc gia cũng vậy, không được tiêu quá số tiền thu được.” ( Nguyên tổng thống Pháp G. Doumerque, khi tóm tắt lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách “mỗi năm số thu phải ngang với số chi.”). Theo PGS.TS. Trần Đình Ty thì tài chính nhà nước gồm tài chính công và tài chính các doanh nghiệp nhà nước. Nói cách khác, tài chính công là bộ phận nhà nước gắn liền với các hoạt động thuộc chức năng quản lí, điều hành, phục vụ của nhà nước. Tài chính công bao gồm các bộ phận sau :  Ngân sách nhà nước  Ngân hàng nhà nước  Dự trữ nhà nước  Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước  Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước. Nếu nói tài chính công là một bộ phận và là bộ phận rất quan trọng của tài chính nhà nước, thì ngân sách nhà nước là bộ phận cơ bản, cốt lõi nhất của tài chính công. Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho các hoạt động của bộ máy nhà nước từ WT đến địa phương. Ở nước ta, hầu như nguồn ngân sách nhà nước là nguồn duy nhất để phục vụ cho hoạt động của bộ máy nhà nước từ cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính hơn thế nữa, ngân sách nhà nước còn cung ứng nguồn tài chính cho Đảng lãnh đạo hoạt động, tài trợ cho các tổ chức xã hội mà nguồn tài chính của các tổ chức này không đảm bảo. Ngân sách nhà nước là dự toán hàng năm về toàn bộ nguồn tài chính được huy động cho nhà nước, ngân sách nhà nước là tiềm lực tài chính, là sức mạnh của nhà nước. Như vậy, ngân sách nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng chi phối mọi hoạt động của nhà nước. Nhà nước là chủ thể chính quản lý ngân sách nhà nước. Trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu, của nhà nước”, Ăng – ghen đã chỉ ra rằng “ nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp. Nhà nước xuất hiện với tư cách là quyền lực công, đứng ra quản lý, duy trì và phát triển đất nước. Để làm được điều này nhà nước cần nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực của mình, nhà nước quy định các khoản thuế bắt buộc các tổ chức dân cư đóng góp, bên cạnh đó là các khoản thu khác như phí, lệ phí, bán tài sản trong nước, vay nợ trong và ngoài nước tạo nên các khoản thu của nhà nước. Đồng thời nhà nước cũng có những khoản chi cần thiết về quân sự, nhà tù, công trình công cộng, chi thường xuyên, chi đàu tư phát triển tạo nên các khoản chi của nhà nước. Thu là tiền đề và giới hạn của chi. Do đó, vấn đề cân đối ngân sách nhà nước vô cùng quan trọng. Nếu tổng thu ngân sách nhà nước lớn hơn hoặc bằng với tổng chi thì đó là kết quả thật lí tưởng. Ngân sách sẽ thặng dư được sử dụng để chi đầu tư phát triển hoặc tăng dự trữ tài chính và không được sử dụng để chi thường xuyên. . Điều gì sẽ xảy ra khi tổng các khoản chi của nhà nước lớn hơn tổng các khoản thu? Lúc đó, bội chi ngân sách sẽ xuất hiện. Tình trạng bội chi xuất hiện sẽ kéo theo sự bùng nổ lạm phát và gây nên khủng hoảng nền kinh tế. Vậy, bội chi ngân sách nhà nước là gì? Nguyên nhân và giải pháp để khắc phục bội chi như thế nào? Trong phạm vi đề tài, chúng tôi sẽ lần lượt làm rõ những câu hỏi trên.

