Đề tài Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thực tiễn áp dụng tại Việt Nam

Trong cuộc sống ngày nay, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động của những sự vật như máy móc, phương tiện, các hệ thống sản xuất trong các nhà máy, xí nghiệp đã và đang đóng vai trò vô cùng quan trọng, thay đổi một cách căn bản cuộc sống của con người. Lợi ích mà những sự vật trên mang lại cho con người là hết sức to lớn. Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó, khi hoạt động, vận hành, những sự vật kể trên luôn ẩn chứa trong mình nguy cơ gây thiệt hại, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Những thiệt hại trên hoàn toàn mang tính khách quan, nằm ngoài sự kiểm soát của con người, dù cho con người đã tìm cách để vận hành, điều khiển chúng một cách an toàn nhất có thể. Chính từ nguyên nhân này, trong khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” dùng để gọi chung cho các sự vật tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại như trên. Trên cơ sở đánh giá mức độ tiềm ẩn nguy cơ, mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Dưới đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu “bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” dưới hai góc độ lý luận và thực tiễn, để có thể hiểu rõ hơn về trách nhiệm pháp lý đặc biệt này.

doc22 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2390 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra thực tiễn áp dụng tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT BTTH : Bồi thường thiệt hại BLDS : Bộ luật Dân sự TAND : Tòa án nhân dân MỤC LỤC trang ĐẶT VẤN ĐỀ 4 NỘI DUNG A/ Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại(BTTH) do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : I, Một số khái niệm cơ bản : 4 II, Đặc điểm của trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 5 1. Cơ sở pháp lý : 6 2. Về chủ thể phải BTTH : 6 3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 6 III, Những quy định của pháp luật hiện hành về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 1. Các quy định của pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ : 8 2. Các dấu hiệu để xác định nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại : 9 3. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm của chủ thể trong BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 10 4. Ý nghĩa pháp lý của quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 13 B/ Thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 14 I, Vụ việc thứ nhất : 14 II, Vụ việc thứ hai : 16 C/ Một vài ý kiến nhằm bổ sung và khắc phục những điểm còn thiếu sót trong quy định của pháp luật về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 18 KẾT LUẬN 20 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 22 ĐẶT VẤN ĐỀ Trong cuộc sống ngày nay, chúng ta có thể thấy rằng hoạt động của những sự vật như máy móc, phương tiện, các hệ thống sản xuất trong các nhà máy, xí nghiệp…đã và đang đóng vai trò vô cùng quan trọng, thay đổi một cách căn bản cuộc sống của con người. Lợi ích mà những sự vật trên mang lại cho con người là hết sức to lớn. Tuy nhiên, cái gì cũng có mặt trái của nó, khi hoạt động, vận hành, những sự vật kể trên luôn ẩn chứa trong mình nguy cơ gây thiệt hại, đe dọa tới sự an toàn về tính mạng, sức khỏe, tài sản của con người. Những thiệt hại trên hoàn toàn mang tính khách quan, nằm ngoài sự kiểm soát của con người, dù cho con người đã tìm cách để vận hành, điều khiển chúng một cách an toàn nhất có thể. Chính từ nguyên nhân này, trong khoa học pháp lý xuất hiện thuật ngữ “nguồn nguy hiểm cao độ” dùng để gọi chung cho các sự vật tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại như trên. Trên cơ sở đánh giá mức độ tiềm ẩn nguy cơ, mối liên quan giữa hành vi của con người với thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, pháp luật đã đề cập đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra. Dưới đây chúng ta sẽ đi vào tìm hiểu “bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” dưới hai góc độ lý luận và thực tiễn, để có thể hiểu rõ hơn về trách nhiệm pháp lý đặc biệt này. NỘI DUNG A/ Một số vấn đề lý luận về bồi thường thiệt hại(BTTH) do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : I, Một số khái niệm cơ bản : * Bồi thường