Đề tài Đặc điểm kinh tế của nước Nhật Bản trong những năm 1945 - 1973

Nhật Bản là một nước được ví như con rồng của Châu Á với lịch sử hình thành và phát triển trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm của chính trị, xã hội cũng như nền kinh tế. Vốn nổi tiếng là một nước khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên, lại thường xuyên xảy ra những thiên tai động đất, sóng thần. Nhưng cho đến nay nhờ biết điều hành nền kinh tế, áp dụng các phương tiện khoa học kĩ thuật hiện đại .mà Nhật Bản đã vươn lên trở thành một cương quốc đứng hàng thứ hai trên thế giới. Điểm lại quá trình phát triển của nền kinh tế Nhật Bản, trong bài tiểu luận này ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu lịch sử kinh tế của Nhật Bản giai đoạn 1945-1973-Một giai đoạn được mệnh danh là “phát triển thần kì”.

docx22 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 5039 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đặc điểm kinh tế của nước Nhật Bản trong những năm 1945 - 1973, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Bài tiểu luận số 2. Đề tài: Đặc điểm kinh tế của nước Nhật Bản trong những năm 1945-1973. I. Mở đầu. Nhật Bản là một nước được ví như con rồng của Châu Á với lịch sử hình thành và phát triển trải qua rất nhiều giai đoạn thăng trầm của chính trị, xã hội cũng như nền kinh tế. Vốn nổi tiếng là một nước khan hiếm về tài nguyên thiên nhiên, lại thường xuyên xảy ra những thiên tai động đất, sóng thần. Nhưng cho đến nay nhờ biết điều hành nền kinh tế, áp dụng các phương tiện khoa học kĩ thuật hiện đại….mà Nhật Bản đã vươn lên trở thành một cương quốc đứng hàng thứ hai trên thế giới. Điểm lại quá trình phát triển của nền kinh tế Nhật Bản, trong bài tiểu luận này ta sẽ đi sâu vào nghiên cứu lịch sử kinh tế của Nhật Bản giai đoạn 1945-1973-Một giai đoạn được mệnh danh là “phát triển thần kì”. II. Giai đoạn khôi phục kinh tế từ năm 1946-1951. Sau khi chiến tranh thế giới thứ 2 kết thúc, nền kinh tế Nhật Bản lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng: năng lượng thiếu, lạm phát nặng nề, 13,1 triệu người không có việc làm. Đất nước Nhật Bản bị quân đội Mỹ chiếm đóng. Ngay trong những năm đầu sau chiến tranh, dưới sự kiểm soát của Mỹ, một số cải cách lớn về xã hội của Nhật Bản được thực hiện: -Giải thể các nhóm Saibatsu nhằm tiêu diệt sức mạnh quân sự của Nhật Bản, xóa bỏ kiềm quyển soát kinh tế đối với một số công ty lớn ở Nhật Bản, cải tổ các công ty theo hướng phi tập trung hóa. Biện pháp này tạo ra sự cạnh tranh mạnh mẽ đối với ngành công nghiệp và thúc đẩy cơ câu hoạt động thị trường mạnh , tự do hóa thương mại - Cải cách ruộng đất, quy định địa chủ chỉ được nắm một phần ruộng đất nhất định, tối đa là 5 ha, sau giảm xuống còn có 1 ha, số còn lại được nhà nước mua lại và trao cho những người nông dân không có ruộng - Giải quyết vấn đề việc làm, tăng lương cho công nhân. Để thực hiện dân chủ hóa lao động, từ năm 1945-1947 có 5 đạo luật được ban hành: luật công đoàn, luật tiêu chuân lao động, luật quan hệ lao động Những cải cách trên đây tạo điều kiền phát triển kinh tế cho Nhật Bản, chuyển từ nhà nước quân sự sang nhà nước phát triển kinh tế Tuy nhiên, trước năm 1948, tốc độ phát triển kinh tế của Nhật bản còn chậm chạp và gặp nhiều khó khăn, một mặt vì nền kinh tế bị tàn phá nặng nề, thiếu vốn và nguyên liệu…., mặt khác, người Mỹ đã thực thi một cách cứng rắn đối với Nhật Bản. Song từ tháng 10-1948, người Mỹ đối với Nhật Bản đã được thay đổi đáng kể, Nhật Bản đã được Mỹ nâng đỡ để trở thành đồng minh đắc lực của Mỹ trong chính sách xâm lược Châu Á- Thái Bình Dương. Kể từ tháng 10-1948 trở đi công cuộc khôi phục của Nhật Bản ngày càng thuận lợi, đặc biệt là đối với đường lối kinh tế học thị trường Joshep Dodge, việc ký hiệp ước an ninh Nhật –Mỹ,hiệp ước thương mại và đầu tư…kế hoặch 5 năm khôi phục kinh tế của Nhật Bản đã thành công. Đến năm 1951, các chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Nhật Bản như tổng sản phẩm quốc dân thực tế, sản xuất công nghiệp, kim ngạch xuất khẩu thực tế đã bằng và vượt mức chiến tranh. III. Những đặc điểm của nền kinh tế Nhật Bản thời kỳ 1952-1973. 1. Sự khôi phục và phát triển kinh tế Bị thất bại trong chiến tranh , bị tàn phá nặng nề về kinh tế: 34% máy móc, 25% công trình xây dựng, 81% tàu biển bị phá hủy, sản xuất công nghiệp tháng 8 - 1945 tụt xuống còn vài phần trăm so với một vài năm trước đó, và chỉ bằng khoảng 10% trước mức chiến tranh (1934-1936), nước Nhật chìm trong khủng hoảng về nhiều mặt. Nhưng đó chỉ là tiền đề cho một nước Nhật khác hẳn hoàn toàn ra đời. Nhật Bản đã có những biến đổi thần kỳ về kinh tế trong nước cũng như trong quan hệ với nền kinh tế thế giới, những biến đổi này có tính liên tục và tăng nhanh về lượng. Từ năm 1952 đến năm1958, tổng sản phẩm quốc dân dã tăng với tốc độ 6,9% bình quân hằng năm. năm 1959, khi tốc độ tăng trưởng vượt 10%, nền kinh tế Nhật Bản vẫn chưa gây được sự chú ý của thế giới. Những năm sau, khi tốc độ tăng trưởng vượt tốc độ của những năm trước thì thế giới bắt đầu kinh ngạc và gọi đó là Sự Thần Kì Về Kinh Tế. Tốc độ cao này được duy trì suốt những năm 1960 với tổng sản phẩm quốc dân tăng trung bình hằng năm là 10%. Trong những năm 1970 - 1973 tốc độ tăng trưởng trung bình hơi giảm đi còn 7,8% nhưng vẫn cao hơn tiêu chuẩn quốc tế (Bảng 1 ).Nhân tố hàng đầu trong tăng trưởng kinh tế của NB thời kì này là sự phát triển nhanh chóng các ngành công nghiệp chế tạo. Chỉ số sản xuất công nghiệp (1934 –1936:= 100) tăng từ 160 năm 1955 lên 1345 năm 1970. Sự giảm bớt sức lao động trong nông nghiệp và lâm nghiệp cũng rất đáng chú ý: Nó giảm từ 16 triệu năm 1955 xuống 8,4 triệu năm 1970 và phần của nó trong tổng lực lượng lao động giảm từ 38,3% xuống 17,4% trong cùng thời kì. Bảng 1: Tăng trưởng GDP của Nhật Bản từ 1951-1972. Năm tài chính Theo giá hiện hành % Theo giá bất biến của năm 1965 (%) 1951 38,8 13,0 1952 16,3 13,0 1953 18,1 7,9 1954 4,0 2,3 1955 13,3 