Đề tài Cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010

Cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế Mỹ dù đã đi qua tuy nhiên hậu quả mà nó để lại cho nền kinh tế nhiều nước là hết sức nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn đang gồng mình vật lộn với những khó khăn mà nó để lại. Đây là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực, bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010. Khủng hoảng Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng một tượng đài, một đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo theo nó là bao nhiêu khó khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu. Vậy nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là gì? Diễn biến của nó ra sao? Hậu quả gây ra như thế nào? Chính phủ Mỹ đã có biện pháp gì và Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng đó hay không? Vâng, đó cũng chính là nội dung mà nhóm sinh viên chúng tôi đã tổ chức thảo luận để tìm ra lời giải. Từ đó có một cách nhìn tổng quát về cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010.

doc31 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 11924 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
 Cuộc khủng hoảng tài chính- kinh tế Mỹ dù đã đi qua tuy nhiên hậu quả mà nó để lại cho nền kinh tế nhiều nước là hết sức nặng nề, thậm chí đến lúc này nhiều nước vẫn đang gồng mình vật lộn với những khó khăn mà nó để lại. Đây là cuộc khủng hoảng trong nhiều lĩnh vực, bắt nguồn từ khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp và bản thân nó lại là nguồn gốc trực tiếp dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2010. Khủng hoảng Mỹ xảy ra với sự bất ngờ lớn của thế giới. Không ai có thể ngờ rằng một tượng đài, một đầu tàu Thế giới lại có thể suy sụp nhanh đến như vậy và kéo theo nó là bao nhiêu khó khăn mà cả Thế giới phải gánh chịu. Vậy nguyên nhân của cuộc khủng hoảng này là gì? Diễn biến của nó ra sao? Hậu quả gây ra như thế nào? Chính phủ Mỹ đã có biện pháp gì và Việt Nam có tránh được cơn bão khủng hoảng đó hay không? Vâng, đó cũng chính là nội dung mà nhóm sinh viên chúng tôi đã tổ chức thảo luận để tìm ra lời giải. Từ đó có một cách nhìn tổng quát về cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ 2007-2010. Vì đây là lần đầu tiên nhóm tổ chức thảo luận về đề tài kinh tế nên chưa hiểu sâu về kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm nên chắc chắn sẽ không tránh khỏi những thiếu xót. Rất mong cô cùng các bạn thông cảm và đóng góp ý kiến để bài thảo luận được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! NHÓM THỰC HIỆN NHÓM 11  1, Những dấu hiệu dự báo khủng hoảng từ trước: - Vào năm 1982, giá dầu tăng và sự kiểm soát chặc chẽ tín dụng đã kềm hãm kinh tế phát triển; đồng thời làm tăng lạm phát. Kết quả tiền lời tăng đến 21% cao nhứt trong lịch sử Bắc Mỹ. Ngân sách Hoa Kỳ bị thâm thụt và thất nghiệp gia tăng. - Vào năm 2000, vì hệ thống kế toán không chính xác và thiếu minh bạch nên các hãng mạng lưới (dot.com) phóng đại các con số thu nhập; cộng