Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình lúa – cá của các nông hộ trên địa bàn phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh ThừaThiên Huế

Trong những năm qua, do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu ngày càng thất thường cùng với những biến động to lớn của nền kinh tế trong nước nói chung và nền nông nghiệp nước ta nói riêng, đã gây tác động to lớn cho nền kinh tế nông nghiệp nước nhà. Đất đai trong nông nghiệp đang bị suy thoái nghiêm trọng do tác động của việc canh tác theo phong trào và chạy đua theo những lợi nhuận trước mắt, thiên tai bão lụt. Ở nhiều địa phương ven biển, nông dân đua nhau xả nước mặn vào vùng ngọt để nuôi tôm làm cho nhiều diện tích đất trồng lúa bị nhiễm mặn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quy hoạch phát triển nông nghiệp của các địa phương này nói riêng và cả nước nói chung. Để khắc phục tình trạng trên, thì việc chuyển đổi các mô hình sản xuất mới, phù hợp với từng địa phương, nâng cao thu nhập của người nông dân là một việc làm hết sức cần thiết. Là một trong những địa phương như thế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang có nhiều biện pháp để quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, nhiều mô hình sản xuất kết hợp giữa trồng lúa và các loại cây trồng vật nuôi khác đang được áp dụng. Một trong những điển hình cho chủ trương này là các mô hình sản xuất kết hợp ở thị xã Hương Thủy. Trong quy hoạch phát triển vùng ngọt ổn định đến năm 2010, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế đã chủ trương xây dựng nhiều mô hình kết hợp giữa trồng lúa với các loại cây trồng, vật nuôi khác như: lúa-cá, lúa-màu, lúa- tôm, lúa cua. Là một thị xã nằm ở phía nam thành phố Huế, có diện tích đất tự nhiên 45.817 ha, trong đó đất nông nghiệp 5.517 ha, phần lớn các thửa đất đều manh mún, nhỏ lẻ. Thị xã còn nhiều diện tích đất chiêm trũng chưa được khai thác đúng tiềm năng, nếu chỉ trồng lúa trên diện tích đó thì hiệu quả mang lại cho nông dân rất thấp. Chính vì thế, trong những năm gần đây, thị xã đã nhanh chóng vận động chuyển đổi đất đai và chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi để nông dân có cơ hội đầu tư và áp dụng các

pdf76 trang | Chia sẻ: tranhieu.10 | Lượt xem: 892 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình lúa – cá của các nông hộ trên địa bàn phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh ThừaThiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 1 PHẦN I ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1. Tính cấp thiết của đề tài Trong những năm qua, do ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu ngày càng thất thường cùng với những biến động to lớn của nền kinh tế trong nước nói chung và nền nông nghiệp nước ta nói riêng, đã gây tác động to lớn cho nền kinh tế nông nghiệp nước nhà. Đất đai trong nông nghiệp đang bị suy thoái nghiêm trọng do tác động của việc canh tác theo phong trào và chạy đua theo những lợi nhuận trước mắt, thiên tai bão lụt. Ở nhiều địa phương ven biển, nông dân đua nhau xả nước mặn vào vùng ngọt để nuôi tôm làm cho nhiều diện tích đất trồng lúa bị nhiễm mặn, gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới quy hoạch phát triển nông nghiệp của các địa phương này nói riêng và cả nước nói chung. Để khắc phục tình trạng trên, thì việc chuyển đổi các mô hình sản xuất mới, phù hợp với từng địa phương, nâng cao thu nhập của người nông dân là một việc làm hết sức cần thiết. Là một trong những địa phương như thế, tỉnh Thừa Thiên