thiệt hại : là sự gánh chịu một hậu quả bất lợi bằng việc bù đắp tổn thất cho người khác (1) : Theo . * Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra được hiểu là trách nhiệm của chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho người khác, phải bồi thường thiệt hại kể cả trong trường hợp chủ sở hữu hay chiếm hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đó không có lỗi. * Nguồn nguy hiểm cao độ : là những vật chất nhất định do pháp luật quy định luôn tiềm ẩn nguy cơ gây thiệt hại cho con người, con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối (2) : Theo Giáo trình Luật dân sự Việt Nam tập 2, TS. Lê Đình Nghị (chủ biên), Nxb. Giáo dục. . Khoản 1 điều 623 Bộ luật dân sự(BLDS) 2005 có nêu : “Nguồn nguy hiểm cao độ bao gồm phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động, vũ khí, chất nổ, chất cháy, chất độc, chất phóng xạ, thú dữ và các nguồn nguy hiểm cao độ khác do pháp luật quy định”(3) : Trích khoản 1 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. Lao Động – Xã Hội. . Theo quy định này, nguồn nguy hiểm cao độ là những vật, thú dữ… có tiềm ẩn những nguy cơ gây thiệt hại mà không phải bao giờ con người cũng có thể lường trước được và ngăn chặn. II, Đặc điểm của trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm pháp lý thuộc trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng do các cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng. Ngoài những đặc điểm của trách nhiệm pháp lý nói chung, trách nhiệm BTHH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra còn có những đặc điểm riêng sau đây : 1. Cơ sở pháp lý : Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là một loại trách nhiệm dân sự và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự, được quy định trong (BLDS) 2005 tại điều 623 và tại Mục III Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Tòa án Nhân dân Tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng và các văn bản pháp luật khác có liên quan. 2. Về chủ thể phải BTTH : Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra; nếu chủ sở hữu đã giao cho người khác chiếm hữu (mượn, thuê…), sử dụng (giao ô tô cho lái xe theo hợp đồng với chủ sở hữu) thì những người này phải bồi thường, trừ trường hợp có thỏa thuận khác, những thỏa thuận này không được vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức của xã hội. 3. Điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : * Có hoạt động gây thiệt hại trái pháp luật do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Việc gây thiệt hại trái phát luật là những thiệt hại do sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ tạo ra, pháp luật không cho phép. Những thiệt hại về tài sản của các tổ chức, của nhà nước ; những thiệt hại về tài sản, sức khỏe, tính mạng của cá nhân là nhóm khách thể được pháp luật bảo vệ. Những thiệt hại về quyền, lợi ích chính đáng của chủ thể trong xã hội do chính sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ gây ra làm phát sinh trách nhiệm bồi thường của các chủ thể có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ đó. Ngay ở tên của điều 623 BLDS “Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra” đã cho thấy thiệt hại ở đây là do chính nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, do những hoạt động chủ quan nội tại của nguồn nguy hiểm đó dẫn đến thiệt hại, nếu thiệt hại liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ mà không phải do tự thân nguồn nguy hiểm đó gây thiệt hại thì trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không phát sinh mà đây là trách nhiệm BTTH thông thường. Ta có thể thấy một số ví dụ về hoạt động tự thân nguồn nguy hiểm cao độ như xe ô tô đang đi trên đường thì bị mất phanh, cần cẩu đang bốc dỡ hàng thì bị gãy trục… Cũng phải nhìn nhận rằng để phát sinh trách nhiệm trên , nguồn nguy hiểm cao độ phải đang ở trạng thái “đang hoạt động”, vì khi ở trạng thái hoạt động, vận hành thì nguồn nguy hiểm cao độ mới có khả năng gây thiệt hại do những hoạt động nội tại. Ví dụ như một chiếc ô tô đang để trong gara (không hoạt động) bị đứt phanh với cũng chiếc ô tô ấy bị đứt phanh trên đường đi thì ở trường hợp sau mức độ nguy hiểm mà ô tô gây ra sẽ là rất lớn, còn mức độ nguy hiểm ở trường hợp trước gần như bằng không. * Có thiệt hại