doc35 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2848 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bội chi ngân sách, Lý luận, thực tiễn và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC MỞ ĐẦU: “ Như bà nội trợ, không được tiêu quá số tiền có trong túi. Quốc gia cũng vậy, không được tiêu quá số tiền thu được.” ( Nguyên tổng thống Pháp G. Doumerque, khi tóm tắt lý thuyết cổ điển về cân bằng ngân sách “mỗi năm số thu phải ngang với số chi.”). Theo PGS.TS. Trần Đình Ty thì tài chính nhà nước gồm tài chính công và tài chính các doanh nghiệp nhà nước. Nói cách khác, tài chính công là bộ phận nhà nước gắn liền với các hoạt động thuộc chức năng quản lí, điều hành, phục vụ của nhà nước. Tài chính công bao gồm các bộ phận sau : Ngân sách nhà nước Ngân hàng nhà nước Dự trữ nhà nước Tài chính các cơ quan hành chính nhà nước Tài chính các đơn vị sự nghiệp nhà nước. Nếu nói tài chính công là một bộ phận và là bộ phận rất quan trọng của tài chính nhà nước, thì ngân sách nhà nước là bộ phận cơ bản, cốt lõi nhất của tài chính công. Ngân sách nhà nước là công cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho các hoạt động của bộ máy nhà nước từ WT đến địa phương. Ở nước ta, hầu như nguồn ngân sách nhà nước là nguồn duy nhất để phục vụ cho hoạt động của bộ máy nhà nước từ cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp, cơ quan tư pháp, cơ quan hành chính… hơn thế nữa, ngân sách nhà nước còn cung ứng nguồn tài chính cho Đảng lãnh đạo hoạt động, tài trợ cho các tổ chức xã hội mà nguồn tài chính của các tổ chức này không đảm bảo. Ngân sách nhà nước là dự toán hàng năm về toàn bộ nguồn tài chính được huy động cho nhà nước, ngân sách nhà nước là tiềm lực tài chính, là sức mạnh của nhà nước. Như vậy, ngân sách nhà nước đóng vai trò vô cùng quan trọng chi phối mọi hoạt động của nhà nước. Nhà nước là chủ thể chính quản lý ngân sách nhà nước. Trong tác phẩm “ Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu, của nhà nước”, Ăng – ghen đã chỉ ra rằng “ nhà nước là sản phẩm của đấu tranh giai cấp. Nhà nước xuất hiện với tư cách là quyền lực công, đứng ra quản lý, duy trì và phát triển đất nước. Để làm được điều này nhà nước cần nguồn lực tài chính. Bằng quyền lực của mình, nhà nước quy định các khoản thuế bắt buộc các tổ chức dân cư đóng góp, bên cạnh đó là các khoản thu khác như phí, lệ phí, bán tài sản trong nước, vay nợ trong và ngoài nước… tạo nên các khoản thu của nhà nước. Đồng thời nhà nước cũng có những khoản chi cần thiết về quân sự, nhà tù, công trình công cộng, chi thường xuyên, chi đàu tư phát triển… tạo nên các khoản chi của nhà nước. Thu là tiền đề và giới hạn của chi. Do đó, vấn đề cân đối ngân sách nhà nước vô cùng quan trọng. Nếu tổng thu ngân sách nhà nước lớn hơn hoặc bằng với tổng chi thì đó là kết quả thật lí tưởng. Ngân sách sẽ thặng dư được sử dụng để chi đầu tư phát triển hoặc tăng dự trữ tài chính và không được sử dụng để chi thường xuyên. . Điều gì sẽ xảy ra khi tổng các khoản chi của nhà nước lớn hơn tổng các khoản thu? Lúc đó, bội chi ngân sách sẽ xuất hiện. Tình trạng bội chi xuất hiện sẽ kéo theo sự bùng nổ lạm phát và gây nên khủng hoảng nền kinh tế. Vậy, bội chi ngân sách nhà nước là gì? Nguyên nhân và giải pháp để khắc phục bội chi như thế nào? Trong phạm vi đề tài, chúng tôi sẽ lần lượt làm rõ những câu hỏi trên. NỘI DUNG CHÍNH 1. Lí luận chung về bội chi ngân sách và các vấn đề liên quan Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu đang có những biến động lớn như: giá dầu tăng cao, khủng hoảng tài chính