Đề tài Chất thải rắn nông thôn

Khi nói đến rác, nhiều người thường nghĩ đó là vấn đề cấp bách của các đô thị hay các thành phố lớn. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là kỹ thuật sản xuất, đóng gói bao bì, nhiều loại giấy, hộp đóng gói được làm chủ yếu bằng ni lông, nhựa, thiếc. rất tiện lợi, góp phần làm thay đổi phong cách và tập quán sống của nhiều người dân từ nông thôn đến thành thị. Khách hàng dù đến bất kỳ nhà hàng nào, mua sản phẩm gì cũng được đóng gói cẩn thận bằng túi ni lông hay đồ đóng gói tương tự từ cà, mắm, muối. cho đến các sản phẩm cao cấp khác. Chính nhờ những dịch vụ chăm sóc khách hàng đó cùng với sự phát triển kinh tế xã hội mà nhu cầu sinh hoạt của con người ngày càng cao và luôn được đáp ứng kịp thời. Song bên cạnh các mặt tích cực ấy là lượng rác thải ra ngày càng lớn, không chỉ ở các đô thị mà còn ở các vùng nông thôn, nó đã và đang trở thành vấn đề được mọi người quan tâm. Thực tế ở nông thôn Việt Nam trước kia, việc phân loại rác vốn được thực hiện rất tốt. Lượng rác thải ở nông thôn vốn nhỏ, chủ yếu là rác thải hữu cơ. Lượng rác thải hữu cơ này nguồn gốc chủ yếu từ thức ăn thừa, được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Một lượng chất thải rắn khác là phân người và gia súc được tận dụng làm phân bón ruộng. Các phế phẩm nông nghiệp như rơm rạ, được dung làm đun nấu và thức ăn gia súc. Ý thức người dân về sử dụng và phân loại rác rất tốt, và hầu như không có rác thải đổ ra môi trường. Trong mô hình canh tác kiểu truyền thống cộng với điều kiện kinh tế trước kia của nông thôn Việt Nam thì lượng rác thải sinh ra là rất nhỏ và hầu như được tận dụng hoàn toàn. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, khi điều kiện kinh tế phát triển, lượng rác thải nông thôn tăng mạnh, cùng với đó là sự xuất hiện của túi ni lông, là chất không phân hủy hay tái chế được, khiến tình hình rác thải ở nông thôn trở thành vấn đề nghiêm trọng. Bên cạnh đó là sự gia tăng mạnh mẽ về dân số, tạo them một áp lực lớn cho vấn đề rác thải nông thôn.

doc22 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 5812 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chất thải rắn nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục Lục I.Tổng quan về chất thải rắn nông thôn 2 1. Nguồn gốc, thành phần chất thải rắn nông thôn 3 2. Hiện trạng chất thải rắn tại nông thôn Việt Nam 5 II.Đặc điểm đổ thải và thu gom rác thải nông thôn 7 1. Đổ thải rác thải ở nông thôn 7 2. Thu gom chất thải rắn nông thôn 9 3. Nguyên nhân 11 III.Quản lí chất thải rắn nông thôn 12 Một số mô hình thu gom và xử lí rác thải đã được áp dụng ở các vung nông thôn 19 Tài liệu tham khảo 21 Tổng quan về chất thải rắn nông thôn Khi nói đến rác, nhiều người thường nghĩ đó là vấn đề cấp bách của các đô thị hay các thành phố lớn. Điều đó đúng nhưng chưa đủ. Với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, nhất là kỹ thuật sản xuất, đóng gói bao bì, nhiều loại giấy, hộp đóng gói được làm chủ yếu bằng ni lông, nhựa, thiếc... rất tiện lợi, góp phần làm thay đổi phong cách và tập quán sống của nhiều người dân từ nông thôn đến thành thị. Khách hàng dù đến bất kỳ nhà hàng nào, mua