Đề tài Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí x kinh doanh tại xí nghiệp 24

Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quản trị tài chính là công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý kinh tế cả về mặt vĩ mụ và vi mụ. Hoạt động trong cơ chế thị trường, việc tồn tại và phát triển là vấn đề sống cũn đối với doanh nghiệp, trong đó lợi nhuận là động lực chính hướng dẫn và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận, cơ chế thị trường đũi hỏi cỏc doanh nghiệp sản xuất phải thường xuyên quan tâm đến chi phí sản xuất. Do đó công tác quản lý chi phớ là cụng việc trọng tõm và luụn được xoay quanh trước các quyết định quản trị tài chính. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có điều tiết và cạnh tranh, khi quyết định lựa chọn phương án sản xuất một sản phẩm nào đó doanh nghiệp luôn phải tính đến lượng chi phí bỏ ra và kết quả thu về. Doanh nghiệp có tồn tại hay không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra trong quá trỡnh sản xuất hay khụng. Nghĩa là doanh nghiệp phải tớnh toỏn hợp lý chi phớ sản xuất và thực hiện quỏ trỡnh sản xuất theo đúng kế hoạch đó đặt ra. Chi phí và giá thành là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh kết quả việc quản lý sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn. Phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp và cũng là vấn đề quan tâm của toàn xó hội. Vỡ vậy, cụng tỏc quản lý chi phớ sản xuất kinh doanh là khõu quan trọng đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời chính xác về kết quả hoạt động sản xuất, đáp ứng cho việc ra quyết định quản lý, là yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung. Sau một thời gian thực tập tại xớ nghiệp 24 - xớ nghiệp thành viờn của Cụng ty 22 - TCHC - BQP, tỡm hiểu được thực trạng quản lý kinh tế của xí nghiệp kết hợp với những nhận thức của bản thân về tầm quan trọng cả công tác quản lý chi phí sản xuất, em đó lựa chọn đề tài"Chi phớ sản xuất kinh doanh và cỏc biện phỏp quản lý chi phớ x kinh doanh tại xớ nghiệp 24" cho luân văn tốt nghiệp của mỡnh. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo 3 chương. Chương I: Một số lý luận cơ bản về chi phí sản xuất kinh doanh và quản lý chi phớ sản xuất kinh doanh của cỏc doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng về công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp 24 những năm qua. Chương III: Một số vấn đề xuất nhằm tăng cường công tác quản lý chi phớ sản xuất kinh doanh tại xớ nghiệp 24.

doc62 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 1700 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí x kinh doanh tại xí nghiệp 24, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, quản trị tài chính là công cụ quan trọng phục vụ cho việc quản lý kinh tế cả về mặt vĩ mô và vi mô. Hoạt động trong cơ chế thị trường, việc tồn tại và phát triển là vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp, trong đó lợi nhuận là động lực chính hướng dẫn và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Muốn có lợi nhuận, cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp sản xuất phải thường xuyên quan tâm đến chi phí sản xuất. Do đó công tác quản lý chi phí là công việc trọng tâm và luôn được xoay quanh trước các quyết định quản trị tài chính. Đối với các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường có điều tiết và cạnh tranh, khi quyết định lựa chọn phương án sản xuất một sản phẩm nào đó doanh nghiệp luôn phải tính đến lượng chi phí bỏ ra và kết quả thu về. Doanh nghiệp có tồn tại hay không phụ thuộc vào việc doanh nghiệp có đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra trong quá trình sản xuất hay không. Nghĩa là doanh nghiệp phải tính toán hợp lý chi phí sản xuất và thực hiện quá trình sản xuất theo đúng kế hoạch đã đặt ra. Chi