Đề tài Chế độ pháp lý hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng

Có thể thấy rằng, vốn kinh doanh của các tổ chức tín dụng chủ yếu là nguồn vốn huy động. Do đó, nghiệp vụ huy động vốn được coi là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các tổ chức tín dụng, nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Phát hành giấy tờ có giá chính là một trong những hình thức huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Hoạt động này chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật nhằm đảm bảo cho các tổ chức tín dụng có thể thực hiện hoạt động phát hành giấy tờ có giá tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật, đảm bảo sự kiểm soát hiệu quả của Nhà nước. Để tìm hiểu về chế độ pháp lý của hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng, chúng ta cần xem xét những nội dung cụ thể sau đây:

doc20 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2677 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Chế độ pháp lý hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
BÀI LÀM Có thể thấy rằng, vốn kinh doanh của các tổ chức tín dụng chủ yếu là nguồn vốn huy động. Do đó, nghiệp vụ huy động vốn được coi là nghiệp vụ kinh doanh quan trọng trong các tổ chức tín dụng, nhất là trong giai đoạn hội nhập hiện nay. Phát hành giấy tờ có giá chính là một trong những hình thức huy động vốn của các tổ chức tín dụng. Hoạt động này chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật nhằm đảm bảo cho các tổ chức tín dụng có thể thực hiện hoạt động phát hành giấy tờ có giá tuân thủ theo đúng những quy định của pháp luật, đảm bảo sự kiểm soát hiệu quả của Nhà nước. Để tìm hiểu về chế độ pháp lý của hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các tổ chức tín dụng, chúng ta cần xem xét những nội dung cụ thể sau đây: I./ KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Khái niệm và các hình thức huy động vốn của tổ chức tín dụng Khi nền sản xuất hàng hoá hình thành, phát triển thì tiền tệ xuất hiện và nghề kinh doanh tiền tệ cũng ra đời. Sự phát triển của nghề kinh doanh tiền tệ dẫn đến sự xuất hiện của những tổ chức chuyên thực hiện hoạt động thu nhận nhận các nguồn vốn nhàn rỗi trong xã hội và sử dụng để cấp tín dụng, làm các dịch vụ tiền tệ khác. Người ta gọi đó là các tổ chức tín dụng (TCTD). Hoạt động của các TCTD rất đa dạng và đã góp phần quan trọng trong việc luân chuyển nguồn vốn trong nền kinh tế và tạo ra những tiện ích cho người dân. Một trong những hoạt động đầu tiên và được biết đến một cách phổ biến, luôn gắn liền với các TCTD là hoạt động huy động vốn. Pháp luật hiện hành chưa có quy định về khái niệm của thể của "hoạt động huy động vốn của các TCTD" mà mới chỉ ra các hình thức huy động vốn được phép của từng loại hình TCTD. Nhưng có thể hiểu khái quát: Hoạt động huy động vốn của TCTD là việc các TCTD tập trung các khoản tiền từ tổ chức, cá nhân trong nền kinh tế thông qua bốn hình thức huy động vốn cơ bản - đó là: Huy động vốn bằng nhận tiền gửi; Huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá; Huy động vốn bằng vay vốn của các TCTD; Huy động vốn bằng vay vốn của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, phát hành giấy tờ có giá là một trong những hình thức huy động vốn của TCTD. Hình thức huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá thường được sử dụng khi TCTD đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn, với thời hạn giải ngân cụ thể của khách hàng. Do có những điểm đặc thù so với các hình thức huy động vốn khác, hoạt động phát hành giấy tờ có giá có quy chế pháp lý riêng. 