Huế đã và đang có nhiều biện pháp để quy hoạch phát triển nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng vật nuôi, nhiều mô hình sản xuất kết hợp giữa trồng lúa và các loại cây trồng vật nuôi khác đang được áp dụng. Một trong những điển hình cho chủ trương này là các mô hình sản xuất kết hợp ở thị xã Hương Thủy. Trong quy hoạch phát triển vùng ngọt ổn định đến năm 2010, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế đã chủ trương xây dựng nhiều mô hình kết hợp giữa trồng lúa với các loại cây trồng, vật nuôi khác như: lúa-cá, lúa-màu, lúa- tôm, lúa- cua. Là một thị xã nằm ở phía nam thành phố Huế, có diện tích đất tự nhiên 45.817 ha, trong đó đất nông nghiệp 5.517 ha, phần lớn các thửa đất đều manh mún, nhỏ lẻ. Thị xã còn nhiều diện tích đất chiêm trũng chưa được khai thác đúng tiềm năng, nếu chỉ trồng lúa trên diện tích đó thì hiệu quả mang lại cho nông dân rất thấp. Chính vì thế, trong những năm gần đây, thị xã đã nhanh chóng vận động chuyển đổi đất đai và chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật nuôi để nông dân có cơ hội đầu tư và áp dụng các Trư ờng Đạ i họ c K i h tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 2 mô hình sản xuất mới, nâng cao năng suất và chất lượng cây trồng. Một trong những mô hình đang được đông đảo nông dân trên địa bàn áp dụng là mô hình lúa – cá. Phường Thủy Dương là một trong những phường điển hình của công cuộc chuyển đổi đó. Với diện tích đất nông nghiệp là 782,54 ha, trong đó có 282,91 ha đất trồng thuần lúa, đa số là ở các vùng trũng chưa được khai thác hết tiềm năng. Hòa theo sự phát triển chung của toàn thị xã, chính quyền và những người dân ở đây cũng đã bước đầu thực hiện việc “dồn điền đổi thửa” và chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, bước đầu thực hiện các mô hình lúa – cá, lúa – cá – vịt Và khi nói đến hiệu quả kinh tế của các mô hình này, chúng ta phải kể đến mô hình xen canh lúa – cá đã và đang được các hộ nông dân nơi đây thực hiện khá nhiều. Với lợi thế về nguồn nước khá lớn, cùng với điều kiện tự nhiên thuận lợi, Thủy Dương còn có một lực lượng lao động dồi dào cho nên trong những năm qua mô hình lúa – cá đang ngày càng được nghiều người dân áp dụng. Đây là một mô hình không quá phức tạp nhưng đã mang lại hiệu quả kinh tế khá rõ rệt, góp phần nâng cao trách nhiệm của người dân với môi trường và trách nhiệm đối với cộng đồng xã hội. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện mô hình, nhiều người dân vẫn còn gặp không ít khó khăn như đất đai chỉ được chuyển đổi một số thửa còn đa số vẫn còn nhỏ lẻ, nhiều thửa ruộng xa nhà, thiếu vốn, thiếu kỹ thuật, giá cả đầu vào, đầu ra luôn biến động đã làm cho nhiều hộ nông dân không mấy yên tâm khi thực hiện mô hình này. Trước những thuận lợi và khó khăn trên, chúng ta cần giải quyết những mặt tồn tại nhằm hướng tới phát triển mô hình lúa – cá một cách bền vững lâu dài, giúp người dân yên tâm sản xuất, nâng cao thu nhập và cải thiện môi trường. Xuất phát từ thực tế đó tôi đã chọn đề tài: “Đánh giá hiệu quả kinh tế mô hình lúa – cá của các nông hộ trên địa bàn phường Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh ThừaThiên Huế” làm đề tài tốt nghiệp của mình. 1.2 Mục tiêu nghiên cứu 1.2.1 Mục tiêu tổng quát Đánh giá tổng quát thực trạng, hiệu quả sản xuất của mô hình lúa - cá trên địa bàn phường Thủy Dương , thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Từ đó đề Trư ờng Đạ i họ c K inh tế H ế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 3 xuất một số giải pháp thích hợp để nhân rộng mô hình nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất trong sản xuất nông nghiệp. 