11,4 1956 12,3 6,8 1957 13,0 8,3 1958 4,8 5,7 1959 15,5 11,7 1960 19,1 13,3 1961 22,5 14,4 1962 9,1 5,7 1963 18,1 12,8 1964 15,9 10,8 1965 10,6 5,4 1966 17,2 11,8 1967 17,9 13,4 1968 17,8 13,6 1969 18,0 12,4 1970 16,3 9,3 1971 10,7 5,7 1972 17,6 12,0 (Nguồn: Cục kế hoạch kinh tế) Bảng 2: Chỉ số sản xuất công nghiệp của các ngành kinh tế (1965=100) Nghành 1955 1960 1965 1970 Dệt 42,2 68,2 100 154,0 Giấy và bột giấy 34,1 63,9 100 175,9 Hóa chất 25,2 51,0 100 204,0 Dầu lửa và than 18,7 47,2 100 216,7 Gốm 32,0 62,5 100 175,8 Sắt và thép 24,6 56,3 100 230,9 Kim loại màu 25,9 61,6 100 211,4 Máy móc 14,6 51,2 100 291,6 Tổng cộng (CN chế tạo) 26,0 56,9 100 218,5 (Nguồn: Bộ công nghiệp và mậu dịch quốc tế.)   Trong các ngành công nghiệp khu vực II, sự phát triển của các ngành công nghiệp nặng và hóa chất (máy móc, kim khí, hóa chất) là nổi bật nhất như ta đã thấy ở bảng 2. Sự phát triển của công nghiệp cơ khí là đáng chú ý vì chỉ số của nó (1965=100) tăng 14,6 năm 1955 lên 291,6 năm 1970, hơn 20 lần trong vòng 20 năm. Tuy vậy, chỉ số của ngành công nghiệp dệt chỉ tăng tương đối nhỏ: từ 42,2 năm 1955 lên 154,0 năm 1970. Kết quả của sự phát triển nói trên có sự góp phần rất nhiều của các nghành công nghiệp nặng và hóa chất trong tổng sản lượng chế tạo công nghiệp chế tạo đạt tới 57% năm 1970, cao hơn phần tương ứng ở Tây Đức hoặc Mỹ. Quá trình tăng trưởng này không phải là sự phát triển nhẹ nhàng, không gấp khúc. Trong thời gian này Nhật Bản đã trải qua những bước thăng trầm rõ rệt, chia ra thành những chu kì dài khoảng hơn 3 năm, 2 năm, đôi khi là 5 năm. Những sự lên xuống này diễn biến một cách có hệ thống và phần lớn theo một lề lối nhất định. Tính từ năm 1951 đến năm 1973 có tất cả 7 lần phồn thịnh và 8 lần suy thoái. Những lần suy thoái của chu kì này chỉ biểu hiện ở tốc độ tăng trưởng chậm lại chứ không phải là giảm sút tuyệt đối. 2. Một số thành tựu đạt được +) Về công nghiệp:  Nhật Bản rất chú trọng vào phát triển công nghiệp. Khoảng hơn hai thập kỷ sau chiến tranh từ năm 1952 – 1973 là thời gian mà Nhật Bản đạt được sự gia tăng mạnh mẽ nhất về công nghiệp. Điểm nổi bật nhất trong công nghiệp Nhật Bản thời kì này là sự tăng trưởng cao của nghành công nghiệp chế tạo. Năng suất và sản lượng của ngành này đã liên tục gia tăng trong khi đó các ngành khác lại bị giảm sút. Bảng 3: Sản phẩm quốc dân thuần túy của từng ngành sản xuất (thể hiện qua chi phí của các yếu tố) 1952 1960 1968 Kinh nghạch Tỷ trọng Kinh nghạch Tỷ trọng Kinh nghạch Tỷ  trọng -Nông – lâm – ngư nghiệp - Khai mỏ - Chế tạo - Xây dựng - Điện lực, khí đốt, cấp nước, vận tải, bưu điện. - Thương nghiệp - Dịch vụ - Tổng cộng 1170 150 1258 201 454 884 1008 5137 22,6 3,1 24,3 3,9 8,8 16,3 21,0 100,0 1941 213 3891 733 1224 2154 3141 13293 14,6 1,6 29,3 5,5 9,2 16,2 23,6 100,0 4167 291 122832 3230 3059 7413 10887 12299 9,9 0,7 30,3 7,6 8,3 17,5 25,7 100,0 Ngành hàng hải được chú trọng và phát triển. Từ năm 1951 đến năm 1970 số lượng tàu tăng đáng kể và số tiền tài trợ của chính phủ cũng tăng. Từ năm 1966 – 1970 đã chiếm 69% tổng số tiền của chương trình đóng tàu của Nhật Bản. Nhờ khôi phục được nguồn nguyên nhiên liệu nên ngành công nghiệp chế tạo ngày càng phát triển mạnh mẽ, được thể hiện trong từng phân ngành của ngành công nghiệp chế tạo.  