thêm biến cố 9/11 đưa tới sự tuột dốc của thị trường chứng khoán và làm mất hàng ngàn tỷ tiền đầu tư của dân chúng từ tháng 3 năm 2000 đến tháng 10 năm 2002. - Vào năm 2007, giá dầu và ngũ cốc tăng; cộng thêm chi phí quá nặng cho chiến tranh Irak, Afghanistan và sự cho vay dễ dãi của ngân hàng cho những người mua nhà (sub prime mortage) đưa tới khủng hoảng kinh tế 2008. Như vậy Sub prime mortage trở thành giọt nước làm tràn ly dẫn đến khủng hoảng. 2, Chứng khoán hóa: Các sản phẩm chứng khoán hóa xuất hiện từ đầu thập niên 1970 và phát triển mạnh trong môi trường chính sách tiền tệ được nới lỏng từ năm 2001. Chứng khoán hóa và việc ra đời các sản phẩm của quá trình này như chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS), giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO) và các loại tương tự là một phát minh lớn về công cụ tài chính. Tuy nhiên, vì có ít nhất tới 4 loại chủ thể kinh tế liên quan đến chứng khoán hóa (thay vi 2 loại chủ thế kinh tế là người thế chấp - đi vay và tổ chức tín dụng cho vay - nhận thế chấp như giao dịch tín dụng truyền thống), vì sự xuất hiện của bảo hiểm cho các sản phẩm chứng khoán hóa như hợp đồng hoán đổi tổn thất tín dụng (CDS), vì sự ra đời của các thể chế như các thể chế mục đích đặc biệt (SPV) và những công cụ đầu tư kết cấu (SIV) để mua bán MBS và CDO, nên đã tồn tại những rủi ro hệ thống bao gồm cả rủi ro đạo đức và lựa chọn trái ý. Trong khi đó, mô hình giám sát tài chính của Hoa Kỳ trước khủng hoảng không đủ năng lực giám sát các rủi ro này. Những rủi ro mang tính hệ thống đã tồn tại và một khi sự cố đối với bong bóng thị trường tài sản xảy ra thì những rủi ro này sẽ làm mất lòng tin ghê gớm của các bên liên quan. Thêm vào đó, việc thực hành cho vay liên ngân hàng sẽ làm cho những tổn thất tín dụng lây lan ra toàn hệ thống ngân hàng; một ngân hàng phá sản sẽ kéo theo nhiều ngân hàng khác phá sản. Và mất lòng tin ở người gửi tiền gây ra đột biến rút tiền gửi còn làm cho tình hình thêm nghiêm trọng và diễn ra nhanh chóng hơn. Thực tế, thị trường nhà ở bắt đầu tự điều chỉnh từ năm 2005 khiến cho giá nhà đất giảm và chất lượng tài sản đảm bảo cho các MBS và các CDO giảm theo. Rủi ro mang tính hệ thống đã làm cho khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra vào tháng 5 năm 2006 khi mà nhiều tổ chức phát hành MBS và CDO cũng như một số tổ chức tài chính mà trong danh mục tài sản của mình có nhiều MBS và CDO sụp đổ. Tiếp theo đó, khủng hoảng tài chính nổ ra vào tháng 8 năm 2007 khi đến lượt cả các SPV và SIV cũng sụp đổ, rồi phát triển thành khủng hoảng tài chính toàn cầu từ tháng 9/2008 khi cả những tổ chức tài chính khổng lồ như Lehman Brothers sụp đổ. 3, Bong bong thị trường nhà ở:  Diễn biến thay đổi của lãi suất chính sách ở Hoa Kỳ (đường màu xanh).   