sản phẩm gì cũng được đóng gói cẩn thận bằng túi ni lông hay đồ đóng gói tương tự từ cà, mắm, muối... cho đến các sản phẩm cao cấp khác. Chính nhờ những dịch vụ chăm sóc khách hàng đó cùng với sự phát triển kinh tế xã hội mà nhu cầu sinh hoạt của con người ngày càng cao và luôn được đáp ứng kịp thời. Song bên cạnh các mặt tích cực ấy là lượng rác thải ra ngày càng lớn, không chỉ ở các đô thị mà còn ở các vùng nông thôn, nó đã và đang trở thành vấn đề được mọi người quan tâm. Thực tế ở nông thôn Việt Nam trước kia, việc phân loại rác vốn được thực hiện rất tốt. Lượng rác thải ở nông thôn vốn nhỏ, chủ yếu là rác thải hữu cơ. Lượng rác thải hữu cơ này nguồn gốc chủ yếu từ thức ăn thừa, được tận dụng làm thức ăn cho gia súc. Một lượng chất thải rắn khác là phân người và gia súc được tận dụng làm phân bón ruộng. Các phế phẩm nông nghiệp như rơm rạ, được dung làm đun nấu và thức ăn gia súc. Ý thức người dân về sử dụng và phân loại rác rất tốt, và hầu như không có rác thải đổ ra môi trường. Trong mô hình canh tác kiểu truyền thống cộng với điều kiện kinh tế trước kia của nông thôn Việt Nam thì lượng rác thải sinh ra là rất nhỏ và hầu như được tận dụng hoàn toàn. Tuy nhiên, trong một vài năm trở lại đây, khi điều kiện kinh tế phát triển, lượng rác thải nông thôn tăng mạnh, cùng với đó là sự xuất hiện của túi ni lông, là chất không phân hủy hay tái chế được, khiến tình hình rác thải ở nông thôn trở thành vấn đề nghiêm trọng. Bên cạnh đó là sự gia tăng mạnh mẽ về dân số, tạo them một áp lực lớn cho vấn đề rác thải nông thôn. Nguồn gốc, thành phần chất thải rắn nông thôn Chất thải rắn nông nghiệp là chất thải rắn phát sinh từ các hoạt động sản xuất nông nghiệp như: trồng trọt, thu hoạch, bảo quản và sơ chế nông sản, các chất thải ra từ chăn nuôi, giết mổ động vật, chế biến sữa... Thành phần chất thải rắn nông nghiệp gồm nhiều chủng loại khác nhau Chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học: phân gia súc, các phế phụ phẩm trồng trọt như rơm rạ, chất thải từ chăn nuôi, giết mổ... Các chất thải khó phân hủy và độc hại: bao bì đóng gói, chai lọ đựng thuốc BVTV, thuốc trừ sâu...các bệnh phẩm của động vật nhiễm bệnh ( gà rù, lợn lở mồm long móng, gà cúm, trâu bò điên...) Chất thải rắn làng nghề Làng nghề là một đặc thù của nông thôn Việt Nam trong quá trình phát triển kinh tế xã hội. Tại các làng nghề, nhiều sản phẩm phi nông nghiệp đã được những lao động có nguồn gốc nông dân trực tiếp sản xuất và trở thành thương phẩm trao đổi hàng hóa, góp phần cải thiện đời sống, và tận dụng lao động dư thừa Có khoảng 1450 làng nghề phân bố trên các cùng nông thôn, mỗi năm phát thải khoảng 774000 tấn chất thải công nghiệp không nguy hại. Lượng chất thải chủ yếu phát sinh từ các tỉnh Hà Tây, Bắc Ninh, Hà Nội. Các loại chất thải phát sinh từ các làng nghề ở nông thôn lớn nhất từ các ngành gốm sứ, vật liệu xây dựng, lò vôi, lò gạch. Tiếp đến là các ngành dệt may thủ công, chế biến lượng thực… Chất thải rắn sinh hoạt ở nông thôn Thành phần hữu cơ chủ yếu là thực phẩm thừa, giấy, nhựa, vải, cao su,da, gỗ Thành phần vô cơ: thủy tinh, nhôm, sắt, bụi… Năm  2002  2003  2004   Toàn quốc  11 302 000  12 800 000  16 