Đề tài Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992

Trong cơ chế Nhà nước ta, chế định Nguyên thủ quốc gia luôn luôn tồn tại và được tổ chức theo các hình thức khác nhau qua các Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 là hình thức Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng Nhà nước và Hiến pháp năm 1992 lại trở lại hình thức Chủ tịch nước. Trong từng Hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức Bộ máy Nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định Nguyên thủ quốc gia nói riêng. Song, ở nước ta chức vụ Chủ tịch nước hay thể chế Hội đồng Nhà nước với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tích chất và vai trò có lẽ không giống với Nguyên thủ quốc gia nào. Ở nước ta, Nghị viện theo Hiến pháp năm 1946 hay Quốc hội Hiến pháp tiếp sau luôn luôn là cơ quan quyền lực cao nhất và Chủ tịch nước là cơ quan đứng đầu Nhà nước. Quyền lực Nhà nước luôn luôn thống nhất, tập trung vào Quốc hội, có phân công , ohaan nhiệm theo bốn chức năng lậ pháp, hành pháp, xét xử và kiểm sát. Quốc hội trực tiếp thực hiện chức năng lập pháp và phân công chức năng hành pháp cho Chính phủ, chức năng xét xử cho Tòa án Nhân dân tối cao, chức năng kiểm sát cho Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Quốc hội bàu những người đứng đầu các cơ quan này, giám sát hoạt động của họ và khi cần thì miễm nhiệm bãi nhiệm họ. Như vậy, về nguyên tắc Quốc hội nắm cả các chức năng lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát, tuyệt đối không có vấn đề phân quyền.

doc16 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2981 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chế định nguyên thủ quốc gia trong Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và 1992, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Trong cơ chế Nhà nước ta, chế định Nguyên thủ quốc gia luôn luôn tồn tại và được tổ chức theo các hình thức khác nhau qua các Hiến pháp. Ở Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 là hình thức Chủ tịch nước, Hiến pháp năm 1980 là Hội đồng Nhà nước và Hiến pháp năm 1992 lại trở lại hình thức Chủ tịch nước. Trong từng Hiến pháp có sự kế thừa và phát triển những nguyên tắc căn bản của tổ chức Bộ máy Nhà nước Xã hội chủ nghĩa nói chung và chế định Nguyên thủ quốc gia nói riêng.           Song, ở nước ta chức vụ Chủ tịch nước hay thể chế Hội đồng Nhà nước với Chủ tịch Hội đồng Nhà nước tích chất và vai trò có lẽ không giống với Nguyên thủ quốc gia nào. Ở nước ta, Nghị viện theo Hiến pháp năm 1946 hay Quốc hội Hiến pháp tiếp sau luôn luôn là cơ quan quyền lực cao nhất và Chủ tịch nước là cơ quan đứng đầu Nhà nước. Quyền lực Nhà nước luôn luôn thống nhất, tập trung vào Quốc hội, có phân công , ohaan nhiệm theo bốn chức năng lậ pháp, hành pháp, xét xử và kiểm sát. Quốc hội trực tiếp thực hiện chức năng lập pháp và phân công chức năng hành pháp cho Chính phủ, chức năng xét xử cho Tòa án Nhân dân tối cao, chức năng kiểm sát cho Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Quốc hội bàu những người đứng đầu các cơ quan này, giám sát hoạt động của họ và khi cần thì miễm nhiệm bãi nhiệm họ. Như vậy, về nguyên tắc Quốc hội nắm cả các chức năng lập pháp, hành pháp, xét xử, kiểm sát, tuyệt đối không có vấn đề phân quyền.           1- Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946.           