Diễn biến thay đổi giá nhà trong thời kỳ bong bóng thị trường nhà ở. Khi bong bóng dot.com bị bể, chính phủ và các kinh tế gia Hoa Kỳ bày ra chiến dịch “mỗi gia đình làm chủ một căn nhà” để phát triển kinh tế dựa trên chương trình cho vay với lãi suất thấp trong mấy năm đầu và cao cho các năm sau (sub prime rate), viết tắt SP. Đôi khi, các nhà tín dụng còn mạo hiểm cho con nợ vay tiền mua nhà có tên là Ninja tức là người vay tiền không cần có công ăn việc làm, không cần trả tiền vốn ban đầu và không cần trả nợ trong các năm đầu. Tóm lại, bất cứ ai chỉ cần ký tên vay tiền là có thể làm chủ căn nhà. Chẳng hạn, giá nhà bán 100 đô-la, ngân hàng cho vay 120 đô-la (cao hơn giá nhà mua).20 đô-la, đồng được xử dụng để trả tất cả chi phí như tiền vốn ban đầu, tiền lời cho các năm đầu, kể cả các dịch vụ mua nhà cửa. Các năm kế tiếp, người mua nhà sẽ trả tiền lời cao hơn. Những người mua nhà đầu tư hy vọng giá nhà tăng, họ có thể bán lại căn nhà đầu tư để kiếm lời. Bong bóng Dot.com vỡ vào năm 2001 và suy thoái kinh tế hiện rõ sau sự kiện 11 tháng 9, Cục Dự trữ Liên bang Hoa Kỳ đã có những biện pháp tiền tệ để cứu nền kinh tế nước này khỏi suy thoái, đó là hạ lãi suất cho vay qua đêm liên ngân hàng.. Chỉ trong thời gian ngắn từ tháng 5 năm 2001 đến tháng 12 năm 2002, lãi suất liên ngân hàng giảm 11 đợt từ 6,5% xuống còn 1,75%. Tín dụng thứ cấp cũng giảm lãi suất theo. Điều này kích thích sự phát triển của khu vực bất động sản và ngành xây dựng làm động lực cho tăng trưởng kinh tế. Trong môi trường tín dụng dễ dãi, những tổ chức tài chính đã có xu hướng cho vay mạo hiểm, kể cả cho những người nhập cư bất hợp pháp vay. Hệ quả là vay và đi vay ồ ạt nhằm mục đích đầu cơ dẫn tới hình thành bong bóng nhà ở. Năm 2005, có tới 28% số nhà được mua là để nhằm mục đích đầu cơ và 12% mua chỉ để không. Năm này, bong bóng nhà ở này phát triển đến mức cực đại và vỡ. Từ quý IV năm 2005 đến quý I năm 2006, giá trị trung vị của giá nhà giảm 3,3%. Thời điểm đó, tổng giá trị tích lũy các khoản tín dụng nhà ở thứ cấp lên đến 600 tỷ đô-la. Sau khi bong bóng nhà ở vỡ, các cá nhân gặp khó khăn trong việc trả nợ. Nhiều tổ chức tín dụng cho vay mua nhà gặp khó khăn vì không thu hồi được nợ. Giá nhà ở giảm nhanh khiến cho các loại giấy nợ đảm bảo bằng tài sản (CDO - viết tắt của collateralized debt obligations) và chứng khoán đảm bảo bằng tài sản thế chấp (MBS - viết tắt của mortgage-backed security) do các tổ chức tài chính phát hành bị giảm giá nghiêm trọng. Kết quả là bảng cân đối tài sản của các tổ chức này xấu đi và xếp hạng tín dụng của họ bị các tổ chức đánh giá đánh tụt. Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà ở thứ cấp nổ ra. Theo hai định luật vô thường thịnh-suy và nhân duyên giữa các nhân, giá nhà và giá dầu tăng cao. Các hãng xưởng bắt đầu đóng cửa; số người thất nghiệp gia tăng. Người vay tiền không đủ sức trả nợ. Càng ngày càng nhiều người bán nhà hay chạy nợ, bỏ nhà lại cho ngân hàng (foreclosure) . Kết quả , giá nhà đổ, nhà bán không có người mua, kéo theo sự suy sụp của các ngành nghề khác. Thị trường chứng khoán tuột dốc và thế giới bị lỗ trên 1.000 tỷ đô la trong năm 2008. Điểm chót không kém quan trọng, các ngân hàng ngoại quốc ham lời nên đã chia sẻ với các ngân hàng Hoa Kỳ cho những người mua nhà vay tiền tại Hoa Kỳ. Giá nhà bị sụp đổ kéo theo sự suy thoái của thị trường chứng khoán làm cho các ngân hàng ngoại quốc bị mất hàng tỷ đô; thí dụ, ING (Hòa Lan) mất 4.5 tỷ, BNP (Pháp) 5 tỷ, Northern Rock (Anh) 25 tỷ, UBS (Thụy Sĩ) 4 tỷ v.v.            