000 000   Khu vực đô thị  5 568 000  6 400 000  8 640 000   Khu vực nông thôn  5.800 000  6 400 000  7 360 000   Tốc độ gia tăng so với năm trước (%) Khu vực đô thị Khu vực nông thôn  1.05 1.10  1.15 1.10  1.35 1.15   Hiện trạng chất thải rắn tại nông thôn Việt Nam Theo báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam (2004), rác thải nông thôn ước tính 0,3kg/người/ngày và có xu hướng tăng đều theo từng năm. Trên thực tế, rác thải hiện nay đang là vấn đề bức xúc, nhiều gia đình đã phản ánh không biết đổ rác ở đâu, nên buộc phải vứt rác trên đường, xuống ao, hồ, sông ngòi, mương máng. Lượng rác thải này tập trung nhiều gây ô nhiễm môi trường trầm trọng, ách tắc dòng chảy, ảnh hưởng đến đời sống, sinh hoạt hàng ngày của người dân. Các loại chất thải rắn  Toàn quốc  Đô thị  Nông thôn   Tổng lượng phát sinh chất thải sinh hoạt (tấn/năm)  12.800.000  6.400.000  6.400.00   Chất thải nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm)  128.400  125.000  2.400   Chất thải không nguy hại từ công nghiệp (tấn/năm)  2.510.000  1.740.000  770.000   Chất thải Y tế lây nhiễm (tấn/năm)  21.000  -  -   Tỷ lệ thu gom trung bình (%)  -  71  20   Tỷ lệ phát sinh chất thải đô thị trung bình theo đầu người (kg/người/ngày)  -  0,8  0,3    Ảnh 1: Rác thải tại nông thôn Các hoạt động nông nghiệp mỗi năm phát sinh một lượng khá lớn chất ô nhiễm. Các chất tồn dư thuốc bảo vệ thực vật độc hại và các loại bao bì, thùng chứa thuốc trừ sâu thải ra môi trường. Nhiều loại thuốc trừ sâu đã bị cấm nhưng vẫn được nhập lậu. Lượng thuốc trừ sâu được sử dụng nhiều nhất ở đồng bằng sông Cửu Long. Ngoài ra có khoảng 37000 tấn hóa chất dùng trong nông nghiệp đang lưu trữ cần phải được xử lí. Việc sử dụng các thuốc trừ sâu, phân bón hóa học còn tuỳ tiện, không tuân thủ các yêu cầu kỹ thuật theo nhãn mác, không đảm bảo thời gian cách ly của từng loại thuốc. Một lượng lớn thuốc BVTV tồn đọng tại các kho thuốc cũ, hết niên hạn sử dụng còn nằm rải rác tại các tỉnh thành trên cả nước. Hơn nữa là việc bảo quản thuốc BVTV chưa đúng quy định, không có nơi bảo quản riêng, nhiều hộ để thuốc BVTV trong nhà, trong bếp và trong chuồng nuôi gia súc. Chính những nguyên nhân trên làm cho thuốc BVTV tồn dư trong các sản phẩm nông nghiệp và đất đai, không chỉ gây ảnh hưởng tới môi trường mà còn gây nguy hại tới sức khỏe người dân. Đặc biệt, sau khi sử dụng thì vỏ bao bì thuốc BVTV, phân bón... đều không được thu gom xử lý, bị vứt lung tung. Đặc điểm đổ thải và thu gom rác thải nông thôn Đổ thải rác thải ở nông thôn Cũng như giai đoạn trước, hiện tại quá trình xử lý rác thải cũng như thu gom rác thải tại nông thôn vẫn chủ yếu tập trung tại hộ gia đình. Rác thải có thể tái chế được phù hợp với điều kiện nông thôn được tận dụng một cách tối đa. Những rác thải còn lại không tận dụng được thường bị vứt ra vườn hoặc tại những địa điểm công cộng thiếu sự quản lý của chính quyền (như các khu vực giáp danh giữa các làng, xã …). Bên cạnh đó cùng với việc nâng cao đời sống, lượng rác thải nông thôn ngày càng gia tăng, nhiều loại rác thải dư thừa mà trước kia được giữ lại nay không sử dụng nữa. Ví dụ điển hình là rơm rạ, trước kia rơm rạ thường