Sau cách mạng tháng 8, Nhà nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa ra đời, là Nhà nước dân chủ của Nhân dân. Về bản chất, đó là Nhà nước chuyên chính công – nông thuộc phạm trù Nhà nước Xã hội chủ nghĩa, song còn ở cấp độ thấp. Bộ máy Nhà nước bắt đầu được tổ chức theo nguyên tắc tập quyền, song còn mang nhiều dấu ấn của cách tổ chức theo kiểu Đại nghị thể hiện ở sự hiện diện chế định Nghị viện nhân dân và chính phủ liên hiệp với thành phần rộng rãi đoàn kết các lực lượng vũ trang, giai cấp, đảng phái. Nghị viện nhân dân là cơ quan quyền lực cao nhất, thành lập Chính phủ; còn Chính phủ là cơ quan hành chính cao nhất của toàn quốc, có vị trí độc lập tương đối so với Nghị viện. Chính phủ gồm Chủ tịch nước, Phó Chủ tịch nước, và Nội các. Nội các có Thủ tướng, Bộ trưởng, Thứ trưởng, có thể có Phó Thủ tướng. Tất cả những điều này đã quyết định tính đặc thù của Nguyên thủ quốc gia – Chủ tịch nước tại Hiến pháp năm 1946.           Ngày 16 và 17 tháng 8 năm 1945, Quốc dân đại hội do Tổng bộ Việt Minh triệu tập tại Tân Trào (Tuyên Quang) đã bầu ra Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam gồm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên Ủy ban dân tộc giải phóng có vai trò như là Chính phủ lâm thời Cách mạng Việt Nam.           Ngày 25 tháng 8 năm 1945, Ủy ban dân tộc giải phóng cải tổ thành Chính phủ lâm thời. Cơ cấu Chính phủ gồm có Chủ tịch và các Bộ trưởng. “Chính Phủ lâm thời…giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ Cộng hòa chính thức” Tiếp theo, ngày 1 tháng 1 năm 1946 Chính phủ lâm thời lại cải tổ thành Chính phủ liên hiệp lâm thời. Cơ cấu Chính phủ có thêm chức Phó Chủ tịch, và Chính phủ chính thức đầu tiên do Quốc hội (bầu ra ngày 6 tháng 1 năm 1946) thành lập ngày 2 tháng 3 năm 1946 là Chính phủ liên hiệp kháng chiến. Trong thành phần cũng có Phó Chủ tịch, các Bộ trưởng, có thêm cố vấn đoàn và Ủy viên kháng chiến. Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu “có nhiệm vụ thực hiện triệt để…về quân sự, tuyên truyền cũng như về phương diện hành chính, tư pháp…đưa kháng chiến đến thắng lợi và nước nhà đến độc lập hoàn toàn”. Có thể thấy, trước khi có Hiến pháp Bộ máy Nhà nước ở Trung Ương, tuy có rộng rãi về thành phần, song về cơ bản vẫn dựa trên mô hình chính thể kiểu Xô viết thuần túy với các cơ quan, Quốc hội (có Ủy ban thường vụ Quốc hội) lập ra Chính phủ với tính chất như một cơ quan chấp hành, Chính phủ đứng đầu là Chủ tịch Chính phủ, chưa có chức Thủ tướng và chức danh Chủ tịch nước cũng chưa được dùng chính thức mà chỉ mới nói đến trong Hiến pháp Việt Nam công bố tháng 11 năm 1945.           Hiến pháp năm 1946 đã xây dựng mô hình Bộ máy Nhà nước có nhiều điểm mới so vói tình hình của xã hội lúc đó. Đó là viêc thành lập Nghị viện nhân dân, Chính phủ với thành phàn Chủ tịch nước và Nội các. Đặc biệt vị trí Chủ tịch nước được thiết kế độc đáo. Tất cả xuất phát từ yêu cầu xây dựng một Bộ máy Nhà nước, thể hiện tình đoàn kết rộng rãi, đồng thời thực hiện chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân.           a- Về tính chất Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1946.           Hiến pháp năm 1946 không quy định định nghĩa về chế định này. Song, từ các quy định về cách thức thành lập thì Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước và đứng đầu Chính phủ.           Thứ nhất, tính chất đứng đầu Nhà nước (Nguyên thủ quốc gia) của Chủ tịch nước thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước thay mặt Nhà nước, nắm quyền tổng chỉ huy quân đội toàn quốc, chỉ định hay cách chức các tướng soái trong Lục quân, Hải quân, Không quân; ban bố các đạo luật đã được Nghị viện quiets nghị; thưởng huy chương và các bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hieepj ước với các nước; phái đại biểu của Việt Nam đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước; tuyên chiến hay đình chiến; chọn Thủ tướng trong Nghị viện để đưa ra Nghị viện biểu quyết; bổ nhiệm (dưới hình thức sắc lệnh của Chủ tịch nước) Thủ tướng, nhân viên Nội các và các nhân viên cao cấp khác cơ quan Chính phủ. Vị trí đứng đầu Nhà nước này cững giống như các Nhà nước dân chủ khác có sự phân công, phối hợp thực hiện các chức năng “nguyên thủ” giữa Nghị viện, ban thường vụ Nghị viện và Chủ tịch nước, không phải chỉ có một mình Chủ tịch nước thực hiện chức năng này.           