Tóm lại, sự cho vay dễ dãi của các ngân hàng tín dụng tại Hoa Kỳ đã đưa tới sự sụp đổ thị trường bất động sản, kéo theo sự lỗ lã của các ngân hàng, làm cho các ngành nghề khác bị đóng cửa, thợ thuyền thất nghiệp. Tiền đầu tư, hưu trí của dân chúng bị bốc thành hơi. Nhìn một cách khái quát hơn, nguyên nhân sâu xa chính từ cư cấu và động lực tăng trưởng bất hợp lí của Mỹ nhưng nó đã bị bỏ qua bởi các nhà hoạc định chính sách tự mãn và sự lạc quan thái quá của người dân Mỹ. Nền kinh tế mất cân bằng: Trong khi  hầu hết các quốc gia trên thế giới thúc đẩy tăng trưởng kinh tế thông qua đầu tư và đẩy mạnh xuất khẩu thì nước Mỹ đã chọn cho mình một con đường riêng để duy trì đà tăng trưởng kinh tế đó là khuyến khích và đẩy mạnh tiêu dùng nội địa. Trong nhưng năm qua tiêu dùng của người dân luôn chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ cấu GDP của nước này và hiện đang tỷ trọng lớn đến 70% GDP. Chiến lược này trong một thời gian đã tỏ ra rất hiệu quả khi lòng tin của người tiêu dùng vào triển vọng của nền kinh tế đang ở mức cao nhưng nó đã tạo nên một lỗ hổng to lớn trong nền kinh tế đó chính là làm cho nền kinh tế trở nên mất cân bằng. Tiêu dùng của người dân Mỹ đã dần dần trở nên quá mức bởi tư tưởng lạc quan thái và được khuyến khích bởi sự dễ dãi của các tổ chức tín dụng trong cho vay tiêu dùng. Chính điều đó đã tạo khoản thâm hụt thương mại cực lớn và có dấu hiệu ngày càng tăng, đồng thời hệ thống kinh tế trở nên dễ bị tổn thương hơn bao giờ hết bởi các mối quan hệ vay nợ dễ dãi và chồng chéo. Để tài trợ cho khoản thâm hụt thương mại cực lớn của mình nước Mỹ đã sử dụng biện pháp vay nợ nước ngoài bằng cách phát hành trái phiếu ra toàn thế giới và các nước đã hăng hái mua các trái phiếu này đặc biệt là Trung Quốc và các nước Châu Á. Tính chung cho 5 năm trở lại đây trung bình mỗi ngày nước Mỹ vay nợ thêm 2 tỷ USD. Và các nhà kinh tế theo chủ nghĩa hoài nghi đã cảnh báo nguy cơ khủng hoảng nhưng các cảnh báo này đã bị bỏ qua. Thậm chí có nhiều nhà kinh tế  cho rằng thâm hụt thương mại của Mỹ sẽ được bù đắp bởi các khoản đầu tư của các nước trên thế giới quay ngược trở lại nước Mỹ và cán cân thanh toán vẫn cân bằng. Họ lập luận rằng hệ thống kinh tế bao giờ cũng có khả năng tự điều chỉnh về mức cân bằng do đó không có vấn đề gì đáng lo ngại. Tuy nhiên các nhà kinh tế lạc quan đã vô tình bỏ qua một yếu tố hết sức quan trọng trong nhận định của mình. Bởi lẽ khi thâm hụt thương mại của một quốc gia tăng lên liên tục trong nhiều năm thi nghiễm nhiên đồng tiền của quốc gia  đó nhiều khả năng sẽ phải giảm giá do ngân hàng trung ương có thể phải in thêm tiền nhằm tài trợ cho khoản thâm hụt này. Ngoài ra nếu nước Mỹ tiếp tục sử dụng các khoản nợ nước ngoài nhằm tài trợ cho tiêu dùng thì khi các khoản nợ này đáo hạn đồng USD sẽ  được in ra để trả nợ với khối lượng