tại Mỹ, tình trạng lạm phát diễn ra nhiều nước trên thế giới, vấn đề kiềm chế lạm phát đặt ra vô cùng cấp bách không chỉ ở Việt Nam. Vì vậy Xử lý bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) là một vấn đề nhạy cảm, bởi nó không chỉ tác động trước mắt đối với nền kinh tế mà còn tác động đến sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Vậy xử lý bội chi NSNN như thế nào để ổn định vĩ mô, thực hiện hiệu quả các mục tiêu chiến lược về phát triển kinh tế – xã hội, tăng trưởng kinh tế và kiềm chế lạm phát hiện nay? Với đề tài mang tên “Bội chi ngân sách – Lý luận, thực trạng và giải pháp” chúng tôi đưa ra những khái niệm liên quan đến bội chi ngân sách, ngân sách nhà nước, các đặc điểm, tính chất của chúng từ đấy đưa ra những nhận định chủ quan – khách quan về những vấn đề liên quan. 1.1. Ngân sách nhà nước: 1.1.1 Khái niệm: Ngân sách nhà nước, hay ngân sách chính phủ, là một phạm trù kinh tế và là phạm trù lịch sử; là một thành phần trong hệ thống tài chính. Thuật ngữ "Ngân sách nhà nước" được sử dụng rộng rãi trong đời sống kinh tế, xã hội ở mọi quốc gia. Song quan niệm về ngân sách nhà nước lại chưa thống nhất, người ta đã đưa ra nhiều định nghĩa về ngân sách nhà nước tùy theo các trường phái và các lĩnh vực nghiên cứu. Các nhà kinh tế Nga quan niệm: Ngân sách nhà nước là bảng liệt kê các khoản thu, chi bằng tiền trong một giai đoạn nhất định của quốc gia. Luật Ngân sách Nhà nước của Việt Nam đã được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 16/12/2002 định nghĩa: Ngân sách Nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước trong dự toán đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước. Sự hình thành và phát triển của ngân sách nhà nước gắn liền với sự xuất hiện và phát triển của kinh tế hàng hóa - tiền tệ trong các phương thức sản xuất của cộng đồng và nhà nước của từng cộng đồng. Nói cách khác, sự ra đời của nhà nước, sự tồn tại của kinh tế hàng hóa - tiền tệ là những tiền đề cho sự phát sinh, tồn tại và phát triển của ngân sách nhà nước. Ngân sách nhà nước bao gồm ngân sách trung ương và ngân sách địa phương. Ngân sách trung ương là ngân sách của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và các cơ quan khác ở trung ương. Ngân sách địa phương bao gồm ngân sách của đơn vị hành chính các cấp có Hội đồng Nhân dân và Ủy ban Nhân dân. 1.1.2 Đặc điểm: Từ việc phân tích nguồn gốc ra đời và khái niệm của NSNN, chúng ta rút ra một số đặc điểm cơ bản của NSNN: Thứ nhất, việc tạo lập và sử dụng quỹ NSNN luôn gắn với quyền lực của Nhà nước và được Nhà nước tiến hành trên cơ sở luật định. Đặc điểm này thể hiện tính pháp lý tối cao của NSNN. Việc ban hành, sửa đổi, bổ sung hay bãi bỏ một khoản thu, chi nào của NSNN cũng chỉ có một cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước - Quốc hội quyết định. Mặt khác tính quyền lực của Nhà nước đối với NSNN còn thể hiện ở chỗ Chính phủ không thể thực hiện thu, chi NS một cách tuỳ tiện mà phải dựa trên cơ sở pháp lý đã được xác định trong các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực của Nhà nước ban hành. Bởi vì: - Quá trình tạo lập quỹ NSNN (thu NSNN) chính là quá trình phân phối lại lợi ích kinh tế giữa Nhà nước và các chủ thể tham gia phân phối, trong đó Nhà nước điều tiết một phần lợi ích kinh tế từ các chủ thể tham gia phân phối là các tổ chức và cá nhân trong xã hội. Tuy nhiên, trong thực tế không phải tất cả các tổ chức, cá nhân trong xã hội đều sẵn sàng chia sẻ lợi ích của mình cho Nhà nước. Do vậy, để điều tiết được một phần thu nhập của xã hội nhằm tạo lập được quỹ NSNN thì Nhà nước phải dùng quyền lực của mình để buộc các tổ chức, cá nhân trong xã hội đóng góp.  - Quá trình sử dụng quỹ NSNN (chi NSNN) cũng chính là quá trình phân phối lợi ích nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước. Quá trình này tác động đến lợi ích kinh tế của các chủ thể ở mọi lĩnh vực kinh tế-xã hội do vậy để đảm bảo tính thống nhất, kỷ cương trong đời sống kinh tế xã hội để Nhà nước hoàn thành chức năng của mình thì các khoản chi NSNN phải được thể hiện bằng quyền lực của Nhà nước tức là luật pháp. Thứ hai, NSNN luôn gắn chặt với sở hữu Nhà nước, nhằm thực hiện các chức năng của Nhà nước, luôn chứa đựng lợi ích chung, lợi ích công cộng.  Như phần trên đã phân tích, hoạt động NSNN được biểu hiện cụ thể bằng các hoạt động thu và chi, trong đó:  - Thu NSNN chính là quá trình tạo lập và sử dụng quỹ tiền tệ đặc biệt- quỹ này thuộc sở hữu của Nhà nước.  - Chi NSNN, chính là việc sử dụng quỹ này chi tiêu cho những hoạt động của bộ máy quản lý hành chính, quốc phòng, an ninh, chi cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng, các vấn đề về phúc lợi công cộng, về sự nghiệp xã hội trước mắt và lâu dài. Tất cả những khoản chi nói trên nhằm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của nhà nước.  Kết quả của các khoản chi nói trên không ngoài mục đích đảm bảo cho một xã hội ổn định, nền kinh tế tăng trưởng bền vững và phúc lợi công cộng được nâng cao. Do vậy hoạt động của NSNN luôn chứa đựng lợi ích công cộng, lợi ích chung toàn xã hội.  Thứ ba, hoạt động thu, chi NSNN được thực hiện theo nguyên tắc không hoàn trả trực tiếp là chủ yếu. Tính chất không hoàn trả trực tiếp của hoạt động thu, chi NSNN được thể hiện trên các khía cạnh sau: Một là: Sự chuyển giao thu nhập của xã hội vào quỹ NSNN chủ yếu thông qua hình thức thuế. Đó là hình thức thu- nộp bắt buộc, không mang tính hoàn trả trực tiếp. Có nghĩa là mức thu nhập mà người nộp chuyển giao cho Nhà nước không hoàn toàn dựa trên mức độ lợi ích mà người nộp thuế thừa hưởng từ những dịch vụ và hàng hoá công cộng do Nhà nước cung cấp. Ngược lại, người nộp thuế cũng không có quyền đòi hỏi Nhà nước cung cấp hàng hoá, dịch vụ công cộng trực tiếp cho mình mới nộp thuế cho Nhà nước;  Hai là: Mọi người dân sẽ nhận được một phần các hàng hoá, dịch vụ công cộng mà Nhà nước đã cung cấp cho cả cộng đồng. Phần giá trị mà người đó được hưởng thụ không nhất thiết tương đồng với khoản đóng góp mà họ đã nộp vào NSNN.  Ngoài ba đặc điểm nêu trên, NSNN cũng có những đặc điểm như các quỹ tiền tệ khác (thể hiện tính mục đích và tính vận động thường xuyên). Tuy nhiên, nét riêng biệt của NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung của Nhà nước là nó được chia thành nhiều quỹ nhỏ, có tác dụng riêng và chỉ sau đó NSNN mới được chi dùng cho những mục đích nhất định đã định trước. Nghiên cứu những đặc điểm của NSNN không những cho phép tìm được phương thức và phương pháp quản lý NSNN hiệu quả hơn, mà còn giúp ta nhận thức và phát huy tốt hơn vai trò của Ngân sách nhà nước: - Là công cụ tài chính quan trọng nhất để cung