Thứ hai, tính chất là người đứng đầu Chính phủ: thể hiện ở chỗ: Chủ tịch nước chủ tọa Hội đồng Chính phủ, ký các sắc lệnh của Chính phủ, quy định các chính sách thi hành các đạo luật và nghị quyết của Nghị viện.           b- Quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác theo Hiến pháp năm 1946.           Được thiết lập theo hướng tăng cường quyền lực cho Chủ tịch nước bảo đảm điều hòa và phối hợp các hoạt động lập pháp và hành pháp  trong điều kiện các cơ quan này tồn tại độc lập với nhau. Chủ tịch nước do Nghị viện nhân dân bầu trong Nghị viện nhân dân, song có nhiệm kỳ khác với nhiệm kỳ của Nghị viện (nhiệm kỳ của Nghị viện là ba năm, còn Chủ tịch nước là năm năm), Chủ tịch nước được chọn Thủ tướng (trong Nghị viện) và đưa ra Nghị viện biểu quyết; được quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại những luật mà Chủ tịch nước khồng đồng ý (Điều 3 Hiến pháp năm 1946); đặc biệt Chủ tịch nước không phải chịu trách nhiệm nào trừ khi phạm tội phản quốc (Điều 50 Hiến pháp năm 1946). Vị trí này của Chủ tịch nước đước so sánh giống như Tổng thống của các nước cộng hòa Tổng thống là do Nhân dân bầu lên, và chính phủ do Thủ tướng đứng đầu, không chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Còn chủ tịch nước nước ta do Nghị viện bầu ra, còn Nội các trong Chính phủ phải chịu trách nhiệm trước Nghị viện. Vị trí của Chủ tịch nước trong Hiến pháp năm 1946 mang dáng dấp của Tổng thống các nước Cộng hòa Tổng thống được thiết lập trên Thế giới như Pháp – Hiến pháp năm 1958, Hàn Quốc – Hiến pháp năm 1991, Nga – Hiến pháp năm 1993…           Tất nhiên, mọi sự so sánh đều là khập khiễng. Như đã nói ở trên chính thể Nhà nước ta là Cộng hòa dân chủ Nhân dân, thì không thể và không nên so sánh với chính thể Nhà nước Tư sản. Trên thức thế, tuy Chủ tịch nước được quy định thực hiện quyền hạn lớn cả về mặt lập pháp lẫn hành pháp, nhưng Hiến pháp cũng quy định những hạn chế với Chủ tịch nước, bảo đảm tính cơ bản Nghị viện có quyền cao nhất. Đó là, Nghị viện bầu ra Chủ tịch nước trong số các thành viên của Nghị viện, chuẩn y các hiệp ước do Chính phủ ký với nước ngoài, những luật mà Chủ tịch nước yêu cầu thảo luận lại nếu vẫn được Nghị viện thông qua thì Chủ tịch nước bắt buộc phải ký lệnh ban bố, khi Nghị viện không họp được ban thường vụ với Chính phủ quyết định nên tuyên chiến hay đình chiến, Chủ tịch nước tuyên chiến hay đình chiến là phụ thuộc và quyết định đó, và đặc biệt Nghị viện nhân dân không bị giải tán (giống ở các nước Tư bản) trừ trường hợp tự giải tán,…           Tóm lại, chế định Chủ tịch nước – Nguyên thủ quốc gia được Hiến pháp năm 1946 xây đựng khá độc đáo. Nó vừa bảo đảm được quyền lực Nhà nước vào cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước cao nhất của Nhân dân, vừa bảo đảm tăng cường quyền hạn cho Chính phủ điều hành công việc quốc gia mạnh mẽ và hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của tình hình kháng chiến kiến quốc lúc bấy giờ.           