xảy ra : Trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra cũng là một loại trách nhiệm BTTH, và vì vậy thiệt hại xảy ra được coi là điều kiện tiên quyết để phát sinh trách nhiệm BTTH. Nếu không có thiệt hại xảy ra thì sẽ không phát sinh trách nhiệm bồi thường. Tuy cũng là một loại trách nhiệm BTTH nhưng trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra có điểm khác so với trách nhiệm BTTH chung, đó là không có trách nhiệm bồi thường liên quan đến danh dự, nhân phẩm, vì nguồn nguy hiểm gây thiệt hại là do hoạt động của chúng, do vậy những thiệt hại gây ra chỉ có thể là tài sản, sức khỏe hay tính mạng. Nguồn nguy hiểm cao độ do tính chất nguy hiểm của nó có thể gây thiệt hại cho bất kỳ ai: chủ sở hữu, người đang chiếm hữu, vận hành, những người không có liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ… Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ chỉ được đặt ra khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại cho những “người xung quanh”, là những người khi xảy ra thiệt hại không có quan hệ lao động hoặc sở hữu liên quan đến nguồn nguy hiểm cao độ nhằm để bảo vệ quyền được bồi thường cho những người này. * Có mối quan hệ nhân quả giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra : Quan hệ giữa sự hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ và thiệt hại xảy ra phải mang tính chặt chẽ, hoạt động của nguồn nguy hiểm là nguyên nhân trực tiếp gây thiệt hai, không có yếu tố lỗi của con người. Mối quan hệ nhân quả này chính là cơ sở xác định trách nhiệm bồi thường của chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ. * Về điều kiện lỗi trong trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra không đặt ra bởi đây là trách nhiệm pháp lý đặc biệt, vẫn phát sinh khi có đủ 3 điều kiện ở trên mà không cần yếu tố lỗi, và chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường cả khi không có lỗi, trừ các trường hợp quy định tại khoản 3 điều 623 BLDS : “ a) Thiệt hại xảy ra hoàn toàn do lỗi cố ý của người bị thiệt hại; b) Thiệt hại xảy ra trong trường hợp bất khả kháng hoặc tình thế cấp thiết, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”(4) : Trích khoản 3 điều 623 BLDS 2005, Nxb. Lao Động – Xã Hội. III, Những quy định của pháp luật hiện hành về BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : 1. Các quy định của pháp luật về nguồn nguy hiểm cao độ : Đoạn 1 khoản 1 điều 623 BLDS không đưa ra một định nghĩa khái quát về nguồn nguy hiểm cao độ mà chỉ có quy định mang tính liệt kê như gồm các phương tiện giao thông vận tải cơ giới, hệ thống tải điện, nhà máy công nghiệp đang hoạt động… Khái niệm cụ thể của các loại nguồn nguy hiểm trên được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, như Luật Giao thông đường bộ 2008, Bộ Luật Hàng hải 2005, Luật Điện lực… Do không mang tính khái quát nên điều 623 còn đề cập đến “nguồn nguy hiểm cao độ khác” do pháp luật quy định. Đây là quy định mang tính mở của pháp luật, vì nguồn nguy hiểm cao độ trên thực tế rất đa dạng, khó có thể liệt kê hết được. Ở đây, theo điều 623 BLDS chúng ta có thể hiểu nguồn nguy hiểm cao độ là những vật đang tồn tại hiện hữu mà hoạt động vận hành, sản xuất, vận chuyển, bảo quản… chúng luôn chứa đựng khả năng gây thiệt hại cho môi trường và những người xung quanh. Tính nguy hiểm của nó thể hiện ở chỗ con người không thể kiểm soát được một cách tuyệt đối nguy cơ gây thiệt hại. Trên thực tế có những sự vật chưa được pháp luật quy định là nguồn nguy hiểm cao độ mặc dù có đặc điểm của nguồn nguy hiểm cao độ là ẩn chứa nguy cơ gây thiệt hại khi hoạt động, ví dụ như xe đạp điện, xe máy có dung tích xi lanh nhỏ hơn 50cm3, các loài ong độc, rắn độc… Theo đó, việc xác định một vật có được coi là nguồn nguy hiểm cao độ hay không ngoài căn cứ vào các quy định của pháp luật thì cũng cần căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm của vật đó. Ở đoạn 2 khoản 1 điều 623 BLDS quy định : “Chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuân thủ các quy định bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật.”