được sử dụng lại cho đun nấu thì bây giờ người dân chuyển sang đun nấu chủ yếu bằng than tổ ong, rơm rạ sau vụ mùa thường bị đem ra đốt, tuy nhiên một lượng lớn trong số chúng bị vứt bừa bãi ra ao, kênh mương …      Ảnh 2: Đường đầy rơm rạ sau ngày mùa Cùng với sự phát triển kinh tế tại nông thôn là sự ra tăng mạnh mẽ rác thải không có nguồn gốc hữu cơ. Trước đây, khi túi nilon còn chưa phổ biến thì có nhiều người đi nhặt những túi nilon đã qua sử dụng để đem bán cho các cơ sở mua đồ phế liệu, nay thì không còn nữa. Do đó tình trạng vứt bừa bãi túi nilon khá phổ biến. Rác thải túi nilon khi thải ra môi trường nằm chung với các loại rác khác, nếu không qua xử lý đúng tiêu chuẩn, rác thải túi nilon không phân huỷ được. Đây là bài toán chưa tìm được lời giải trong xử lý môi trường nước ta nói chung và đối với nông thôn nói riêng. Ở nông thôn vấn đề xử lý túi nilon hầu như chưa có giải pháp gì, nhiều nơi ở vùng ven thị xã, vùng nông thôn, người ta vứt túi nilon bừa bãi xuống cống rãnh, mương, sông… gây ô nhiễm môi trường trầm trọng. Hiện nay, ở các nông thôn mới chỉ thu gom được rác thải ở thị trấn, còn ở vùng nông thôn thì chưa có địa phương nào đủ khả năng giải quyết được. Một vấn đề khác cũng gây bức xúc hiện tại ở nông thôn là rác thải nguy hại có nguồn gốc từ vỏ bao bì thuốc trừ sâu, thuốc bảo vệ thực vật. Nếu xét về tổng khối lượng thì lượng bao bì thuốc trừ sâu này không nhiều, tuy nhiên tác động của nó đến môi trường thì rất lớn, và hiện nay các vùng nông thôn hầu như chưa có biện pháp xử lý vấn đề này một cách hiệu quả. Ảnh 3: Vỏ bao bì thuốc trừ sâu trên đồng ruộng Chất thải làng nghề trong thời gian qua cũng gia tăng một lượng nhanh chóng. Trong đó các làng nghề có quy mô nhỏ, trình độ sản xuất thấp, thiết bị cũ và công nghệ lạc hậu chiếm phần lớn (trên 70%). Do đó, đã và đang nảy sinh nhiều vấn đề môi trường nông thôn, tác động xấu tới chất lượng môi trường đất, nước, không khí và sức khoẻ của dân làng nghề. Các chất thải của làng nghề đều không qua xử lý và thải trực tiếp ra môi trường. Chất thải rắn y tế từ các trạm xá tuy không nhiều ,những bông băng , gạc... chứa mầm bệnh và hóa chất cũng không được thu gom và xử lý. Hiện hiểu biết của người dân về loại chất thải rắn này cũng chưa cao. Thu gom chất thải rắn nông thôn Việc thu gom chất thải rắn tại nông thôn hầu như chưa có, chất thải nông thôn hiện được ở dạng phân tán, chứ không tập trung. Do rác thải nông thôn chưa được coi trọng, cũng như kinh tế của nông thôn chưa phát triển nên vấn đề thu gom rác thải tập trung là chưa có. Rác thải của các hộ gia đình được xử lý và thu gom tại chỗ, những rác thải không phân hủy được bị đổ thải trực tiếp ra sông, hồ hay các khu vực công cộng và không được thu gom xử lý. Theo báo cáo Môi trường Việt Nam năm 2004 về quản lý chất thải rắn thì tại nông thôn Việt Nam hiện nay, mới chỉ có 20% chất thải rắn được thu gom từ các khu vực có thu nhập cao nhất ở nông thôn (là các thị xã, thị trấn nơi dân cư có thu nhập cao hơn các nơi khác của nông thôn, và có khả năng chi trả cho các đội thu gom rác thải). Còn nếu xét tại các khu vực khác thì hiện tại, việc thu gom rác thải tại các vùng nông thôn