Trong những bản Hiến pháp sau này, Hiến pháp năm 1959, 1980, 1990 có sự kế thừa và phát triển tổ chức chế định Chủ tịch nước. Chế định này được xác lập với nhiều đổi mới, phù hợp với từng điều kiện của tổ chức Bộ máy Nhà nước ở mỗi giai đoạn. Những yếu tố chi phối đến sự thay đổi căn bản này là nhà nước ta sang mô hình chế độ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước đó áp dụng mạnh mẽ và triệt để nguyên tắc và ưu điểm của thiết chế trước đó. 2- Thiết chế chủ tịch  nước theo hiến pháp năm 1959. Hiến pháp 1959 chuyển Nhà nước ta sang mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xô Viết. Do áp dụng mạnh mẽ nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa (tuy vẫn còn một vài yếu tố dân chủ của người dân) nên thiết chế chủ tịch nước được xây dựng lại phù hợp với giai đoạn phát triển mới đó, theo đó quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thống nhất các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Các cơ quan khác được quốc hội lập ra, phân giao nhiệm vụ, quyền hạn và chịu giám sát, trách nhiệm trước Quốc hội, Quốc hội đương nhiên nắm cả quyền nguyên thủ. Song, khác với các nước dân chủ Đông Âu khi chuyển sang chế độ xã hội chủ nghĩa cũng đồng thời xóa bỏ thiết chế nguyên thủ quốc gia cá nhân. Ở nước ta, chế định chủ tịch nước vẫn tồn tại nhưng quyết định lại cho phù hợp hơn. Chủ tịch nước phái sinh từ Quốc hội, cùng Quốc hội thực hiện các chức năng nguyên thủ, điều phối các cơ quan Nhà nước cao cấp trong bộ máy Nhà nước. a-    Về tính chất của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1959.  Chủ tịch nước là người thay mặt nước về đối nội, đối ngoại.Đến lúc  này, chủ tịch nước không còn là người đứng đầu Chính phủ mà chỉ còn là người đứng đầu Nhà nước. Sự phân định chức năng giữa các nguyên thủ, giữa chủ tịch nước và Quốc hội, Uỷ ban thường vụ quốc hội đã chuyển sang lối mới mọi quyền hạn đều quan trọng, đều thuộc quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước chủ yếu thực hiện các công việc có tính đại diện cá nhân và tham gia vao các hoạt động của nhà nước như lập pháp, thành lập các cơ quan nhà nước, tặng thưởng huân chương…nhưng đều dựa trên quyết định của Quốc hội và Uỷ ban thường vụ Quốc hội. b-Về quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan Nhà nước khác theo Hiến pháp năm 1959.  Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (phải chọn trong Quốc hội nhưng do hoàn cảnh đất nước bị chia cắt, miền Nam không thể tham gia bầu cử Quốc hội mà chỉ có thể lưu nhiệm đại biểu cũ, đề phòng có người xứng đáng cả 2 miền nhưng không phải đại biểu Quốc hội, Hiến pháp quyết định chọn trong công dân). Với hiến pháp 1946, Chủ tịch nước lúc này phải chịu trách nhiệm trước quốc hội với nhiệm kỳ theo nhiệm kỳ của Quốc hội (4 năm). Khác với hiến pháp 1946, Chủ tịch nước lúc này phải chịu trách nhiệm trước Quốc hội. Như vậy hiến pháp 1959, vị trí Chủ tịch nước gắn bó hơn với Quốc hội và điều này phù hợp với nguyên tắc tổ chức bộ mày Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, Chủ tịch nước vẫn còn có vai trò khá lớn với hội đồng chính phủ. Chủ tịch nước đề nghị thủ tướng chính phủ để Quốc hội quyết định, căn cứ vào quyết định Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội mà bổ nhiệm, bãi nhiệm thủ tướng, Phó Thủ tướng và các thành viên khác trong Hội đồng Chính phủ. Khi thấy cần thiết Chủ tịch nước có quyền tham dự và chủ tọa các phiên họp của Hội đồng Chính phủ, tuy nhiên vẫn còn nghiêng nhiều về phía Chính phủ. Đây là những điểm kế thừa vị trí chủ tịch nước đối với Chính phủ ở Hiến pháp 1946. 