(5) : Trích khoản 1 điều 623 BLDS 2005, Nxb.Lao Động – Xã Hội. , do tính chất tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại của nguồn nguy hiểm cao độ, quy định này đòi hỏi chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ phải tuyệt đối tuân thủ các quy định của pháp luật trong từng trường hợp, điều kiện và hoàn cảnh cụ thể. 2. Các dấu hiệu để xác định nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại : Căn cứ quy định tại điều 623, trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra khi thỏa mãn hai dấu hiệu: Một là, những sự vật được coi là nguồn nguy hiểm cao độ phải đang trong tình trạng vận hành, hoạt động, ví dụ như nhà máy công nghiệp đang sản xuất, hệ thống tải điện đang cung cấp điện… vì nguồn nguy hiểm cao độ không hoạt động , không vận hành thì không có khả năng gây thiệt hại. Hai là, phải có thiệt hại thực sự xảy ra do chính sự tác động của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ. Việc xác định nguyên nhân gây thiệt hại là do hành vi có lỗi của con người hay do tự thân nguồn nguy hiểm cao độ có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định trách nhiệm BTTH, vì trách nhiệm được áp dụng trong hai trường hợp này là hoàn toàn khác nhau. 3. Các quy định của pháp luật về trách nhiệm của chủ thể trong BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : * Trường hợp chủ thể phải chịu trách nhiệm bồi thường là chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ : Khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ, trước tiên phải nghĩ đến nghĩa vụ của chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ trong việc tôn trọng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể bị thiệt hại, vì vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trước hết được đặt ra cho chủ sở hữu, trừ trường hợp chủ sở hữu chứng minh được trách nhiệm thuộc về người khác. Trong trường hợp chủ sở hữu đang trực tiếp chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ, căn cứ khoản khoản 2 Điều 623 BLDS 2005 cũng như khoản a Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/07/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng, chủ sở hữu hợp pháp của nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp chủ sở hữu chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng các quy định của pháp luật cho người khác, áp dụng quy định tại khoản 2 điều 623 BLDS và khoản b điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP, những người được chuyển giao quyền phải chịu trách nhiệm bồi thường khi nguồn nguy hiểm cao độ gây thiệt hại, trừ khi có thỏa thuận khác không trái pháp luật, đạo đức xã hội hoặc nhằm trốn tránh việc bồi thường. Trên thực tế, có nhiều trường hợp chủ sở hữu đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng thực tế vẫn là người khai thác công dụng, hưởng lợi từ tài sản đó mang lại, như trong trường hợp công ty vận tải chuyển giao xe cho các tài xế thuộc biên chế của công ty để thực hiện công việc, do đó, trường hợp nguồn nguy hiểm đã được chủ sở hữu giao cho người khác thì cần phải xác định trong trường hợp cụ thể đó người được giao nguồn nguy hiểm cao độ có phải là người chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ hay không để xác định ai là người có trách nhiệm bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản đ Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP. Trong trường hợp này nếu lái xe gây thiệt hại trong lúc thực hiện nhiệm vụ do công ty giao thì công ty vận tải ở đây là chủ thể phải chịu trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra (chiếc xe), còn nếu lái xe gây thiệt hại không liên quan đến nhiệm vụ được giao thì lái xe phải chịu trách nhiệm BTTH theo điều 623 BLDS. Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cho người khác nhưng sự chuyển giao này không tuân theo đúng các quy định của pháp luật và thông qua các giao dịch dân sự như cho thuê, cho mượn... thì khi có thiệt hại xảy ra trên thực tế do hoạt động nội tại của bản thân nguồn nguy hiểm cao độ thì căn cứ khoản b Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP, thì chủ sở hữu nguồn nguy hiểm cao độ sẽ là người phải chịu trách nhiệm bồi thường. Bởi khi chuyển giao nguồn nguy hiểm cao độ, chủ sở hữu đã biết trước tính nguy hiểm mà tài sản của mình có thể gây ra, đồng thời, về ý chí, chủ sở hữu hoàn toàn nhận thức được việc chuyển giao là trái pháp luật. * Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại : Lại nhắc lại về điều kiện phát sinh trách nhiệm BTTH