2. Hoạt động phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng a) Khái niệm Hiện nay, việc huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá của các TCTD được điều chỉnh chủ yếu trong Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD ban hành kèm quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2008 củaThống đốc Ngân hàng Nhà nước và Thông tư số 16/2009/TT-NHNN ngày 11/08/2009 của Ngân hàng Nhà nước sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của tổ chức tín dụng ban hành kèm theo quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN ngày 24/03/2008 củaThống đốc Ngân hàng Nhà nước. Theo quy chế này thì: "Giấy tờ có giá là chứng nhận của TCTD phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong khoảng thời gian nhất định, điều kiện trả lãi và các điều khoản cam kết khác giữa TCTD và người mua". Như vậy, về bản chất, giấy tờ có giá chính là một công cụ vay nợ trên thị trường tiền tệ, thị trường vay vốn dưới hình thức giấy nhận nợ hoặc chứng chỉ tiền gửi, trong đó, TCTD cam kết trả gốc, lãi cho người mua sau một thời gian nhất định. Khái niệm "hoạt động phát hành giấy tờ có giá" được xem xét trên hai phương diện: Về phương diện kinh tế, hoạt động phát hành giấy tờ có giá được hiểu là một nghiệp vụ huy động vốn của TCTD. Nghiệp vụ này được thực hiện thông qua việc TCTD phát hành ra công chúng các giấy tờ có giá dưới dạng chứng khoán nợ để vay tiền của công chúng, với cam kết hoàn trả số tiền đó kèm theo một khoản tiền lãi vào ngày đáo hạn. Về phương diện pháp lý, hoạt động phát hành giấy tờ có giá của các TCTD được hiểu là hành vi pháp lý trong đó TCTD cam kết vay tiền của khách hàng trong một thời hạn nhất định với điều kiện sẽ hoàn trả cho khách hàng số tiền ghi trên chứng thư nhận nợ do TCTD phát hành. Bằng cách huy động vốn này, TCTD có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong một thời gian ngắn. Khi tiến hành huy động vốn bằng hình thức phát hành giấy tờ có giá, các TCTD thường phải trả lãi suất cao hơn so với lãi suất tiền gửi huy động. Bởi vậy, nghiệp vụ này chỉ được tiến hành khi TCTD thiếu vốn, đồng thời, khi huy động vốn theo hình thức này, TCTD phải căn cứ bào khả năng đầu ra để quyết định khối lượng vốn huy động, mức lãi suất, thời hạn và phương pháp huy động vốn. b) Đặc điểm Hoạt động huy động vốn thông qua hình thức phát hành giấy tờ có giá là việc các TCTD vay vốn của các tổ chức, cá nhân thông qua việc phát hành các loại giấy tờ có giá với sự chấp nhận của Ngân hàng Nhà nước hoặc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Hoạt động này có những đặc điểm cơ bản sau: Về bản chất pháp lý: Việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD ra công chúng thực chất là một hành vi vay tiền của khách hàng chứ không phải là hành vi "bán" giấy tờ có giá cho khách hàng. Bởi trong quan hệ giao dịch này, TCTD không hề có quyền sở hữu đối với giấy tờ có giá do mình tự phát hành, nên không thể đóng vai trò là người bán trong quan hệ này. Đồng thời, trước khi giấy tờ có giá được chuyển giao cho khách hàng sở hữu như một chứng thư xác nhận quyền chủ nợ và khi TCTD chưa nhận được nguồn tiền tệ do khách hàng chuyển giao thì các chứng thư này thực chất chưa hề có giá trị thực tế - nghĩa là không thể hối đoái chúng thành tiền hay các tài sản có giá trị tương đương với số tiền ghi trên mệnh giá của chứng thư. Chỉ khi nàp khách hàng chấp nhận trao đổi chứng thư đó với TCTD bằng số tiền tương đương với mệnh giá của chứng thư thì chứng thư này mới thực sự có giá trị và mới phản ảnh đúng tên gọi của nó - "giấy tờ có giá". Về đối tượng của giao dịch phát hành giấy tờ có giá: Mặc dù tên gọi của giao dịch là "phát hành giấy tờ có giá" nhưng đối tượng của giao dịch này lại không phải là các "giấy tờ có giá" do TCTD phát hành, mà chính là khoản tiền vốn do khách hàng đồng ý chuyển quyền sở hữu cho TCTD với điều kiện TCTD phải hoàn trả cho khách hàng sau một thời gian nhất định, kèm theo đó là khoản lãi do các bên thoả thuận. Về lý thuyết, tuy không phải là đối tượng của giao dịch nhưng các chứng thư này được coi là hình thức pháp lý của giao dịch, đồng thời là chứng cứ chứng minh quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên trong quan hệ giao dịch. Mặt khác, xét về phương diện kinh tế, các chứng thư này cũng được coi là một loại “tiền ngân hàng” nhưng không phải là tiền do Ngân hàng Trung ương phát hành, mà là tiền được tạo ra bởi TCTD trong quá trình huy động vốn, thông qua chức năng “tạo tiền” của TCTD. Trên thực tế, các chứng thư nhận nợ do TCTD phát hành ra công chúng có thể là chứng khoán nợ ngắn hạn - có thời hạn thanh toán dưới 1 năm (ví dụ chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn); kỳ phiếu ngân hàng hay tín phiếu của tổ chức tín dụng, hoặc là chứng khoán nợ dài hạn - có thời hạn thanh toán từ 1 năm trở