lớn do đó không còn hấp dẫn giới đầu tư. Xu hướng này nếu xảy ra sẽ tiếp tục kích thích giới đầu cơ thực hiện một cuộc tấn công tiền tệ chống lại đồng USD và do đó trong hoàn cảnh xấu nhất có thể gây ra khủng hoảng nghiêm trọng. Đồng USD mất giá, lòng tin của công chúng vào triển vọng kinh tế xấu đi lập tức sẽ dẫn tới người tiêu dùng cắt giảm chi tiêu và nước Mỹ mất đi động lực chính của mình cho tăng trưởng và chìm vào suy thoái toàn diện. Các tổ chức tín dụng phải gánh chịu hậu quả đầu tiên bởi các khoản cho vay dễ dãi của họ không có khả năng thu hồi. Các khoản vay này lại được chứng khoán hóa và bán cho giới đầu tư khiến cho tình hình càng trở nên tồi tệ hơn khi giới đầu tư bị thiệt hại nặng nề. Đến lượt mình giới đầu tư lại bán tháo các khoản đầu tư đang nắm trong tay khiến chúng rớt giá thảm hại gây thiệt hại nặng cho các ngân hàng đầu tư. Các ngân hàng đầu tư sụp đổ khiến các khoản ủy thác đầu tư của công chúng bốc hơi và đẩy hàng trăm ngàn người vào cảnh khánh kiệt. Bên cạnh đó các tổ chức kinh tế lớn phá sản sẽ khiến hàng triệu người khác lâm vào cảnh mất việc và đến lượt họ lại cắt giảm chi tiêu tối đa hoặc không thanh toán được các khoản nợ của mình. Có thể nói nước Mỹ đã rơi vào một vòng xoáy không có lối thoát do nó tự gây ra cho mình bởi tính tự mãn và sự kiêu ngạo của các nhà hoạnh định chính sách.  1, Toàn cảnh cuộc khủng hoảng kinh tế Mỹ (2007-2010): Năm 2007-khủng hoảng xảy ra Hệ thống tài chính ngân hàng của Mỹ cuối năm 2007 và năm 2008 đột nhiên lâm vào một trong những cuộc khủng hoảng chưa từng có. Hàng trăm tỷ USD đã tiêu tan. Sự lây lan vẫn chưa chấm dứt,  hậu quả vẫn chưa lường hết.  Những người phản đối kế hoạch giải cứu tại Phố Wall. (Ảnh: Foxbusiness)     * Tháng 6/2007: Hai quỹ phòng hộ (hedge fund - một loại quỹ có tính đại chúng thấp và không bị quản chế quá chặt) của Bear Stearns - ngân hàng đầu tư lớn thứ 5 của Mỹ - quỵ ngã sau khi đánh cược vào các chứng khoán được đảm bảo bằng các khoản cho vay bất động sản dưới chuẩn ở Mỹ. * Tháng 7 - Tháng 9/2007: Ngân hàng IKB của Đức trở thành ngân hàng đầu tiên tại châu Âu chịu ảnh hưởng bởi những khoản đầu tư xấu trên thị trường cho vay dưới chuẩn ở Mỹ. Trong khi đó, Ngân hàng SachsenLB của Đức phải nhận sự cứu trợ từ chính phủ. * Tháng 8 năm 2007, một số tổ chức tín dụng của Mỹ như New Century Financial Corporation phải làm thủ tục xin phá sản. Một số khác thì rơi vào tình trạng cổ phiếu của mình mất giá mạnh như Countrywide Financial Corporation. Nhiều người gửi tiền ở các tổ chức tín dụng này đã lo sợ và đến rút tiền, gây ra hiện tượng đột biến rút tiền gửi khiến cho các tổ chức đó càng thêm khó khăn. Nguy cơ khan hiếm tín dụng hình thành. Cuộc khủng hoảng tài chính thực thụ chính thức nổ ra. Từ Mỹ, rối loạn này lan sang các nước khác. Ở Anh quốc, ngân hàng Northern Rock bị chao đảo vì người gửi tiền xếp hàng đòi rút tiền gửi của mình ra * Ngày 14/9/2007: Lần đầu tiên trong hơn 1 thế kỷ, khách hàng ùn ùn kéo đến bủa vây để đòi rút tiền ở một ngân hàng lớn tại Anh - Ngân hàng cho vay thế chấp Northern