ứng nguồn tài chính cho hoạt động của bộ máy nhà nước. - Là công cụ thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định và bền vững - Là công cụ để điều tiết thị trường, bình ổn giá cả và kiềm chế lạm phát - Là công cụ hữu hiệu của Nhà nước để điều chỉnh trong lĩnh vực thu nhập, thực hiện công bằng xã hội Chúng ta vừa được làm quen với những vấn đề cơ bản nhất về NSNN (khái niệm, đặc điểm, vai trò). Tuy nhiên, đó chỉ là một mặt lý thuyết bởi ngoài chúng ra thì còn những bộ mặt liên quan khác thực tế, cơ bản hơn của nền tài chính quốc gia và cũng là điều kiện tiên quyết để đảm bảo sự ổn định lành mạnh cho nền tài chính quốc gia, đó là Cân đối ngân sách, bội chi ngân sách, thiếu hụt – tạm thời thiếu hụt ngân sách. Chúng ta sẽ cùng làm rõ những vấn đề đó ở các phần tiếp theo: 1.2. Cân đối ngân sách 1.2.1 Khái niệm: Ngân sách nhà nước là một bảng tài chính của một quốc gia trong đó dự trù các khoản thu và chi được thực hiện trong một năm. Trên thực tế, quá trình thu chi ngân sách nhà nước luôn trong trạng thái biến đổi không ngừng, nó bị ảnh hưởng bởi sự vận động của nền kinh tế quốc gia, có khi những khoản thu dự kiến không đủ đpá ứng nhu cầu chi tiêu trong năm đó, hoặc có khi mức thu lại vươn xa những khoản chi. Do vậy, các khoản chi tiêu và ngân sách nhà nước phải được tính toán chính xác và phù hợp với thực tế để đảm bảo cho ngân sách hà nước trong trạng thái cân bằng, ổn định. Thu và chi ngân sách là hai vấn đề quan trọng để đảm bảo cho ngân sách nhà nước được cân đối, hai vấn đề này nằm trong mối tương quan giữa tài chính và kinh tế, vì kinh tế có phát triển thì nhà nước mới huy động được nguồn thu vào ngân sách nhà nước, còn kinh tế không ổn, kém phát triển thfi nguồn thu vào ngân sách nhà nước giảm và còn phải chi nhiều để hỗ trợ. Điều đó dễ dấn đến ngân sách nhà nước bị mất cân đối. - Xét về bản chất, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối giữa các nguồn thu mà nhà nước huy động được tập trung vào ngân sách nhà nước trong một năm và sự phân phối, sử dụng nguồn thi đó thảo mãn nhu cầu tiêu dung của nhà nước trong năm đó. - Xét về góc độ tổng thể, cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối tương quan giữa thu và chi trong một tài khoá. Nó không chỉ là sự tương quan giữa tổng thu và tổng chi mà còn thể hiện sự phân bổ hợp lý giữa cơ cấu các khoản thu và cơ cấu các khoản chi của ngân sách nhà nước. - Xét trên phương diện phân cấp quản lý nhà nước, cân đối ngân sách nhà nước là cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn thu giữa các cấp ngân sách, giữa trung ương và địa phương và giữa các địa phương với nhau để thực hiện chức năng và nhiệm vụ được giao. Cân đối ngân sách không chỉ đơn thuần là sự cân bằng về số lượng biểu hiện qua các con số giữa tổng thu và tổng chi, mà nó còn biểu hiện qua các khía cạnh khác nhau. Tựu chung lại, ta có thể hiểu: Cân đối ngân sách nhà nước là một bộ phận quan trọng của chính sách tài khoá, phản ánh sự điều chỉnh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà nước nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội mà nhà nước đã đề ra trong từng lĩnh vực và địa bàn cụ thể. 1.2.2. Đặc điểm của cân đối ngân sách nhà nước: - Cân đối ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và chi ngân sách nhà nước trong một năm nhằm đạt được mục tiêu