còn rất ít, tỷ lệ thu gom rác thải lớn nhất cũng chỉ đạt từ 19,8 - 29,2% như các huyện Thuận Thành ( Bắc Ninh), Ứng Hoà ( Hà Tây), còn tại Giao Thuỷ ( Nam Định), Bình Xuyên ( Vĩnh Phúc) tỷ lệ thu gom chỉ đạt từ 3,6 - 3,7% thực tế. Hệ thống thu gom chất thải rắn hiện đã bắt đầu hình thành, tuy nhiên vấn đề hiện nay là tài chính. Nếu như ở thành phố, người dân phải đóng một khoản phí hành tháng cho công ty vệ sinh và môi trường, thì ở nông thôn, do vấn đề tài chính, việc này không thể áp dụng được. Ở đa phần các vùng nông thôn hiện nay, không có một đội thu gom chuyên nghiệp nào hoạt động thường xuyên, các hình thức thu gom hiện tại chủ yếu là do hoạt động thu gom định kỳ của các tổ chức tại nông thôn như đoàn thanh niên hay hội phụ nữ. Các hoạt động này chỉ mang tính phong trào và không thể giải quyết triệt để vấn đề thu gom rác thải. Có thể lấy một ví dụ như ở khu vực 5 xã vùng đệm Vườn quốc gia Xuân Thủy, Giao Thủy, Nam Định, được đầu tư một hệ thống thu gom và chôn lấp chất thải rắn hoàn chỉnh, tuy nhiên hệ thống này không hoạt động do không có kinh phí đóng góp từ người dân để duy trì lực lượng thu gom rác. Hệ thống xử lý chất thải rắn ở nông thôn đang trong quá trình xây dựng nhưng còn rất thiếu. Hình thức được sử dụng nhiều nhất là đốt hoặc chôn lấp. Không những thế, vị trí đổ rác thải hiện nay hầu hết không được khảo sát để tránh ảnh hưởng tới dân cư, nguồn nước. Bãi rác tại các huyện, các chợ nông thôn chưa có cơ quan quản lý và biện pháp xử lý. Chủ yếu là tập trung để phân huỷ tự nhiên và gây nên những gánh nặng cho công tác bảo vệ môi trường. Theo báo cáo Môi trường Việt Nam năm 2004 về quản lý chất thải rắn, hầu hết các xã đều chưa có hố chôn rác hợp vệ sinh, rất nhiều xã còn lúng túng trong việc này, phần lớn bãi rác chỉ là ao, thùng nhỏ. Tuy một vài xã đã tổ chức đào hố chôn rác nhưng không đúng quy cách, hố nông nên nhanh đầy, gây lãng phí đất. Hố rác không có thành đắp lên cao gây sụt lún, mưa to nước tràn ngập gây ô nhiễm nguồn nước mặt, mặt hố không phủ đất làm phát tán mùi hôi thối, đáy hố không lót vải địa kỹ thuật hoặt lót nilon nên ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn nước ngầm. Đối với riêng hệ thống xử lý chất thải nguy hại, chất thải có nguồn gốc cao phân tử (túi nilon hay cao su) hiện chưa có bất cứ hình thức xử lý hiệu quả nào tại nông thôn. Đối với loại chất thải này, cách làm duy nhất hiện tại ở nông thôn là đem đốt, tuy nhiên việc đem đốt này không được làm đúng quy trình đốt với lò hai ngăn, chúng được đem ra một chỗ trống và đốt ngoài trời, việc đốt này sinh ra một lượng lớn khí độc gây nguy hiểm trực tiếp cho người dân. Nguyên nhân Yếu tố thứ chính tác động đến tình hình chất thải rắn nông thôn như đã nói ở trên là vấn đề tài chính. Một yếu tố nữa đối với việc đổ thải của rác thải tại nông thôn là ý thức người dân chưa cao. Hiện tại đa phân người dân đã nhận thức được vấn đề rác thải, tác hại của nó, và có thể nói rác thải là vấn đề bức xúc trong dân chúng, tuy nhiên tình hình đổ thải vẫn tiếp tục diễn ra. Tại hầu hết các xã ở nông thôn hiện tại đều có các quy định cấm đổ rác thải bừa bãi, tuy nhiên tại các khu vực giáp danh, nơi không có sự