Rock - ngân hàng lớn thứ 5 tại Anh. * Ngày 15/10/2007: Citigroup - Tập đoàn ngân hàng hàng đầu nước Mỹ - công bố lợi nhuận Quý 3 bất ngờ giảm 57% do các khoản thua lỗ và trích lập dự phòng lên tới 6,5 tỷ USD. Giám đốc điều hành Citigroup Charles Prince từ chức vào ngày 4/11. * Ngày 17/12/2007: Cuộc khủng hoảng tín dụng đã lan sang châu Úc với nạn nhân là Tập đoàn Centro Properties, một chủ sở hữu của các phố buôn bán lớn ở Mỹ tại Úc sau khi tập đoàn này đưa ra cảnh báo lợi nhuận giảm. Cổ phiếu Centro Properties đã tụt giá 70% tại các giao dịch ở Sydney.   Tháng 12 năm 2007, cuộc khủng hoảng tiến sang nấc trầm trọng hơn khi những báo cáo kinh tế cuối năm cho thấy sự điều chỉnh của thị trường bất động sản diễn ra lâu hơn dự tính và quy mô của khủng hoảng cũng rộng hơn dự tính. Tình trạng đói tín dụng trở nên rõ ràng. Hệ thống dự trữ liên bang cố gắng giảm mạnh lãi suất liên ngân hàng vào tháng 12/2007 và tháng 2 năm 2008 nhưng không có hiệu quả như mong đợi. GDP trong quý IV năm 2007 đã giảm mức tăng đáng kể, chỉ tăng 0,6% so với mức tăng 4,9% quý III/2007 Năm 2008-2009: Đại suy thoái Tình hình phá sản 2007-2008 Năm 2008 bắt đầu những dấu hiệu ảm đạm. Bong bóng nhà đất xuất hiện tại Mỹ với trên 1 triệu chủ nhà đất đối mặt với nguy cơ tịch thu tài sản thế nợ. Nhiều ngân hàng vướng phải các khoản nợ dưới chuẩn (subprime loan) phải hứng chịu những khoản thua lỗ nặng.     * Ngày 11/1/2008: Bank of America - ngân hàng lớn nhất nước Mỹ về tiền gửi và vốn hoá thị trường - đã bỏ ra 4 tỉ USD để mua lại Countrywide Financial sau khi ngân hàng cho vay thế chấp địa ốc này thông báo phá sản do các khoản cho vay khó đòi quá lớn. * 30/1/2008: Ngân hàng lớn nhất Thuỵ Sĩ UBS công bố trích lập dự phòng 4 tỷ USD, nâng tổng số tiền trích lập dự phòng lên 18,4 tỷ USD do những thất thoát quan đến cuộc khủng hoảng cho vay cầm cố. * 17/2/2008: Anh quốc hữu hóa Ngân hàng Northern Rock. * 28/2/2008: Ngân hàng DZ Bank của Đức được đưa vào danh sách các nạn nhân của cuộc khủng hoảng cho vay dưới chuẩn với tổng giá trị tài sản mất giá là 1,36 tỷ euro. * Tháng 3 năm 2008, Ngân hàng dự trữ liên bang New York cố cứu Bear Sterns, nhưng không nổi. 16-17/3/2008, công ty này chấp nhận để JP Morgan Chase mua lại với giá 10 dollar một cổ phiếu, nghĩa là thấp hơn rất nhiều với giá 130,2 dollar một cổ phiếu lúc đắt giá nhất trước khi khủng hoảng nổ ra. Việc Ngân hàng dự trữ liên bang New York cứu không nổi Bear Sterns và buộc lòng để công ty này bị bán đi với giá quá rẻ đã khiến cho sự lo ngại về năng lực can thiệp của chính phủ cứu viện các tổ chức tài chính gặp khó khăn. Sự sụp đổ * 29/4/2008: Deutsche Bank lần đầu tiên trong năm năm công bố một khoản thua lỗ trước thuế sau khi buộc phải trích lập dự phòng 4,2 tỷ USD cho các khoản nợ xấu và các chứng khoán được đảm bảo bởi các khoản thế thấp bất động sản. * 11/7/2008: Chính quyền liên bang Mỹ đoạt quyền kiểm soát Ngân hàng IndyMac Bancorp. Đây là một trong những vụ đóng cửa ngân hàng lớn nhất từ trước tới nay sau khi những người gửi tiền đã rút ra hơn 1,3 tỷ USD trong