Bảng 4: Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng nămcủa giá trị sản phẩm. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của giá trị sản phẩm (%). Thập kỷ 1950 Thập kỷ 1960 1951 - 1970 Chế biến thực phẩm Sản phẩm từ sợi Đồ gỗ Giấy – in ấn – xuất bản Hóa chất Sản phẩm từ dầu mỏ Sản phẩm than đá Đồ gồm, sản phẩm từ đá Gang thép Sản phẩm kim loại Máy thông dụng Máy điện Máy vận tải Máy chính xác Bình quân toàn ngành công nghiệp chế tạo 16,9 4,2 16,8 18,3 18,1 27,3 3,3 15,0 11,7 13,5 25,3 30,4 22,0 18,7 14,6 10,3 10,1 15,7 15,5 14,3 17,3 15,5 17,7 1,1 18,7 18,2 18,5 18,3 17,8 15,0 13,4 7,2 16,2 17,1 16,1 21,8 9,5 1,4 13,5 16,2 21,5 24,0 20,1 18,2 14,8    Thời kỳ này sản xuất điện tử, nghe nhìn và đồ điện gia dụng cũng phát triển mạnh mẽ. Đặc biệt là ngành sản xuất tivi đã nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường thế giới.Trong lĩnh vực máy tính điện tử năm 1965 sản xuất đạt 4000 chiếc với giá 200.000 yên. Năm 1969 sane xuất đã tăng lên 10 lần, đạt 450.000 chiếc và đã giảm xuống còn 10.000 yên. Vào năm 1973 việc cải thiện các nguyên liệu và các phương pháp sản xuất hàng loạt đã đẩy sản lượng máy tính lên 10 triệu chiếc và giá đã giảm xuống còn vài ngàn yên. Những loại máy tính lớn cũng được sản xuất trong thời kì này. Riêng về đồ điện gia dụng, ngoài vô tuyến truyền hình, vào giữa những năm 50 người ta đã chứng kiến sự khởi đầu của việc sản xuất hàng loạt các đồ dùng gia đình khác.    Một lĩnh khác là ngành sản xuất ô tô. Trước chiến tranh nó hầu như không hề tồn tại, tuy nhiên trong thời kỳ này đã thực hiện “bước nhảy” phi thường. Mức gia tăng sản lượng xe hơi của Nhật Bản (triệu chiếc) Năm 1960 1965 1970 1975 1980 Sản xuât Xuất khẩu 0,2 0,0 0,70 0,50 3,0 0,8 4,0 1,8 7,0 4,0 Tỉ lệ sản xuất công nghiệp của Nhật Bản trong thế giới Tư bản chủ nghĩa Tên nước Nhật Bản Mỹ Tây Âu 1938 1950 1960 1971 4,8 1,6 5,4 9,5 36,6 54,6 44,9 39,1 45,0 32,7 34,9 34,3 +) Về nông nghiệp:    Trong giai đoạn “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản sự tăng trưởng chủ yếu được thể hiện qua ngành công nghiệp. Tuy nhiên, Nông nghiệp Nhật Bản thời kỳ này cũng đạt được sự phát triển khá lớn  và nó cũng trở thành một trong những lực đẩy của nền kinh tế quốc gia. Giai đoạn 19952-1973 ở ngành nông nghiệp đã có những biến đổi sâu sắc. Sự lớn mạnh của ngành công nghiệp dẫn tới sự giảm sút của lực lượng lao động nông nghiệp. Bảng: Tổng số lực lượng lao động và số lao động trong nông nghiệp (Đơn vị: 1000 người) 1950 1955 1960 1965 1970 Tổng số lực lượng lao động Số lao động trong nông nghiệp 35.626 16.102 39.261 14.890 43.719 13.128 47.633 10.857 52.110 9.334    Ngành nông nghiệp Nhật Bản