quản lý chặt chẽ, đã trở thành bãi rác chung cho cả khu vực. Người dân cũng nhận thức được rõ ràng tác hại của bao bì thuốc trừ sâu đối với sức khỏe tuy nhiên việc vứt bừa bãi chúng trên đồng ruộng vẫn diễn ra, và hầu như không có biện pháp nào để giải quyết vấn đề này. Quản lí chất thải rắn nông thôn Việc đưa ra những biện pháp quản lí thích hợp đối với chất thải rắn nông nghiệp không chỉ mang lại ý nghĩa to lớn về mặt môi trường mà còn tận dụng được giá trị vật chất và năng lượng một cách hiệu quả Việc thu gom, phân loại và vận chuyển chất thải rắn nông nghiệp cần căn cứ vào nguồn phát sinh, căn cứ vào tính chất nguy hại của chất thải, căn cứ vào mục đích sử dụng lại và các biện pháp xử lí chúng. Việc thu gom chất thải rắn nông nghiệp chia làm 2 nguồn chính: chất thải rắn hữu cơ và chất thải rắn vô cơ Cần phân loại chất thải ngay tại nguồn phát sinh căn cứ vào mục đích sử dụng để có những biện pháp thu gom thích hợp Thành phần chất thải có nhiệt trị cao như rơm, rạ, trấu…sử dụng cho mục đích đun nấu hoặc làm nhiên liệu cho phát điện Thành phần chất thải có hàm lượng dinh dưỡng cao, chất hữu cơ dễ phân hủy sinh học tạo sản phẩm khí biogas và phân bón hữu cơ Việc thu gom, phân loại, vận chuyển cần tránh rơi vãi, không lấn chiếm hành lang an toàn giao thông ( không phơi rơm, rạ trên lòng đường…) và chú ý không để tạo ra các ổ dịch bệnh phát sinh và nơi cư trú của các sinh vật có hại. Sau khi phân loại, chất thải rắn nông nghiệp được đưa tái chế hoặc tái sử dụng, còn một lượng chất thải rắn nông nghiệp cần phải xử lí Xử lí chất thải rắn nông nghiệp chia làm 3 nhóm phương pháp: xử lí bằng phương pháp sinh học, xử lí bằng phương pháp đốt, xử lí bằng phương pháp chôn lấp Phương pháp sinh học: Quá trình ủ sinh học tạo phân compost là phương pháp truyền thống, được áp dụng phổ biến và có hiệu quả ở các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam. Các phế phụ phẩm trong quá trình trồng trọt và thu hoạch, phân chuồng trong chăn nuôi…chứa các thành phần hữu cơ có khả năng phân hủy sinh học tốt. Việc xử lí chất thải nông nghiệp được thực hiện bởi quá trình ủ sinh học thu hồi khí biogas. Đây là phương pháp đem lại hiệu quả cao và cải thiện đáng kể môi trường nông thôn: phân người tạo ra khí đốt cho gia đình, nguồn phân hữu cơ an toàn bón ruộng, nước thải túi ủ biogas dùng để nuôi tảo, thực vật phù du khác và làm thức ăn giàu dinh dưỡng khác cho cá. Hiện nay trên phạm vi cả nước có hàng triệu hầm biogas Phương pháp đốt mang lại giá trị kinh tế cao. Trước đây việc đốt không thu hồi nhiệt lượng khá phổ biến đặc biệt là ở Nam Bộ. Hiện tượng đốt chất thải nông nghiệp ngay trên đồng ruộng hiện nay đã lan ra cả những vùng thuộc đồng bắng sông Hồng. Việc đốt như vậy vừa không đem lại hiệu quả kinh tế vừa gây lãng phí, làm ô nhiễm môi trường đặc biệt là môi trường không khí. Đốt thu hồi nhiệt lượng ở quy mô nhỏ, các chất thải dễ cháy được sử dụng thay thế củi để đun nấu phục vụ sinh hoạt trong gia đình. Tuy nhiên hiệu suất sử dụng năng lượng không cao vì các loại bếp đun còn thủ công, tổn thất nhiệt lớn, bên cạnh đó còn gây ô nhiễm cục bộ trong không gian bếp đun chật hẹp. Do vậy đốt thu hồi nhiệt