lên (ví dụ chứng thư tiền gửi dài hạn hoặc trái phiếu ngân hàng…). Sự phân biệt giữa hai loại chứng thư nhận nợ này chủ yếu nhằm xác định cơ chế phát hành và lưu thông chúng như thế nào sau khi đã được phát hành trên thị trường bởi TCTD (phát hành và bán lại cho ai, ở đâu và bằng cách nào?). Về tư cách pháp lý: trong giao dịch phát hành giấy tờ có giá thì TCTD có tư cách là người vay, còn khách hàng "mua" giấy tờ có giá có tư cách là người cho vay hay chủ nợ của TCTD. Mặc dù có tư cách là người cho vay nhưng do giao dịch này được ngân hàng và khách hàng xác lập, thực hiện thông qua một hợp đồng cho vay có thời hạn xác định nên về nguyên tắc, khách hàng cho vay không thể rút vốn về trước kỳ hạn như trong trường hợp họ gửi tiền có kỳ hạn tại ngân hàng. Nếu muốn thu hồi vốn về trước kỳ hạn, cách duy nhất là người sở hữu giấy tờ có giá (bên cho vay) ký hợp đồng chuyển nhượng chứng thư đó cho người khác - chẳng hạn, có thể “bán” cho ngân hàng thương mại theo phương thức chiết khấu hoặc bán cho các tổ chức, cá nhân khác theo phương thức thông thường trên thị trường tiền tệ hoặc thị trường chứng khoán. c) Vai trò của hoạt động phát hành giấy tờ có giá Qua sự phân tích những đặc điểm cơ bản trên, có thể thấy rằng, cùng với nguồn vốn huy động từ nhận tiền gửi, nguồn vốn huy động từ việc phát hành giấy tờ có giá cũng giữ một vị trí quan trọng, chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ vốn kinh doanh của TCTD. Đây là nguồn vốn ảnh hưởng lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của TCTD. Nguồn vốn này có xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu hướng tăng trưởng và ổn định của nền kinh tế, với việc cải tiến và nâng cao chất lượng dịch vụ của TCTD, với việc gia tăng nhu cầu thanh toán của khách hàng. Ngày nay, để đáp ứng nhu cầu huy động vốn ngày càng đa dạng, các ngân hàng đã phát hành nhiều loại giấy tờ có giá trên thị trường với thời hạn, mệnh giá, lãi suất và khả năng chuyển nhượng khác nhau. Có thể lấy ví dụ: Ở Hoa Kỳ, các ngân hàng thương mại có phát hành chứng thư tiền gửi ngắn hạn (CDs) với giá trị bề mặt tối thiểu là 100.000 USD, trong khi ở Anh các ngân hàng thương mại lại có thể phát hành các trái phiếu ngân hàng có thời hạn hoặc không có thời hạn có lãi suất thả nổi. Còn ở Việt Nam, trong thời gian gần đây, các ngân hàng thương mại đã bắt đầu phát hành một số loại chứng khoán nợ ra công chứng như kỳ phiếu ngân hàng có mục đích, trái phiếu ngân hàng thương mại. Mặc dù có tên gọi khác nhau nhưng hầu như tất cả các giấy tờ có giá trên đều có chung bản chất - đó là các chứng khoán nợ trong đó phản ánh việc ngân hàng mắc nợ người sở hữu chứng khoán một số tiền nhất định với nghĩa vụ hoàn trả cả gốc và lãi chứng khoán vào một ngày nhất định trong tương lai. II./ QUY CHẾ PHÁP LÝ CỦA HOẠT ĐỘNG PHÁT HÀNH GIẤY TỜ CÓ GIÁ CỦA TỔ CHỨC TÍN DỤNG Các loại giấy tờ có giá và các hình thức phát hành a) Các loại giấy tờ có giá Theo quy định tại Khoản 2 và Khoản 3 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước ban hành kèm quyết định số 07/2008/QĐ-NHNN thì giấy tờ có giá do các TCTD phát hành bao gồm: Giấy tờ có giá ngắn hạn: là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một 1 năm bao gồm kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác (Khoản 2 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD). Giấy tờ có giá dài hạn: là giấy tờ có giá có thời hạn từ một năm trở lên, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài hạn khác (Khoản 3 Điều 4 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD). b) Các hình thức phát hành của giấy tờ có giá Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành có thể thể hiện dưới hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ, có thể là loại giấy tờ có ghi danh hoặc không ghi danh. "Giấy tờ có giá ghi danh" là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu."Giấy tờ có giá vô danh" là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá. Cụ thể là: Hình thức chứng chỉ: Khoản 1, Điều 8 Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD quy định giấy tờ có giá phát hành dưới hình thức chứng chỉ phải có các yếu tố sau: - Tên tổ chức tín dụng phát hành; - Tên gọi giấy tờ có giá (kỳ phiếu, tín