thời kỳ này phát triển khá đa dạng và phong phú, nhưng sản xuất chính vẫn là lúa gạo. Nhờ áp dụng được máy móc hiện đại và các loại phân bón tốt nên sản lượng lúa đã không ngừng gia tăng. Sự biến đổi sản lượng lúa nước Năm Diện tích canh tác (ngàn ha) Thu hoạch trên diện tích 10 ha Sản lượng (nghìn tấn) 1950 1955 1960 1965 1966 1967 1968 1969 1970 1971 1972 2877 3045 3124 3129 3149 3171 3173 2836 2626 2734 2581 327 396 401 390 400 453 449 435 422 414 456 9412 12073 12593 12181 125262 14257 14223 13497 12528 10782 11776   Tiến bộ nhất trong nông nghiệp thời kỳ này là chính là việc ứng dụng các loại máy móc vào sản xuất, nhất là các loại máy lớn. Đồng thời hệ thống tổ chức thí nghiệm và nghiên cứu cơ giới hóa nông nghiệp, được cải tiến và mở rộng. Cho đến năm 1955 hầu như các loại máy nông nghiệp đã được triển khai rộng khắp. Năm 1955 có 2 triệu máy tuốt hạt, đến năm 1965 lên tới gần 3 triệu máy.Còn máy làm đất, năm 1955 có 90000 máy, đến năm 1960 vọt lên 2526000 máy.    Tóm lại, thời kỳ 1952-1973, nông nghiệp Nhật Bản đã có bước tiến khá mạnh theo hướng thâm canh với trình độ cơ giới hóa, hóa học hóa, thủy lợi hóa và điện khí hóa rất cao. Từ tình trạng thiếu lương thực gay gắt sau chiến tranh thế giới thứ hai, giờ đây nhân dân có thể tự túc về nông nghiệp, sản lượng lương thực đã đủ cung cấp cho 80% nhu cầu trong nước, ngành chăn nuôi giải quyết 2/3 nhu cầu thịt sữa, ngành đánh cá chỉ đứng sau Peru với sản lượng cá tính theo đầu người hàng năm là 86kg. Tính chung về sản lượng nông – lâm – ngư nghiệp cho đến đầu những năm 1970 Nhật Bản đã đạt trên 9 tỷ đô la.   +) Về thương nghiệp:   Là một nước có lãnh thổ hạn hẹn, dân số đông và tài nguyên thiên nhiên khan hiếm, để phát triển đất nước Nhật Bản không còn cách nào hơn là phải nhập khẩu nguyên liệu và thực phẩm. Từ đó một nhiệm vụ quan trọng trong quá trình tăng trưởng kinh tế là phải xuất khẩu thu ngoại tệ để duy trùy nhập khẩu. Đặc điểm nổi bật trong quá trình phát triển kinh tế của Nhật Bản là sự tác động mạnh của mức dự trữ ngoại tệ. Nhu vậy mức dự trữ ngoại tệ là yếu tố quan trọng hàng đầu đối với sự tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Năm 1949 Nhật tái tham gia vào nền kinh tế thế giới với tỷ suất hối đoái là 360 yên ăn 1 đô la. Nhờ vậy, sức cạnh tranh của Nhật Bản gia tăng mạnh mẽ. Tổng kết hoạt động ngoại thương trong thời kỳ 1952-1973 Nhật Bản luôn có số xuất khẩu nhiều hơn nhập khẩu. Tổng ngạch xuất khẩu (triệu đô la) 1969 1970 1971 Tổng ngạch nhập 15024 18881 19712 Tổng ngạch xuất 15990 19318 24019 Tương quan xuất và nhập khẩu hàng tiêu dùng và dịch vụ so với tổng sản phẩm quốc dân năm 1966 Các nước Xuất khẩu Nhập khẩu Hoa kỳ CHLB Đức Anh Pháp Nhật Ý Hà Lan Bỉ Thụy Sĩ 4,9 20,9 18,4 14,5 11,5 7,9 42,2 36,3 30,8 4,8 19,4 18,9 14,3 9,8 15,8 45,3 37,4 30  Mức xuất khẩu của các cường quốc thương mại Các nước 1955 1964 1955—1964 Hoa Kỳ CHLB Đức Anh Pháp Nhật Canada Ý Ấn Độ 15,38 6,14 8,47 4,85 2,01 4,42 1,86 1,28 27,00 17,81 13,72 