phí và giá thành là chỉ tiêu chất lượng quan trọng phản ánh kết quả việc quản lý sử dụng vật tư, lao động, tiền vốn. Phấn đấu tiết kiệm chi phí sản xuất là mục tiêu hàng đầu của mọi doanh nghiệp và cũng là vấn đề quan tâm của toàn xã hội. Vì vậy, công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh là khâu quan trọng đảm bảo cung cấp thông tin kịp thời chính xác về kết quả hoạt động sản xuất, đáp ứng cho việc ra quyết định quản lý, là yếu tố đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp nói riêng, tăng trưởng và phát triển nền kinh tế nói chung. Sau một thời gian thực tập tại xí nghiệp 24 - xí nghiệp thành viên của Công ty 22 - TCHC - BQP, tìm hiểu được thực trạng quản lý kinh tế của xí nghiệp kết hợp với những nhận thức của bản thân về tầm quan trọng cả công tác quản lý chi phí sản xuất, em đã lựa chọn đề tài"Chi phí sản xuất kinh doanh và các biện pháp quản lý chi phí x kinh doanh tại xí nghiệp 24" cho luân văn tốt nghiệp của mình. Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cấu theo 3 chương. Chương I: Một số lý luận cơ bản về chi phí sản xuất kinh doanh và quản lý chi phí sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng về công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp 24 những năm qua. Chương III: Một số vấn đề xuất nhằm tăng cường công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh tại xí nghiệp 24. CHƯƠNG I NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH VÀ QUẢN LÝ CHI PHÍ SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG. 1.1. Doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. 1.1.1. Doanh nghiệp trong cơ chế thị trường. Từ khi nền kinh tế chuyển sang hoạt động theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phần lớn doanh nghiệp đã từng bước thích ứng với hoàn cảnh mới, không những thế còn góp phần đáng kể vào việc ổn định kinh tế xã hội, đưa nền kinh tế ra khỏi khủng hoảng. Điều đó càng chứng tỏ sức mạnh vật chất của các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp Nhà nước trong việc giúp Nhà nước điều tiết và hướng dẫn nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh những kết quả bước đầu, đứng trước những tình thế mới, thời cơ và thách thức mới, các doanh nghiệp còn bộc lộ nhiều yếu kém. Mốc thời gian hội nhập đang đến gần, trong khi đó nhiều doanh nghiệp vẫn hoạt động theo lối chờ đợi sự bảo hộ của Nhà nước, chưa chủ động chuẩn bị khẩn trương những biện pháp sách lược sản xuất kinh doanh cụ thể cho doanh nghiệp mình để thích ứng với lịch trình đã và sẽ cam kết. Rõ ràng doanh nghiệp không còn sự lựa chọn nào khác ngoài việc tìm cách tăng năng suất lao động, tiết kiệm chi phí, giảm giá thành sản phẩm, tăng chất lượng hàng hoá bán ra để tăng sức cạnh tranh, từng bước chiếm lĩnh thị trường trong nước và trên thế giới. Vì vậy để tồn tại và phát triển trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp tất yếu phải đặt công tác quản lý chi phí sản xuất kinh doanh vào vị trí trọng tâm then chốt. Bởi quản lý chi phí, giá thành sản phẩm sẽ tạo điều kiện để doanh nghiệp đi vào hoạt động kinh doanh có lãi, thực hiện những mục tiêu đề ra. 1.1.2. Những tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động của doanh nghiệp Trong xã hội nói chung và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói riêng không một doanh nghiệp nào có thể tồn tại biệt lập. Thực tế hiển nhiên là khi muốn thành đạt, doanh nghiệp không chỉ phải nắm vững nguồn lực bên trong mà còn phải nắm vững cả nguồn lực bên ngoài để có thể tận dụng được các cơ hội kinh doanh. Các nguồn lực bên ngoài đó chính là môi trường kinh doanh. Trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường, tác động của môi trường kinh doanh đến hoạt động của doanh nghiệp có những nét cơ bản sau: * Theo pháp luật quy định, các doanh nghiệp có quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh, tự hạch toán đảm bảo lấy thu bù chi và không có sự phân biệt các thành phần kinh tế. Điều đó một mặt tạo ra môi trường kinh doanh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, mặt khác gắn hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với kết quả cuối cùng, khuyến khích các doanh nghiệp năng động hơn trong khai thác triệt để khả năng tiềm tàng giảm thiểu chi phí, nâng cao hơn nữa hiệu quả sản xuất kinh doanh. * Hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp luôn chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi các quy luật của nền kinh tế thị trường như quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh. Bản chất của quy luật giá trị là sự trao đổi ngang giá của sản phẩm hàng hoá trên thị trường, giá cả hàng hoá được xác định trên cơ sở hao phí lao động xã hội cần thiết. Từ đó đòi hỏi người sản xuất muốn đạt được lợi nhuận siêu ngạch phải tìm ra các biện pháp hạ thấp chi phí cá biệt so với mức chi phí chung của xã hội. Nắm được quy luật cung cầu là điều kiện cơ bản đem lại sự thành đạt cho doanh nghiệp trong kinh doanh. Vì quy luật cung cầu hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của hx thông qua sức mua và giá cả trên thị trường. Ngày nay doanh nghiệp luôn phải tính toán "sản xuất cái gì, sản xuất cho ai và sản xuất như thế nào". Trong môi trường kinh doanh mới, doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh để giành lợi thế so với doanh nghiệp khác. Sự cạnh tranh có thể diễn ra ở mọi lĩnh vực, song quan trọng nhất là cạnh tranh về chất lượng và giá cả hàng hoá. Bởi doanh nghiệp nào có chất lượng hàng cao, giá bán hợp lý sẽ chiếm được thị trường tiêu thụ, tăng uy tín với khách hàng. Muốn có được lợi thế này, doanh nghiệp phải có các biện pháp quản lý sử dụng chi phí tiết kiệm mà chất lượng sản xuất vẫn đảm bảo, từ đó sẽ linh hoạt trong tăng giảm giá bán nhằm thu được lợi nhuận cao nhất. * Xu hướng toàn cầu hoá, đặc biệt là trong hoạt động kinh tế đem lại cho doanh nghiệp nhiều cơ hội mới và cả những thách thức mới. Theo xu hướng quốc tế hoá, ngày càng có nhiều cơ hội cho doanh nghiệp hợp tác liên doanh với nước ngoài để tranh thủ vốn, công nghệ sản xuất mới, mở rộng thị trường và nâng cao trình độ quản lý. Doanh nghiệp nào nhanh nhạy dũng cảm đi đầu trong đổi mới kỹ thuật, ứng dụng công nghệ mới sẽ có khả năng vươn lên chiếm lĩnh thị trường, thắng thế trong cạnh tranh, tạo bước nhảy vọt về chất cho mình. Điều này rất yếu đòi hỏi doanh nghiệp phải có những tính toán sát sao và điều cốt yếu là phải xác định được mức sinh lời của đồng vốn, phải thấy được những chi phí nào bỏ ra là cần thiết đem lại hiệu quả trong tương lai, từ đó đưa ra những quyết định đúng đắn, hạn chế rủi ro trong kinh doanh. * Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu, là khát vọng của nhà kinh doanh. Tôn trọng pháp luật, tôn trọng người tiêu dùng buộc doanh nghiệp phải cạnh tranh lành mạnh để xác định được chỗ đứng trên thương trường. Lợi ích kinh tế trở thành động lực mạnh mẽ, là mục tiêu kinh tế hàng đầu đối với doanh nghiệp kinh tế. Điều này nghĩa là doanh nghiệp càng tiết kiệm chi phí bỏ ra bao nhiêu thì lãi thu về càng tăng bấy nhiêu. Do đó các doanh nghiệp ngày nay không ngừng học hỏi áp dụng các biện pháp quản lý kinh doanh tiên tiến hiện đại phù hợp với đặc điểm doanh nghiệp mình. * Phân phối lợi ích kinh tế không chỉ theo lao động mà còn theo giá trị vốn góp. Tiền lương là giá cả hàng hoá sức lao động do đó việc thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao động căn cứ vào số lượng, chất lượng đóng góp để trả lương. Muốn giảm chi phí sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải quan tâm tuyển chọn lao động đầu vào có trình độ tay nghề cao, nhiệt tình với công việc. Mặt khác cơ chế phân phối lợi nhuận còn lại của doanh