phiếu, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, chứng chỉ tiền gửi dài hạn, trái phiếu …); - Mệnh giá; - Thời hạn; - Ngày phát hành; - Ngày đến hạn thanh toán; - Lãi suất: Phương thức trả lãi, Thời điểm, địa điểm trả lãi; - Địa điểm thanh toán tiền gốc giấy tờ có giá; - Ghi rõ là giấy tờ có giá ghi danh hoặc vô danh. Trường hợp là giấy tờ có giá ghi danh ghi rõ: Tên tổ chức, số giấy phép thành lập hoặc giấy phép đăng ký kinh doanh, địa chỉ của tổ chức mua giấy tờ có giá (nếu người mua là tổ chức); Tên, số chứng minh nhân dân hoặc hộ chiếu, địa chỉ của người mua giấy tờ có giá (nếu người mua là cá nhân); - Đối với phát hành trái phiếu chuyển đổi phải ghi rõ: Thời hạn chuyển đổi trái phiếu, tỷ lệ chuyển đổi trái phiếu. “Trái phiếu chuyển đổi” là loại trái phiếu có thể chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông của cùng một tổ chức tín dụng phát hành theo các điều kiện đã được xác định trong phương án phát hành; - Đối với phát hành trái phiếu kèm chứng quyền phải ghi rõ: Điều kiện được mua cổ phiếu phổ thông của người sở hữu chứng quyền, số lượng cổ phiếu được mua của từng đơn vị chứng quyền, các quyền lợi và trách nhiệm khác của người nắm giữ chứng quyền. “Chứng quyền” là loại chứng khoán phát hành kèm theo trái phiếu xác định quyền của người sở hữu trái phiếu được mua một khối lượng cổ phiếu phổ thông nhất định theo các điều kiện đã xác định; - Chữ ký của Tổng Giám đốc hay người được ủy quyền và các chữ ký khác do tổ chức tín dụng quy định; - Ký hiệu, số sê-ri phát hành; - Các điều kiện, điều khoản về chuyển nhượng, chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá tại chính tổ chức tín dụng phát hành; Xử lý đối với các trường hợp rủi ro, các trường hợp không được thanh toán. Giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng chỉ phải được thiết kế và in ấn để đảm bảo khả năng chống giả cao. Ngoài các yếu tố trên, tổ chức tín dụng phát hành có thể quy định thêm các nội dung ghi chú, chỉ dẫn khác liên quan đến giấy tờ có giá. Hình thức ghi sổ: Được quy định tại Khoản 3 Điều 8 của Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD "Đối với giấy tờ có giá phát hành theo hình thức ghi sổ, các yếu tố quy định tại Khoản 1 Điều này phải được ghi vào trong giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá". Như vậy, trường hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, TCTD phải cấp giấy chứng nhận giấy chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá cho người mua Các giấy tờ có giá do TCTD phát hành được chuyển nhượng quyền sở hữu dưới các hình thức mua, bán, tặng, cho, trao đổi, thừa kế hoặc người sở hữu giấy tờ có giá có thể dùng làm vật cầm cố... Các điều kiện phát hành giấy tờ có giá a) Điều kiện về đối tượng phát hành giấy tờ có giá và đối tượng mua giấy tờ có giá Đối tượng được phát hành giấy tờ có giá: được quy định tại Điều 2 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD, bao gồm: Các TCTD được thành lập và hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng hiện hành: TCTD Nhà nước; TCTD cổ phần; TCTD liên doanh; Quỹ tín dụng nhân dân trung ương; các TCTD 100% vốn nước ngoài và các chi nhành ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam; Riêng công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, loại giấy tờ có giá và thời hạn giấy tờ có giá được phép huy động thực hiện theo quy định hiện hành về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính. Đối tượng mua giấy tờ có giá: được quy định cụ thể tại Điều 3 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD, bao gồm: Tổ chức, cá nhân Việt Nam; Người Việt Nam định cư ở nước ngoài; Tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật Việt Nam, bao gồm các tổ chức, cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và không hoạt động tại Việt Nam. Đối với người mua giấy tờ có giá là tổ chức, cá nhân nước ngoài, tổ chức tín dụng chỉ được phát hành giấy tờ có giá ghi danh. b) Điều kiện phát hành đối với từng loại giấy tờ có giá Như đã phân tích ở trên, giấy tờ có giá được phân chia thành hai loai, đó là: giấy tờ có giá dài hạn và giấy tờ có giá ngắn hạn. Và pháp luật cũng có những quy định cụ thể về điều kiện phát hành đối với từng