10,06 8,45 8,11 7,19 1,68 1,76 2,91 1,62 2,07 4,02 1,83 3,87 1,31 Nguồn: OECD Trong giai đoạn này các cường quốc thương mại như Ấn Độ đã bị loại khỏi cuộc cạnh tranh. Từ năm 1955-1965 xuất khẩu quốc tế của Nhật Bản hãy còn khá khiêm tốn, tuy vậy nó đã tăng từ 2,2% lên 4,6%. Cơ cấu hàng nhập khẩu 1962 1965 1968 1971 Tổng loại Thực phẩm và hàng tiêu dùng Nguyên liệu công nghiệp Hàng tư bản Hàng tiêu dùng mau hỏng Hàng tiêu dùng lâu bền Các loại khác 100,0 16,2 68,2 14,0 0,3 0,7 0,6 100,0 21,5 67,3 8,8 0,6 1,3 0,5 100,0 17,2 70,2 9,7 0,8 1,4 0,7 100,0 17,3 66,5 11,7 1,2 2,1 1,2   Như vậy, nhìn chung ngoại thương Nhật Bản trong giai đoạn 1952-1973 đã có sự phát triển cao nhờ kích thích của ngành công nghiệp và một số điều kiện thuận lợi khác. Trong giai đoạn này cả nhập khẩu và xuất khẩu đều tăng vọt nhưng xuất khẩu tăng mạnh hơn. Chỉ số gia tăng của xuất khẩu năm 1960 là 43,9, năm 1965 đã là 100 và năm 1970 đã lên đến 200,8. Đặc biệt xuất khẩu hóa chất đã đạt kỷ lục, chỉ số gia tăng từ 29 vào năm 1960, lên 100 vào năm 1965 và 280 vào năm 1970. Lĩnh vực sản xuất máy móc cũng có những chỉ số tương ứng là 26,100 và 263. Sự phát triển của ngoại thương tác động rất lớn đến tăng trưởng kinh tế của Nhật Bản. Ngoài việc thúc đẩy nhanh quá trình sản xuất công nghiệp và nông nghiệp, lợi nhuận thu được từ xuất khẩu hàng hóa còn được tái đầu tư và phục vụ cho các ngành kinh tế khác như giao thông vận tải, bưu điện, dịch vụ…thúc đẩy các ngành này phát triển mạnh mẽ. Tóm lại, từ một nền kinh tế đổ nát sau chiến tranh, Nhật Bản đã vươn lên bằng chính bàn tay và khối óc, bằng chính ý chí và nghị lực của mình, xây dựng một nền kinh tế phát triển cao độ trên hầu hết mọi ngành kinh tế, nhanh chóng khẳng định sức mạnh và nâng cao vị trí của mình trên thị trường quốc tế. 3. Nguyên nhân của việc phát triển “thần kì”   +) Những nhà kinh doanh xí nghiệp tích cực: Các nhà kinh doanh xí nghiệp đã tỏ rõ năng lực kinh doanh rất tích cực của mình. Tháng 4 - 1946 Hội  đồng hữu kinh tế (Katai – Doyukai – tổ chức các nhà kinh doanh – ND) đã được thành lập với quyết tâm của những nhà kinh doanh trẻ dưới 50 tuổi như ông Kanichi Mroi, otsuka phê phán những nhà kinh doanh lỗi thời không chịu tuân thủ nguyên tắc dân chủ hoá sau chiến tranh và phong trào công nhân quá khích tuyên bố  xác lập vị trí riêng của tổ chức mình, phân chia gianh giới giữa tư bản và kinh doanh, nhằm thực hiện chủ nghĩa tư bản xét lại trong đó dựa vào sự thoả hiệp giữa chủ và thợ.   Những người kinh doanh xí nghiệp ở NB sau chiến tranh có thể phân thành ba loại :  -Loại 1: Những nhà kinh doanh trẻ được đề bạt với tư cách là người thay thế các nhà lãnh đạo các xí nghiệp hàng đầu đã bị buộc phải rời khỏi chức vụ theo luật giải tán các tập đoàn tài phiệt. Tiêu biểu là các ông Chikara Kurata (hãng chế tạo Hitachi), Kikuo Ssoyama(hãng Toyo Rayon). - Loại 2:Những nhà kinh doanh lập nghiệp sau chiến tranh, tức là trước chiến tranh chỉ là các xí nghiệp trung tiểu, sau chiến