vòng 11 ngày. * 31/7: Deutsche Bank công bố khoản trích lập dự phòng tiếp theo là 3,6 tỷ USD, nâng tổng số tiền ngân hàng này mất lên 11 tỷ USD. Deutsche Bank trở thành một trong 10 nạn nhân lớn nhất của cuộc khủng hoảng tín dụng toàn cầu. * Tháng 8 năm 2008, đến lượt Lehman Brothers, một tổ chức tài chính vào loại lớn nhất và lâu đời nhất của Mỹ, bị phá sản. Tiếp sau Lehman là một số công ty khác. * 7/9: Cục Dự trữ Liên bang (Fed) và Bộ Tài chính Mỹ đoạt quyền kiểm soát hai tập đoàn chuyên cho vay thế chấp Fannie Mae và Freddie Mac nhằm hỗ trợ thị trường nhà đất Mỹ. * 11/9/2008: Lehman Brothers tuyên bố đang nỗ lực tìm kiếm đối tác để bán lại chính mình. Cổ phiếu của ngân hàng đầu tư này tụt giảm 45%.      Các nhân viên của Lehman Brothers. (Ảnh: foxbusiness)   * 14/9: Bank of America cho biết sẽ mua Merrill Lynch với giá 29 USD/cổ phần sau khi từ chối đề nghị mua lại của Lehman Brothers. * 15/9: Đây là ngày tồi tệ nhất tại Phố Wall kể từ khi thị trường này mở cửa trở lại sau vụ khủng bố 2 toà tháp đôi tại Mỹ vào Tháng 9 năm 2001. Lehman Brothers sụp đổ đánh dấu vụ phá sản lớn nhất tại Mỹ; Merrill Lynch bị Bank of America Corp thâu tóm; American International Group - tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới mất khả năng thanh toán do những khoản thua lỗ liên quan tới nợ cầm cố.    Tập đoàn AIG. (Ảnh: Foxbusiness)   * 16/9: Ngân hàng trung ương các nước trên thế giới đã đổ hàng tỉ USD vào các thị trường tiền tệ với nỗ lực hạ nhiệt tình trạng căng thẳng và ngăn chặn sự đóng băng của hệ thống tài chính toàn cầu. Cổ phiếu AIG giảm gần một nửa. Fed công bố kế hoạch bơm 85 tỷ USD vào AIG và nắm giữ 80% cổ phần. Ngân hàng Barclays của Anh mua lại một phần tài sản tại Bắc Mỹ của Lehman với trị giá 1,75 tỷ USD. * 17/9: Cổ phiếu của Goldman Sachs và Morgan Stanley giảm mạnh; Tập đoàn Lloyds TSB của Anh mua lại đối thủ HBOS; Uỷ ban Chứng khoán Mỹ kiềm chế tình trạng bán khống. * 19/9: Các thị trường chứng khoán thế giới tăng vọt sau khi Mỹ công bố kế hoạch mua lại tài sản của các tập đoàn tài chính đang gặp khó khăn, giúp làm thanh sạch hệ thống tài chính. * 20-21/9: Công bố các chi tiết bản kế hoạch giải cứu 700 tỷ USD. Hai ngân hàng Goldman Sachs và Morgan Stanley được chuyển đổi thành tập đoàn ngân hàng đa năng, đánh dấu sự kết thúc mô hình ngân hàng đầu tư tại Phố Wall. * 22/9: Tập đoàn Nomura Holdings của Nhật trả 525 triệu USD để thâu tóm hoạt động của Lehman tại châu Á. Sau đó, Nomura cũng mua lại Lehman tại châu Âu và Trung Đông. Mitsubishi UFJ Financial đồng ý mua 20% cổ phần Morgan Stanley. * 23/9: Warren Buffett trả 5 tỷ USD mua 9% cổ phần Goldman Sachs; Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) điều tra Fannie, Freddie, AIG và Lehman vì nghi ngờ có sự gian lận trong cuộc khủng hoảng tài chính tại Mỹ. * 25/9: Washington Mutual Inc. (WaMu), một trong những ngân hàng lớn nhất Mỹ đã sụp đổ cũng do đã đánh cược rất lớn vào thị trường cho vay thế chấp. Cơ quan Bảo hiểm tiền gửi liên bang Mỹ (FDIC) đã đoạt quyền kiểm soát WaMu và sau đó bán các tài sả