loại giấy tờ có giá trên. Cụ thể là: Điều kiện phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn: được quy định cụ thể tại Điều 18 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD "Tổ chức tín dụng được phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn khi tuân thủ đầy đủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước". Những quy định hạn chế bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng được quy định tại Mục 5 Chương III của Luật các tổ chức tín dụng hiên hành. Theo đó, TCTD muốn phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn phải đảm bảo quy định về tỷ lệ bảo đảm an toàn (Điều 81); quy định về dự phòng rủi ro (Điều 82). Điều kiện phát hành giấy tờ có giá dài hạn: được quy định tại Điều 22 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD và Khoản 1 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN. Cụ thể là: Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Giống với điều kiện phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn, những quy định này là nhằm dự phòng những rủi ro trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung - một hoạt động luôn tiềm ẩn những rủi ro. Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày tổ chức tín dụng chính thức đi vào hoạt động. Kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi. Đây là điểm mới sửa đổi, bổ sung của Thông tư số 16/2009/TT-NHNN nhằm tạo điều kiện cho các TCTD phát hành GTCG dài hạn, đồng thời đảm bảo khả năng chi trả của các TCTD đối với các khoản huy động vốn từ hoạt động phát hành giấy tờ có giá, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc phát hành giấy tờ có giá dài hạn của năm tài chính của tổ chức tín dụng. Có thể thấy rằng, điều kiện phát hành giấy tờ có giá dài hạn được quy định chặt chẽ hơn so với điều kiện phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn. Điều này xuất phát từ đặc trưng của từng loại giấy tờ có giá được pháp luật quy định, đảm bảo tính phù hợp trong hoạt động phát hành giấy tờ có giá. Điều kiện phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền: được quy định tại Điều 26, 27 và 28 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD và Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN. Theo đó: Đối tượng phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền là các TCTD cổ phần (Điều 26); Pháp luật có quy định cụ thể về giới hạn đối với người mua trái phiếu chuyển đổi và trái phiếu kèm chứng quyền: "Đối với người mua trái phiếu chuyển đổi hoặc mua trái phiếu kèm chứng quyền là tổ chức, cá nhân nước ngoài, khi đến thời hạn chuyển đổi thành cổ phiếu hoặc đến thời hạn mua cổ phiếu phải đảm bảo phù hợp với quy định hiện hành của Chính phủ và của Ngân hàng Nhà nước về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của tổ chức tín dụng Việt Nam và các văn bản pháp luật có liên quan" (Khoản 1 Điều 27); "Đối với người mua trái phiếu chuyển đổi hoặc trái phiếu kèm chứng quyền là các tổ chức tín dụng, khi đến thời hạn chuyển đổi thành cổ phiếu hoặc đến thời hạn mua cổ phiếu phải phù hợp với quy định hiện hành của Luật các tổ chức tín dụng và của Ngân hàng Nhà nước về giới hạn góp vốn, mua cổ phần và các văn bản pháp luật có liên quan" (Khoản 2 Điều 27). Đây là những quy định nhằm đảm bảo việc mua trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của các đối tượng là tổ chức, cá nhân nước ngoài và các TCTD phải phù hợp với các quy định khác của pháp luật. Tổ chức tín dụng phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện quy định tại Điều 28 Quy chế phát hành giấy tờ có giá trong nước của TCTD và Khoản 2 Điều 1 Thông tư số 16/2009/TT-NHNN. Cụ thể là: Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. Có thời gian hoạt động tối thiểu là một năm kể từ ngày tổ chức tín dụng chính thức đi vào hoạt động. Phương án tăng vốn điều lệ từ nguồn phát hành trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền của năm tài chính được Đại hội đồng cổ đông thông qua và được sự chấp thuận của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Kết quả hoạt động, kinh doanh của năm liền kề trước năm phát hành và tính đến thời điểm gần nhất phải có lãi, tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