1.2.2 Mục tiêu cụ thể - Hệ thống hóa các cơ sở lý luận và thực tiễn về mô hình hợp canh lúa – cá. - Đánh giá thực trạng đầu tư sản xuất, kết quả và hiệu quả kinh tế của mô hình hợp canh lúa - cá Đông Xuân của các hộ nông dân trên địa bàn phường. - So sánh hiệu quả kinh tế của mô hình hợp canh lúa – cá vụ Đông Xuân với mô hình độc canh cây lúa vụ Đông Xuân trên cùng một chân ruộng trũng. - Đánh giá tiềm năng cũng như thuận lợi, khó khăn trong việc thực hiện mô hình lúa – cá. - Đề ra một số giải pháp chủ yếu để góp phần giải quyết những khó khăn hiện nay ở các hộ nuôi cũng như một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế và nhân rộng mô hình. 1.3 Đối tượng nghiên cứu Các nông hộ thực hiện mô hình lúa – cá trên địa bàn phường Thủy Dương , thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. 1.4 Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi không gian: Nghiên cứu tại địa bàn phường Thủy Dương , thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. - Phạm vi thời gian: Số liệu thu thập từ năm 2009 – 2011. - Phạm vi nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu hiệu quả kinh tế của mô hình lúa – cá vụ Đông Xuân với mô hình cá Đông Xuân trên cùng một chân ruộng trũng và so sánh hiệu quả kinh tế của hai mô hình sản xuất đó. 1.5 Phương pháp nghiên cứu Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: 1.5.1 Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Là phương pháp được sử dụng xuyên suốt quá trình thực hiện đề tài nhằm nhận thức bản chất của các hiện tượng tự nhiên, kinh tê xã hội. Nó yêu cầu các hiện tượng phải được nghiên cứu trong mối liên hệ bản chất chặt chẽ, tác động lẫn nhau Trư ờng Đạ i họ c K inh tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 4 một cách khoa học, khách quan và lôgic, không phải đặt trong trạng thái tĩnh mà là trong sự phát triển không ngừng. 1.5.2 Phương pháp thu thập số liệu - Phương pháp thu thập số liệu sơ cấp: Số liệu sơ cấp được thu thập thông qua điều tra phỏng vấn 60 hộ thực hiện mô hình lúa - cá trên địa bàn phường năm 2011 bằng phương pháp điều tra với nội dung điều tra: điều tra các thông tin liên quan phục vụ cho đề tài nghiên cứu được phản ánh qua phiếu điều tra đã được xây dựng sẵn để điều tra các hộ thực hiện mô hình lúa – cá. - Phương pháp thu thập số liệu thứ cấp: Dựa vào số liệu điều tra của hợp tác xã Thủy Dương, số liệu của phòng kinh tế thị xã Hương Thủy. Các tạp chí, các sách báo có liên quan, qua các trang web trên internet 1.5.3 Phương pháp tổng hợp và phân tích số liệu - Sử dụng các bảng biểu: Tổng hợp, phân tích, so sánh các chỉ tiêu cơ bản của sản xuất nông nghiệp. 1.5.4 Phương pháp so sánh - So sánh sự biến động của các chỉ tiêu qua các năm từ năm 2009 – 2011 ở thị xã Hương Thủy và phường Thủy Dương. - So sánh chênh lệch của các chỉ tiêu giữa hai mô hình lúa Đông Xuân và lúa - cá Đông Xuân trên địa bàn phường. - So sánh tính bền vững của 2 mô hình nhằm phát hiện ra những ưu điểm và nhược điểm, thuận lợi và khó khăn để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất trong nông nghiệp nói chung và hiệu quả kinh tế của mô hình lúa - cá nói riêng. 