đã đề ra. - Cân đối giữa tổng thu và tổng chi,giữa các khoản thu và khoản chi, cân đối về phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp trong hệ thống ngân sách nhà nước, đồng thời kiểm soát được tình trạng ngân sách nhà nước, đặc biệt là tình trạng bội chi ngân sách nhà nước. - Cân đối ngân sách nhà nước mang tính định lượng và tính tiên liệu. trong quá trình cân đối ngân sách nhà nước, người quản lý pahỉ xác định các con số thu, chi ngân sách nhà nước so với tình hình thu nhập trong nước, chi tiết hoá từng khoản thu, chi nhằm đưa ra cơ chế sử dụng và quản lý nguồn thu phù hợp với hoạt động chi, từ đó làm cơ sở phân bổ và chuyển giao nguồn lực giữa các cấp ngân sách. Cân đối ngân sách nhà nước phải dự đoán được các khảon thu, chi ngân sách một cách tổng thể để đảm bảo thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội. 1.3. Bội chi ngân sách (Thâm hụt ngân sách) 1.3.1 Khái niệm: Thâm hụt ngân sách trong kinh tế học vĩ mô và kinh tế học công cộng là tình trạng các khoản chi của ngân sách Nhà nước (ngân sách chính phủ) lớn hơn các khoản thu, phần chênh lệch chính là thâm hụt ngân sách. Trường hợp ngược lại, khi các khoản thu lớn hơn các khoản chi được gọi là thặng dư ngân sách. Thu của chính phủ không bao gồm khoản đi vay. Đi vay chính là một cách mà chính phủ tài trợ cho thâm hụt ngân sách. Trong lịch sử, phát hành thêm tiền đã từng là một cách tài trợ cho thâm hụt ngân sách, nhưng do hậu quả nghiêm trọng của nó là dẫn đến lạm phát ở mức cao nên ngày nay cách này hầu như không được chính phủ của bất cứ quốc gia nào sử dụng nữa. Do chính phủ bù đắp cho thâm hụt ngân sách bằng cách đi vay, nên lũy kế các khoản thâm hụt ngân sách chính phủ đến một thời điểm nào đó chính là nợ chính phủ. Ở đây chúng ta cần chú ý để phân biệt bội chi ngân sách với một khái niệm khác thường hay nhầm lẫn với nó, đó chính là khái niệm tạm thời thiếu hụt ngân sách. Theo quy định của Luật ngân sách nhà nước mà cụ thể tại khoản 1 Điều 4 Nghị định 60/2003/NĐ-CP: “Bội chi ngân sách nhà nước là bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh lệch thiếu giữa tổng số chi ngân sách trung ương và tổng số thu ngân sách trung ương của năm ngân sách” (thâm hụt) chứ không phải là tình trạng tạm thời thiếu hụt ngân sách. Tình trạng tạm thời thiếu hụt ngân sách xảy ra do nguồn thu chậm hoặc do nhiều nhu cầu chi trong cùng thời điểm dẫn đến mất cân đối tạm thời về quỹ ngân sách. Việc giải quyết tình trạng bội chi ngân sách thương được xử lý bằng việc vay vốn ở cả trong nước (phát hành trái phiếu) và vay vốn nước ngoài hoặc là phát hành tiền. Hơn nữa, bội chi ngân sách nhà nước được xác định vào cuối năm ngân sách khác với tạm thời thiếu hụt ngân sách là việc nhà nước không có khả năng chi trả tại một thời điểm nhất định trong năm ngân sách va thông thường tình trạng này sẽ được  giải quyết bằng cách tạm ứng từ quỹ dự trữ tài thời điểm nào đó trong năm  chính. Ngoài ra cần chú ý rằng trong khi bội chi ngân sách chỉ xảy ra ở ngân sách trung ương thì việc tạm thời thiếu hụt ngân sách có thể xảy ra ở tất cả các cấp ngân sách, từ ngân sách trung ương cho đên ngân sách địa phương. Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm Thu Chi A. Thu thường xuyên (thuế, phí, lệ phí). B. Thu về vốn (bán tài sản nhà nước). C. Bù đắp thâm hụt. – Viện trợ. – Lấy từ nguồn dự trữ. Vay thuần (= vay mới – trả nợ gốc). D. Chi thường xuyên. E. Chi đầu tư. F. Cho vay thuần (= cho vay mới – thu nợ gốc). A + B +C = D + E + F Công thức tính bội chi NSNN của một năm sẽ như sau: Bội chi NSNN = Tổng chi – Tổng thu = (D + E + F) – (A + B) = C 1.3.2 Phân loại: Tài chinh công hiện đại phân loại thâm hụt tài chính (hay còn gọi là bội chi ngân sách nhà nước thành 2 loại: thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ. Thâm hụt cơ cấu: Là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô chi tiêu chogiáo dục, quốc phòng,... Thâm hụt chu kỳ: là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh tế, nghĩa là bởi mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ khi nền kinh tế suy thoái, tỷ lệ thất nghiệp tăng sẽ dẫn đến thu ngân sách từ thuế giảm xuống trong khi chi ngân sách cho cho trợ cấp thất nghiệp tăng lên. Giá trị tính ra tiền của thâm hụt cơ cấu và thâm hụt chu kỳ được tính toán như sau: Ngân sách thực có: Liệt kê các khoản thu, chi và thâm hụt tính bằng tiền trong một giai đoạn nhất định (thường là một quý hoặc một năm). Ngân sách cơ cấu: tính toán thu, chi và thâm hụt của chính phủ sẽ là bao nhiêu nếu nền kinh tế đạt mức sản lượng tiềm năng. Ngân sách chu kỳ: Là chênh lệch giữa ngân sách thực có và ngân sách cơ cấu. Việc phân biệt giữa ngân sách cơ cấu và ngân sách chu kỳ phản ánh sự khác nhau giữa chính sách tài chính: chính sách ổn định tùy biến và chính sách ổn định tự động. Việc phân biệt hai loại thâm hụt trên đây có tác dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế 2. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách đến nền kinh tế 2.1. Bội chi ngân sách – nguyên nhân chính gây ra lạm phát Theo PGS, TS Lê Quốc Lý, Vụ trưởng Vụ Tài chính - Tiền tệ ( Bộ Kế hoạch và Đầu tư): Chính những yếu kém trong ngân sách (thu NSNN không đủ chi và bù đắp thâm hụt ngân sách không chỉ phải vay trong và ngoài nước mà còn phải lấy từ nguồn tiền phát hành) là một yếu tố quan trọng gây nên lạm phát... Thực tế trong những năm gần đây, mặc dù chúng ta đã kiểm soát nguồn bội chi NSNN từ hai nguồn là vay nước ngoài và vay trong nước nên sức ép tiền cung ứng thêm ra thị trường là không có, nhưng sức ép tăng chi tiêu của Chính phủ cho tiêu dùng thường xuyên và cho đầu tư lại tăng lên. Giải pháp để kiểm soát bội chi NSNN và kiềm chế lạm phát, ông Lý nhấn mạnh: Vấn đề đặt ra hiện nay là việc rà soát, cắt giảm chi tiêu NSNN chưa thật cần bằng việc đề ra các tiêu chí, tiêu chuẩn để cắt bỏ, đình hoãn những công trình đầu tư chưa thật bức bách, kém hiệu quả hoặc chưa khởi công. Đây là một trong những nhiệm vụ cực kỳ khó khăn, nhưng với số NSNN hiện có ( với tình hình trợt giá như hiện nay) thì sẽ không thể có điều kiện thực hiện được hết các dự án, công trình đã bố trí.... Ngân sách nhà nước có mối quan hệ nhân quả với lạm phát. Thâm hụt ngân sách quá mức có thể dẫn đến lạm phát cao. Đặc biệt nếu bù đắp thâm hụt ngân sách bằng việc phát hành tiền sẽ tất yếu dẫn đến lạm phát. Trường hợp Việt Nam, nếu chính phủ duy trì chính sách ngân sách chặt (thâm hụt không quá 2,5% GDP) thì dường như không có gì lo ngại đối với lạm phát. Thực ra do giới hạn của ngân sách, phần lớn các phần chi cho các dự án lớn của nhà nước được tài trợ thông qua các ngân hàng thương mại quốc doanh. Trong kh
Luận văn liên quan