ở quy mô công nghiệp có hiệu quả cao hơn, năng lượng nhiệt trong quá trình đốt có thể sử dụng cho các lò hơi, lò sưởi, các thiết bị sấy và đặc biệt sản xuất nhiệt điện Phương pháp chôn lấp: đây là phương pháp đơn giản thường được sử dụng đối với chất thải sinh hoạt, cần phải có biện pháp kĩ thuật đảm bảo về vấn đề nước rác và khí bãi rác Xử lí chất thải rắn nông nghiệp nguy hại: cần phải có biện pháp quản lí và xử lí phù hợp để không gây ô nhiễm cho môi trường Hiện nay, những người dân chưa ý thức được tính nguy hại của những loại chất này nên chưa có ý thức thu gom để xử lí. Các loại chai lọ, bao bì đựng thuốc trừ sâu vẫn bị thải bừa bãi ra ngoài đồng ruộng sau khi đã qua xử lí. Để hạn chế tới mức thấp tác hại của chất thải này thì cần phải có biện pháp thu gom triệt để, tránh tiếp xúc trực tiếp với loại chất thải này. Phương pháp phổ biến để xử lí chất thải nguy hại là phương pháp thiêu đốt trong lò đốt chất thải nguy hại và phương pháp trơ hóa ( đổ bê tông khối) rồi đem chôn lấp. Tuy nhiên các biện pháp xử lí loại chất thải nguy hại này đòi hỏi chi phí cao và quy phạm kĩ thuật nghiêm ngặt Quản lí chất thải rắn theo phương thức 3R 3R là viết tắt của 3 từ Reduce- Reuse-Recycle( Giảm thiểu, tái sử dụng và tái chế) Mục tiêu của 3R là tối thiểu hóa lượng chất thải, từ đó: Bảo vệ môi trường, ngăn ngừa suy thoái, giảm thiểu các thiệt hại đến môi trường. Tiết kiệm nguồn tài nguyên thiên nhiên nhờ tái chế và tái sử dụng. Tiết kiệm chi phí thu gom và xử lý rác thải. Giảm quỹ đất giành cho việc chôn lấp rác, giảm sức ép lên các bãi chôn lấp rác đang bị quá tải Giảm thiểu Mô hình VAC ( vườn – ao – chuồng) là mô hình đã được áp dụng phổ biến ở nông thôn Việt Nam từ rất lâu. Đây là mô hình khá đơn giản, lại có hiệu quả giảm thiểu vì chất thải được tận dung tối đa theo một chu trình vòng khép kín chính vì vậy nên được khuyến khích tại các hộ gia đình ở nông thôn Tái sử dụng chất thải làm nguyên liệu và năng lượng Dùng rơm rạ để làm giá thể nuôi nấm rơm, làm vật liệu độn chuồng. Việc sử dụng lại về mặt năng lượng đối với chất thải nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế rõ rệt vì tiềm năng nhiệt lượng là rất lớn. Giá trị năng lượng của chất thải rắn nông nghiệp có thể thu hồi trực tiếp nhờ quá trình đốt cháy các thành phần chất thải hoặc thu hồi gián tiếp thông qua quá trình tạo khí mêtan Giải pháp cho việc đổ thải chất thải rắn nông thôn Đối với chất thải rắn nông thôn hiện nay nên lựa chọn phương pháp xử lý bằng cách chôn lấp dễ thực hiện và đạt hiệu quả kinh tế. Đối với các hộ gia đình, trường học, trạm xá, chợ…ở nông thôn có thể sử dụng hố rác di động Hố rác di động là loại hố rác đơn giản, dễ sử dụng, ít tốn kém nhưng mang lại nhiều hiệu quả. Các hộ gia đình chỉ đầu tư ban đầu một nắp hố rác Nắp hố rác có thể sử dụng được nhiều lần mà không cần phải thay thế và sửa chữa. Nắp hố rác di động được thiết kế về cơ bản giống thùng rác ở các đô thị. Tuy nhiên, ở đây không có phần thùng vì phần thùng sẽ là hố đất đào với độ sâu từ 1,5m- 2m, kích thước bề mặt của hố phụ thuộc vào kích thước nắp hố rác. Có thể hình dung nắp hố rác di động là một thùng rác đô thị nhưng phần thùng đã được c