1.5.5 Phương pháp chuyên gia Trong thời gian thực hiện đề tài, tôi đã chủ động tham khảo ý kiến của thầy cô giáo, cán bộ lãnh đạo và người nuôi cá ở địa phương – những người có liên quan và am hiểu sâu sắc các vấn đề nghiên cứu nhằm bổ sung, hoàn thiện cho bài viết của mình, đồng thời kiểm chứng kết quả nghiên cứu của đề tài. Trư ờ g Đạ i họ c K inh tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 5 PHẦN II NỘI DUNG VÀ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1.1 Cơ sở lý luận 1.1.1 Một số khái niệm về hiệu quả kinh tế Trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì yêu cầu đặt ra là kinh doanh phải có hiệu quả kinh tế, kinh tế phát triển phải kéo theo xã hội phát triển, môi trường được đảm bảo. Vì vậy, hiệu quả kinh tế không chỉ là mối quan tâm hàng đầu của mỗi nhà sản xuất, mỗi doanh nghiệp ma còn là mối quan tâm hàng đầu của toàn xã hội. Có rất nhiều khái niệm hiệu quả kinh tế khác nhau, trong phạm vi doanh nghiệp thì hiệu quả kinh tế có thể được khái quát như sau: Theo một cách hiểu đơn giản nhất thì hiệu quả kinh tế biểu hiện mối quan hệ so sánh kết quả kinh tế xã hội đạt được so với chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Như vậy, muốn có hiệu quả kinh tế tối ưu thì phải tối đa hóa được kết quả và làm thế nào để tối thiểu mức chi phí bỏ ra. Người sản xuất muốn đạt được một kết quả nào đó trong sản xuất kinh doanh thì bắt buộc phải bỏ ra chi phí nhất định để đạt được kết quả đó. Hiệu quả kinh tế là tương quan so sánh giữa đơn vị kết quả đạt được với chi phí bỏ ra, nó biểu hiện bằng các chỉ tiêu như: Tổng giá trị sản xuất (GO), thu nhập tính trên một đơn vị chi phí bỏ ra. Hiệu quả kinh tế có thể được xác định bằng cách so sánh tương đối (chỉ tiêu hiệu quả tính được là chỉ tiêu tương đối) và tuyệt đối (chỉ tiêu hiệu quả tính được là chỉ tiêu tuyệt đối). Chỉ tiêu hiệu quả sinh ra từ các loại so sánh trên có tác dụng khác nhau trong đánh giá và phân tích kinh tế. Hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan thể hiện trình độ tổ chức quản lý, trình độ sử dụng các nguồn nhân tài, vật lực của doanh nghiệp để tạo ra kết quả lớn nhất. Trư ờng Đạ i họ c K i h tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 6 Theo giáo trình kinh tế nông nghiệp: Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt được cả hiệu quả kỹ thuật và hiệu quả phân bổ. Mặc dù có nhiều khái niệm khác nhau nhưng tất cả điều thống nhất về bản chất của nó. Hiệu quả kinh tế là mối tương quan so sánh giữa đơn vị kết quả đạt được với chi phí bỏ ra. Có nghĩa là người sản xuất muốn đạt được kết quả thì phải bỏ ra một khoản chi phí nhất định như chi phí lao động, vốn, trang thiết bị, kỹ thuật công nghệ, trình độ quản lý và so sánh kết quả đạt được với chi phí đã bỏ ra để đạt được kết quả đó sẽ cho biết hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh. Chênh lệch này càng lớn đồng nghĩa với hiệu quả kinh tế càng cao. Hiện nay, chỉ tiêu hiệu quả không chỉ dừng lại ở hiệu quả kinh tế mà phải bao gồm hiệu quả về mặt xã hội cũng như hiệu quả về mặt môi trường. Một doanh nghiệp được coi là kinh doanh có hiệu quả khi các hoạt động sản xuất của nó tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội của toàn vùng, nâng cao đời sống vật chất và bảo vệ môi trường sinh thái. Như vậy, quá trình phát triển kinh tế và phát triển xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau, là tiền đề của nhau, mục tiêu để phát triển kinh tế là xã hội và ngược lại. Vì thế, khi nói đến hiệu quả kinh tế chúng ta cần phải đặt nó trong quan hệ với hiệu quả kinh tế xã hội. 1.1.2 Mô tả về mô hình lúa - cá 1.1.2.1 Một số khái niệm về mô hình, mô hình sản xuất, mô hình nông nghiệp - Mô hình là những hình mẫu để làm đơn giản hệ thống, mô hình mang những tính chất của hệ thống giúp