do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, thiệt hại xảy ra phải có mối quan hệ nhân quả với sự hoạt động tự thân của nguồn nguy hiểm cao độ, tuy nhiên trong trường hợp tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hay do lỗi cố ý của người bị hại thì thiệt hại xảy ra hoàn toàn không bắt nguồn từ hoạt động của nguồn nguy hiểm cao độ. Do đó, theo khoản 3 điều 623 và khoản c điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP, trong trường hợp thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra trong tình thế cấp thiết, sự kiện bất khả kháng hoặc do lỗi cố ý của người bị thiệt hại, chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ không phải bồi thường thiệt hại * Bồi thường thiệt hại trong trường hợp nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật : Chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ là hành vi chiếm hữu không có căn cứ pháp luật quy định tại Điều 183 BLDS 2005 ví dụ như: chuyển giao quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản thông qua giao dịch dân sự vi phạm các điều kiện có hiệu lực theo Điều 122 BLDS 2005; nguồn nguy hiểm cao độ có được do trộm, cướp, hoặc các hành vi chiếm đoạt tài sản khác; ... Khi nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật, khoản 4 Điều 623 BLDS 2005 và khoản d Điều 2 Mục III Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao số 03/2006/NQ-HĐTP quy định thành hai trường hợp sau : Thứ nhất, “ người chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, nếu chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng hợp pháp không có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật ( đã tuân thủ các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ theo đúng quy định của pháp luật ).”(6): Trích điểm d khoản 2 Mục III Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng Tòa án Nhân dân Tối cao về hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS 2005 về BTTH ngoài hợp đồng. Như vậy, nếu nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng thông qua hành vi trái pháp luật bao gồm trộm, cướp hoặc các hình thức chiếm đoạt tài sản khác ví dụ như xe máy có được do trộm cắp, tàu thuyền cướp được ... thì khi có thiệt hại xảy ra do nguồn nguy hiểm cao độ thì người đang chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ bất hợp pháp phải chịu trách nhiệm bồi thường. Thứ hai, “ khi chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ cũng có lỗi trong việc để nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì phải liên đới bồi thường thiệt hại.”(7): Trích khoản 4 Điều 623 BLDS 2005, Nxb. Lao Động – Xã Hội. Nếu chủ sở hữu hợp pháp nguồn nguy hiểm cao độ đã không thực hiện đúng các quy định về bảo quản, trông giữ, vận chuyển, sử dụng nguồn nguy hiểm cao độ dẫn đến việc nguồn nguy hiểm cao độ bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật thì cũng phải chịu một phần trách nhiệm trong việc BTTH do nguồn nguy hiểm bị chiếm hữu, sử dụng trái pháp luật gây ra. 4. Ý nghĩa pháp lý của quy định về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra là loại trách nhiệm đặc biệt bởi lẽ thiệt hại xảy ra không phải do hành vi và do lỗi của con người mà do hoạt động của những sự vật mà hoạt động của chúng luôn tiềm ẩn khả năng gây thiệt hại. Mặc dù chủ sở hữu hoặc người chiếm hữu nguồn nguy hiểm cao độ có thể không có lỗi đối với thiệt hại nhưng để bảo đảm quyền lợi hợp pháp cho người bị thiệt hại, pháp luật vẫn buộc họ có trách nhiệm bồi thường. Việc pháp luật ghi nhận điều luật này buộc chủ sở hữu, người được chủ sở hữu giao chiếm hữu, sử dụng đúng pháp luật nguồn nguy hiểm cao độ phải có ý thức, trách nhiệm trong quá trình quản lý, sử dụng, bảo quản, vận hành các nguồn nguy hiểm cao độ này, nhằm hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại mà các nguồn nguy hiểm này có thể gây ra cho môi trường và cho những người xung quanh. B/ Thực tiễn về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra : Để có thể hiểu hơn về việc áp dụng những quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại do nguồn nguy hiểm cao độ gây ra, chúng ta hãy đi vào xem xét những ví dụ cụ thể dưới đây : I, Vụ việc thứ nhất : * Vụ việc: lúc 21g15 ngày 16/6/2007, anh Trần Hữu Cường (26 tuổi, ở thôn Mỹ Hòa, xã Hòa Hiệp Bắc, huyện Đông Hòa) điều khiển xe máy ch
Luận văn liên quan