nghiệp phải thể hiện sự quan tâm tới người lao động qua trích lập và sử dụng quỹ khen thưởng phúc lợi nhằm tạo nguồn bổ sung cho người lao động. Trong nền kinh tế thị trường, vốn là một hàng hoá đặc biệt có giá trị và giá trị sử dụng. Người có vốn có thể bán quyền sử dụng vốn cho người thiếu vốn để hưởng lãi. Do đó trong phân phối lợi ích kinh tế doanh nghiệp còn phải căn cứ vào giá trị mức vốn góp của mỗi bên tham gia để phân chia lãi, đồng thời tính toán được chi phí sử dụng mỗi đồng vốn từ đó các nguồn khác nhau để c họn phương án hiệu quả nhất. Đây là một đặc trưng về môi trường kinh doanh của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường, người có vốn không cần tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh mà chỉ cần góp vốn đầu tư để kiểm lời. Trên đây là một số tác động chủ yếu của môi trường kinh doanh đến hoạt động của doanh nghiệp, người quản lý càng nắm rõ những ảnh hưởng đó càng có cơ sở để đưa ra những quyết định phù hợp với điều kiện của doanh nghiệp mình. 1.2. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp 1.2.1 Khái niệm, nội dung và đặc điểm của chi phí sản xuất kinh doanh. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp đã chi ra để hoàn thành việc sản xuất sản phẩm, cung ứng lao vụ trong một thời kỳ nhất định. Hay chi phí doanh nghiệp chi ra cấu thành nên giá trị sản phẩm bao gồm: C+ V + m. Trong đó: C: Hao phí lao động vật hoá, là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu, công cụ, dụng cụ… V: Hao phí lao động sống, là chi phí về tiền lương, tiền công.. phải trả cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. m: Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động tạo ra giá trị sản phẩm, dịch vụ lao vụ. Chi phí sản xuất có một số đặc điểm sau: - Chi phí sản xuất phát sinh thường xuyên và gắn liền với quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. - Chi phí sản xuất tỷ lệ thuận với khối lượng sản xuất sản phẩm. - Chi phí gắn liền với một thời kỳ nhất định. Theo cơ chế kinh tế hiện hành, các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động như một tổ chức sản xuất kinh doanh độc lập tương đối nên chi phí sản xuất của họ chỉ gồm 2 bộ phận là C và V. các chi phí này phát sinh có tính chất thường xuyên, gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm trong một thời kỳ nhất định có thể là quý, tháng, năm. Mặc dù những hao phí này gồm nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong điều kiện quan hệ hàng hoá tiền tệ thì các chi phí lao động sống, lao động vật hoá đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Để thu được lợi nhuận thì sau quá trình sản xuất, doanh nghiệp phải tổ chức việc tiêu thụ sản phẩm. Công việc này đòi hỏi những khoản chi phí nhất định như chi phí đóng gói, bảo quản, vận chuyển bốc dỡ sản phẩm. Mặtkhác hoạt động trong môi trường đầy tính cạnh tranh như ngày nay, để sản phẩm được người tiêu dùng chấp nhận, doanh nghiệp phải bỏ ra chi phí để nghiên cứu thị trường, chi phí tiếp thị quảng cáo giới thiệu sản phẩm, thậm chí cả bảo hành sản phẩm. Những khoản chi này liên quan đến việc lưu thông sản phẩm nên gọi là chi phí tiêu thụ sản phẩm. Ngoài chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm để thực hiện được hoạt động kinh doanh doanh nghiệp còn phải thực hiện nghĩa vụ với nhà Nhà nước như nộp thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu. Đối với doanh nghiệp, những khoản thuế trên là những chi phí mà doanh nghiệp phải bỏ ra trong kinh doanh. Vì thế nó là khoản chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Như vậy chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ và các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. Chi phí sản xuất kinh doanh là một chỉ tiêu kinh tế quan trọng, nó cho thấy tình hình sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí cũng như trình độ quản lý của doanh nghiệp. Lợi nhuận là mục tiêu của hoạt động kinh doanh còn chi phí ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận, vì vậy các doanh nghiệp phải luôn quan tâm đến công tác quản lý chi phí, bởi mỗi đồng chi phí không hợp lý, hợp lệ đều làm tăng giá thành giảm lợi nhuận. Do đó hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh là điều kiện đảm bảo cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Để quản lý tốt chi phí sản xuất kinh doanh, thực hiện tiết kiệm chi phí hợp lý doanh nghiệp cần tiến hành phân loại chi phí. 1.2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất kinh doanh cũng khác nhau. Để kiểm soát quản lý hiệu quả chi phí sản xuất kinh doanh phải tiến hành phân loại chi phí theo nhiều tiêu thức khác nhau. 1.2.2.1. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố chi phí. Theo cách phân loại này, người ta dựa vào công dụng kinh tế của chi phí phát sinh lần đầu (còn gọi là dựa vào hình thái nguyên thuỷ của chi phí phát sinh) chỉ căn cứ vào tính chất kinh tế của các khoản chi phí. Do đó những chi phí giống nhau được xếp vào một yếu tố: Chi phí nguyên liệu, vật liệu: Là giá trị toàn bộ nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực mà doanh nghiệp đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong một kỳ nhất định. Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương. Là toàn bộ tiền lương, tiền công, chi phí có tính chất tiền lương trả cho người tham gia vào quá trình sản xuất sản xuất sản phẩm. Chi phí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. Chi phí khấu hao tải sản cố định: Là số tiền khấu hao tài sản cố định trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản cố định của doanh nghiệp. Chi phí dịch vụ mua ngoài: Là các chi phí đã trả cho các tổ chức cá nhân doanh nghiệp về các dịch vụ thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp như tiền điện, nước, điện thoại, tư vấn, kiểm toán.. và các dịch vụ khác. - Chi phí khác bằng tiền: Là các khoản chi phí gồm thuế môn bài, thế sử dụng đất, chi tiếp tân giao dịch.. và các chi phí khác. Các khoản chi khác doanh nghiệp được phép tính vào chi phí sản xuất kinh doanh gồm các khoản dự phòng giảm giá theo quy định. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo yếu tố cho biết cấu loại chi phí mà doanh nghiệp chi ra. Qua đó giúp doanh nghiệp biết được trọng tâm quản lý chi phí, kiểm tra được tình hình thực hiện dự toán chi phí. 1.2.2.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo khoản mục giá thành. Cách phân loại này căn cứ vào địa điểm phát sinh chi phí và công dung kinh tế cuả chi phí. Tại mỗi địa điểm phát sinh chi phí lại căn cứ vào công dụng kinh tế của chi phí, những chi phí có nội dung giống nhau lại được xếp vào một nhóm hình thành khoản mục chi phí. Dựa vào căn cứ trên thông thường chi phí sản xuất của doanh nghiệp chia thành các khoản mục sau: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Gồm các chi phí về nguyên vật liệu, nhiên liệu trực tiếp dùng vào sản xuất sản phẩm. - Chi phí nhân công trực tiếp: Gồm các khoản trả cho người lao động trực tiếp sản xuất ra sản phẩm như tiền lương, tiền công và các khoản trích nộp của công nhân mà doanh nghiệp phải nộp theo quy định. - Chi phí sản xuất chung: Là chi phí sử dụng cho hoạt động sản xuất, chế biến của phân xưởng trực tiếp tạo ra sản phẩm và dịch vụ như chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ,KHTSCĐ, tiền lương và các khoản trích theo lương của nhân viên phân xưởng, chi phí dịch vụ mua ngoài. Chi phí khác bằng tiền ở phân xưởng. - Chi phí bán hàng: là chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá dịch vụ như tiền lương, khoản phụ cấp trả cho nhân viên bán hàng chi phí đóng gói vận chuyển sản phẩm… và các chi phí khác. - Chi phí quản lý doanh nghiệp: Là chi phí chi cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp như chi phí vật liệu, công cụ dụng cụ, KHTSCĐ, chi phí khác bằng tiền như chi phí tiếp tân giao dịch… và các khoản chi phí khác. Cách phân loại này là cơ sở cho kế toán tập hợp chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm, là căn cứ để phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành và định mức chi phí cho kỳ sau. 1.2.2.3. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh thành chi phí cố định và chi phí biến đổi. Căn cứ phân loại là dựa vào mối quan hệ giữa chi phí phát sinh và khối lượng sản phẩm hoàn thành để chia thành chi phí cố định và chi phí biến đổi: - Chi phí cố định là những khoản chi phí mà sự biến động của chúng không đồng thời với sự biến động khối lượng sản xuất. Nó là những khoản tồn tại và phát sinh ngay cả khi không sản xuất ra sản phẩm như tiền KHTSCĐ, tiền thuê đất, chi phí quản lý doanh nghiệp. - Chi phí biến đối là chi phí có mối tượng quan tỷ lệ thuận với sản lượng sản xuất như chi phí nguyên vật liệu, tiền lượng công nhân sản xuất… Biểu đồ phản ánh mối quan hệ giữa chi phí cố định và chi phí biến đổi. Cách phân loại này giúp cho doanh nghiệp thấy được mối quan hệ của từng loại chi phí trong tổng số chi ra, giúp doanh nghiệp biết được hướng biến động của từng khoản mục chi phí và chi phí bình quân trên đơn vị sản phẩm. Từ đó tìm ra biện pháp quản lý thích ứng với từng loại để hạ thấp giá thành sản phẩm giúp cho việc phân tích điểm hoà vốn để xác định được khối lượng sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 1.2.3 Giá thành sản phẩm của doanh nghiệp 1.2.3.1 Khái niệm, nội dung và đặc điểm của giá thành sản phẩm Trong sản xuất kinh doanh, chi phí mới chỉ là mặt thứ nhất thể hiện sự hao phí đã chi ra. Để đánh giá chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí phải được xem xét trong mối quan hệ với mặt thứ hai - đó là kết quả sản xuất thu được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ hay còn gọi là giá thành sản phẩm. Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí lao động sống và hao phí vật chất mà doanh nghiệp bỏ ra để thực hiện việc sản xuất và tiêu thụ một loại sản phẩm nhất định. Giá thành sản phẩm luôn chứa đựng hai mặt khác nhau bên trong nó là chi phí sản xuất đã chi ra và giá trị sử dụng thu được cấu thành trong khối lượng sản phẩm hoàn thành. Như vậy bản chất của giá thành là sự chuyển dịch giá trị của lao động vật hoá và lao động sống và giá trị sản phẩm hoàn thành do đó giá thành là phạm trù kinh tế khách quan. Mặt khác, giá thành là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh chất lượng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh và quản lý kinh tế tài chính của doanh nghiệp, do đó giá thành mang tính chủ quan nhất định. Có thể nói, giá thành là thứơc đo chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là căn cứ để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm và đồng thời là cơ sở để người quản lý ra các quyết định trong sản xuất kinh doanh. 1.2.3.2. Phân loại giá thành Phân loại theo cơ sở số liệu và thời điểm tính giá thành - Giá thành kế hoạch. Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch và sản lượng kế hoạch. Việc tính giá thành kế hoạch được tiến hành trước khi bắt đầu quá trình sản xuất và chế tạo sản phẩm, giá thành kế hoạch là mục tiêu phấn đấu của doanh nghiệp, là căn cứ để so sánh, phân tích, đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch hạ giá thành của doanh nghiệp. - Giá thành thực tế. Là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở số liệu chi phí sản xuất thực tế phát sinh và tập hợp trong kỳ. Giá thành thực tế chỉ tính được sau khi kết thúc quá trình sản xuất chế tạo sản phẩm. Giá thành thực tế là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả phấn đấu của doanh nghi
Luận văn liên quan