3- Chế định Chủ tịch nước theo Hiến pháp 1980. Tại hiến pháp 1980, Chủ tịch nước cá nhân được thay thế bằng chế định Chủ tịch nước tập thể dưới hình thức “Hội đồng nhà nước – cơ quan hoạt động thường xuyên của Quốc hội là Chủ tịch nước tập thể nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Điều 98 – Hiến pháp 1980). Đây là mô hình tổ chức nguyên thủ quốc gia chung của các  nhà nước xã hội chủ nghĩa mà ở đó nguyên tắc tập quyền được vận dụng triệt để. Với cách tổ chức này thì các hoạt động của Nhà nước đều trực tiếp thực hiện bởi các cơ quan đại diện quyền lực Nhà nước cao nhất của người dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Bản thân Hội đồng Bộ trưởng (tức Chính phủ) cũng được tổ chức gắn liền với Quốc hội (Hội đồng Bộ trưởng là cơ quan chấp hành và hành chính Nhà nước cao nhất của cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất – Điều 104 Hiến pháp 1980). Đối với nước ta, đến đây chỉ có thể coi là đã hình thành quá trình xây dựng bộ máy nhà nước theo mô hình xã hội chủ nghĩa thuần túy (theo kiểu Xô Viết). Đó là sự phát triển của logic. Tuy vậy, thực hiện thể chế Hội đồng nhà nước đã nhanh chóng bộc lộ nhiều hạn chế. Bên cạnh một số tiện lợi như các vấn đề thuộc quyền hạn của nguyên thủ quốc gia đều được kết hợp giữa Quốc hội và Hội đồng nhà nước được thảo luận tập thể và quyết theo đa số (thường chắc chắn và tránh được ngẫu nhiên). Bộ máy giảm bớt được một số khâu và đơn giản thủ tục làm việc…còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết như: mọi vấn đề phải bàn bạc tập thể và quyết định theo đa số nên chậm chạp, không phân định hội đồng tập thể của cơ quan thường trực Quốc hội và chức trách cá nhân trong việc thực hiện các hội đồng đại diện Nhà nước. Tình hình đó đặt ra yêu cầu phải tổ chức lại chế định này và Hiến pháp 1992 được soạn thảo và công bố. 4- Chế định Chủ tịch nước hiến pháp 1992. Tại hiến pháp 1992, thiết chế Chủ tịch nước được xây dựng. Mô hình này vừa tiếp thu những ưu điểm của mô hình Chủ tịch nước trong hiến pháp 1946 và hiến pháp 1959, vừa giữ được sự gắn bó với Quốc hội, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước trong việc thực hiện các chức năng nguyên thủ quốc gia và thể chế hội đồng nhà nước ở Hiến pháp năm 1980 (đặc trưng của Bộ máy nhà nước xã hội chủ nghĩa), đồng thời có những ưu điểm đảm bảo sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước. a-    Về tính chất của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1992. Theo quy định của Hiến pháp (Điều 101 Hiến pháp năm 1992), Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước, thay mặt cho nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam về đối nội và đối ngoại. Những tính chất này cũng giống như quy định tại những Hiến pháp trước, phần nhiều là theo thông lệ.           b- Về quan hệ của Chủ tịch nước với các cơ quan khác của Nhà nước theo Hiến pháp năm 1992.: Thứ nhất, Quan hệ của Chủ tịch nước với Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Chủ tịch nước do Quốc hội bầu (trong số các đại biểu Quốc hội) theo sự giới thiệu của Ủy ban thường vụ Quốc hội, với nhiệm kỳ như nhiệm kỳ của Quốc hội (là năm năm) và chịu trách nhiệm báo cáo trước Quốc hội. Quốc hội có quyền bãi bỏ các văn bản của Chủ tịch nước trái Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Đại biểu Quốc hội có quyền chất vấn Chủ tịch nước, Chủ tịch nước phải trả lời Quốc hội tại kỳ họp, trong trường hợp cần điều tra thì Quốc hội có thể quyết định trả lời trươc Ủy ban thường vụ Quốc hội hay tại kỳ họp sau của Quốc hội hay cho trả lời bằng văn bản. Pháp lệnh của Ủy ban thường vụ Quốc hội phải được công bố chậm nhất mười lăm ngày, kể từ ngày thông qua.  Điều này thể hiện thính phái sinh và sự gắn bó giữa Chủ tịch nước, Quốc hội và Ủy ban thường vụ Quốc hội. Về mặt lý luận trong chính thể Xã hội chủ nghĩa, các chức năng đứng đầu Nhà nước thuộc về cơ quan quyền lực cao nhất (Quốc hội). Trước đây, Hội đồng nhân dân là một cơ cấu nằm trong Quốc hội, Hiến pháp năm 1992 tách thành thiết chế riêng, song vẫn nghiêng về phía Quốc hội, gắn bó chặt chẽ với Quốc hội mà không gắn bó với Chính phủ như ở Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 hay không thuộc về hành pháp như Nguyên thủ Quốc gia ở đa số các nước Tư bản, là những quan điểm rất phù hợp.           