tranh phát triển nhảy vọt. Tiêu biểu là Konosuke Mastu(công ty  điện Mastu Shita), Sazo Idemitsu (Idemitsu Hunsan). - Loại 3: các nhà doanh nghiệp nổi lên sâu chiến tranh. Đại diện là Ohibuka, A Kio morita (Sony), Shoi chiro honda(hãng nghiên cứu kỹ thuật Honda). +) Lực lượng lao động ưu tú:   Nhật Bản có một lợi thế lớn là có một nguồn lao  động dồi dào. Sau chiến tranh một lực lượng lớn người rút ra từ các thuộc địa của NB về giải ngũ ra từ quân đội. Nguồn cung cấp lao động lúc đó là quá thừa và họ sẵn sàng làm việc với đồng lương rẻ mạt. Nói theo thuật ngữ kinh tế học của Mác thì lao động tạo ra giá trị thặng dư và có khả năng tích luỹ tư bản. Dù đồng lương thấp đến mức nào, nhưng vì chất lượng lao động tồi, năng suất lao động thấp thì cũng không phát sinh giá trị thặng dư. Nhưng phần lớn lao động ở NB có trình độ giáo dục cao và được đào tạo về kỹ năng lao động. ảnh hưởng của chủ nghĩa Mac đã phát triển rất nhanh chóng nhưng chủ yếu ở trong một bộ phận trí thức và công nhân ở các thành phố, còn phần lớn công nhân vẫn còn tiếp tục theo quan niệm có từ trước chiến tranh là trung thành vơí các xí nghiệp. Từ năm 1947 đến năm 1949 là những năm sau chiến tranh, số trẻ sơ sinh tăng vọt. Trong 3 năm đó, tỷ lệ sinh rất cao đạt 3,4% năm. Người ta lo rằng cứ đà đó thì sẽ đẫn đến tình trạng quá thừa lao động và làm trầm trọng thêm vấn đề thất nghiệp. Tuy vậy lớp trẻ sinh ra trong thời kỳ này đạt đến tuổi lao động đúng vào thời kỳ kinh tế NB tăng trưởng với tốc độ cao, nhu cầu lao động tăng mạnh. Sau chiến tranh, tỷ lệ thanh thiếu niên đi học ngày càng cao, trình độ học vấn cao đã đáp ứng được yêu cầu của công cuộc cách mạng kỹ thuật.   +) Sự hợp tác chủ thợ:  Có thể nói rằng công nhân trong thời kỳ này của các công ty sản xuất đều có một quyết tâm, và ý chí làm việc rất cao. +) Lãnh đạo tài ba.   Sự hướng dẫn hành chính: Việc chế định pháp luật được tiến hành dưới sự lãnh đạo của các quan chức, cả các thông tư và chỉ thị của bộ. Phạm vi để họ được tự do quyết định khá rộng rãi. Trên cơ sở quyền hạn giám sát nói chung, các quan chức có thể tham gia ý kiến  đến cả những vấn  đề không thuộc quyền hạn về mặt pháp lệnh. Lí do để có khả năng đó chính là sự tin tưởng vào kiến thức và năng lực của các quan chức, ở sự trong sáng và sự công bằng và tập quán các xí nghiệp tư nhân phục tùng sự lãnh đạo của các cơ quan chính phủ.  Hoạch định kế hoạch: Ngoài việc họ phải lập kế hoạch tổng hợp như kế hoạch tăng thu nhập và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các quan chức ở các bộ còn phải lập kế hoạch dài hạn trong lĩnh vực do bộ mình quản. Trong quá trình hoạch định này thường lập ra cơ quan tư vấn tập hợp các chuyên gia lẫn các xí nghiệp tư nhân và qua đó là cách để tập hợp kiến thức và đạt tới sự thoả thuận. Trong hầu hết các trường hợp, lãnh đạo kế hoạch là quan chức. Hình thành mục tiêu phải  đạt tới trong tương lai: các quan chức đã phát huy năng lực lãnh đạo thông qua việc hoạch
Luận văn liên quan