Thứ hai, Quan hệ Chủ tịch nước với Chính phủ.           Cũng được xác định lại theo hướng tiếp thu kinh nghiệm của các Hiến pháp trước và của các nước trên Thế giới. Mối quan hệ này được Hiến pháp năm 1992 và Luật tổ chức Chính phủ ngày 30 tháng 9 năm 1992 quy định như sau: Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Thủ tướng Chính phủ; căn cứ vào nghị quyết Quốc hội bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, chấp thuận việc từ chức đối với Phó Thủ tướng, quyết định tạm đình chỉ công tác của Phó Thủ tướng, Bộ trưởng, Thủ tưởng cơ quan ngang Bộ. Thủ tướng Chính phủ đôn đốc, kiểm tra việc thực hiện. Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ phải báo cáo trước Chủ tịch nước, các báo cáo công tác của Chính phủ phải được Chính phủ thảo luận tập thể và biểu quyết đa số. Việc xác định mối quan hệ như vậy thể hiện vai trò của Chủ tịch nước đối với bộ máy hành pháp và bảo đảm sự phối hợp gắn bó giữa Chủ tịch nước, Quốc hội và Chính phủ.           Thứ ba, mối quan hệ của Chủ tịch nước với Tòa án nhân dân tối cao.           Trước đây, mối quan hệ giữa Chủ tịch nước (Hội đồng Nhân dân) với cơ quan này chưa được định rõ. Hiến pháp năm 1992 thể hiện mối quan hệ này trên tinh thần bảo đảm cho Chủ tịch nước liên kết, phối hợp với tất cả các cơ quan trong cơ chế Nhà nước.Với Hiến pháp năm 1992, chế độ bầu cử Thẩm phán đã được thay thế bằng chế độ thẩm phán bổ nhiệm, chỉ từ chức vụ Chánh án Tòa án nhân dân tối cao do Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm, cách chức Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa ân nhân dân tối cao; Chánh án, Phó Chánh án, Thẩm phán Tòa án quân sự Trung Ương.Trong thời gian Quốc hội không họp, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Thứ tư, mối quan hệ của Chủ tịch nước với Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cùng với Hiến pháp năm 1992, luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân ngày 8 tháng 10 năm 1992 đã có những quy định sau: - Chủ tịch nước đề nghị Quốc hội bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. - Trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội và Chủ tịch nước. Báo cáo của Viện kiểm sát nhân dân tối cao phải được Ủy ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân tối cao thảo luận tập thể và quyết định thao đa số. Nếu viện trưởng không nhất trí với đa số các thành viên Ủy ban kiểm sat thì phải thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Ủy ban thường vụ Quốc hội hay Chủ tịch nước. - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao về ý kiến của mình về trường hợp bị kết án tử hình xin ân giảm. c- Về thẩm quyền của Chủ tịch nước theo Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 1992 quy định rõ thẩm quyền của Chủ tịch nước với tính cách là người đại diện cho Nhà nước và một số cơ quan phối hợp, giám sát các nhánh quyền lực lập pháp, hành pháp, tư pháp Chủ tịch nước có những nhiệm vụ quyền hạn sau: - Cử, triệu hồi Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Việt Nam , tiếp nhận Đại sứ đặc mệnh toàn quyền của nước ngoài. - Tiến hành đàm phán, ký kết điều ước Quốc tế nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với người đnưgs đầu Nhà nước khác. - Trình Quốc hội phê chuẩn những điều ước Quốc tế đã trực tiếp ký. - Quyết định cho nhập, thôi hoặc tước quốc tịch Việt Nam . - Thống lĩnh các lực lượng vũ trang nhân dân và giữ chức vụ Chủ tịch quốc phòng và an ninh. - Căn cứ vào quyết định của Quốc hội hay Ủy ban thường vụ QUốc hội quyết định tuyên bố tình trạng chiến tranh, ra lệnh tổng động viên hay động viên cục bộ, công bố tình trạng khẩn cấp trong cả nước hay t
Luận văn liên quan