cho việc nghiên cứu hệ thống một cách dễ dàng, nghiên cứu mô hình để chọn cách quản lý, điều hành hệ thống. - Mô hình là một công cụ nghiên cứu khoa học giúp cho các nhà khoa học hiểu biết, đánh giá tối ưu hóa hệ thống. Mô hình còn được dùng để đánh giá tác động của các biện pháp trong quản lý nguồn tự nhiên. - Mô hình sản xuất là hình mẫu sản xuất thể hiện sự kết hợp các nguồn lực trong các điều kiện cụ thể nhằm đạt được mục tiêu về mặt sản phẩm và lợi ích về mặt kinh tế. - Mô hình nông nghiệp là mô hình mô tả các hoạt động của hệ thống nông nghiệp. Nhờ đó mà chúng ta có thể mô tả các hoạt động sản suất nông nghiệp tốt hơn, hoàn thiện hơn. Trư ờng Đạ i họ c K inh tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 7 1.1.2.2 Mô tả khái quát về mô hình hợp canh lúa - cá - Nuôi cá trong ruộng lúa là sự kết hợp giữa trồng lúa và nuôi cá trên một đơn vị diện tích đất ruộng. Thông thường, diện tích của ao nuôi cá chiếm khoảng 15 – 20% diện tích đất ruộng, còn lại là diện tích đất trồng lúa, có cá hình thức nuôi sau: + Nuôi luân canh (lúa – cá): Là nuôi cá vào vụ Hè Thu, còn cấy lúa vào vụ Đông Xuân và được thực hiện ở vùng ruộng trũng, canh tác bấp bênh vào vụ mùa. + Nuôi xen canh (lúa – cá – lúa): Vừa cấy lúa vừa nuôi cá trong ruộng. Tức là thả cá vào đầu vụ Đông Xuân và nuôi đến cuối vụ Hè Thu mới thu hoạch. + Nuôi xen canh (lúa – cá): Nuôi cá và trồng lúa ở vụ Đông Xuân, sau khi thu hoạch lại trồng lúa và nuôi cá ở vụ Hè Thu. + Nuôi cá vụ 3: Tiến hành sản xuất 2 vụ lúa và nuôi thêm cá vào mùa mưa. Mô hình này là mô hình nông nghiệp phát triển bền vững về nhiều mặt: về kinh tế, đảm bảo hiệu quả kinh tế lâu bền, về xã hội thì tạo công ăn việc làm, về môi trường thì không làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. - Chọn ruộng nuôi cá: Ruộng trũng, vùng trũng, ngập úng quanh năm hoặc ngập trong mùa mưa lũ, canh tác bấp bênh để chuyển qua nuôi cá, lúa chỉ làm 1 – 2 vụ. Ruộng phải có mực nước đủ sâu, thuận tiện tưới tiêu, nguồn nước phải chủ động, giàu oxy, ít phèn, gần kênh rạch để tiện cấp thoát nước. Khu vực nuôi cá phải không tiếp xúc với khu vực canh tác hoa màu để hạn chế nguy cơ nhiễm thuốc trừ sâu khi cấp nước nuôi cá. Diện tích nuôi tùy theo điều kiện của các nông hộ mà lựa chọn diện tích nuôi phù hợp theo nguyên tắc ruộng càng rộng , vùng cho cá trú ẩn càng sâu càng tốt. Thông thường, diện tích nuôi cá từ 1000m2 (0,1ha) trở lên và phải đạt độ sâu tối thiểu từ 1m trở lên. - Kiến thiết ruộng nuôi cá: Trong ruộng phải có bờ bao quanh, mương bao, cống: + Bờ bao quanh: chiều rộng chân bờ 2-4 m, chiều rộng mặt bờ 1-2 m, chiều cao của bờ phải cao hơn mực nước lũ hàng năm 0,5 m, những nơi không có điều kiện làm bờ bao có thể dùng lưới bao quanh. Tác dụng của bờ bao quanh là giữ cá, Trư ờng Đạ i họ c K inh tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 8 giữ nước không bị rò rỉ, đi lại trên bờ để chăm sóc và quản lý lúa – cá, có thể trồng thêm màu: mướp, đu đủ để tạo bóng mát cho cá. + Mương bao: diện tích mương bao chiếm 10 – 15% diện tích ruộng, đào cách bờ khoảng 0,5 m để tránh đất từ bờ bao lỡ xuống mương, ruộng đáy mương 1,5 – 2,5 m, ruộng mặt mương 2,5 – 3 m, chiều cao 1- 1,5 m. Tác dụng của mương bao là giữ được nước quanh năm để chứa cá, khi làm đất và thu hoạch cá, giữ cá khi sử dụng thuốc trừ sâu, giữ cá lúc nhỏ và trữ cá lúc thu hoạch. + Cống: tùy điều kiện kinh tế gia đình có thẻ làm cống bằng xi măng, cây dừa, nhựa PVC mỗi ruộng nuôi nên có cống cấp và thoát nước riêng biệt. - Chuẩn bị ruộng cấy lúa: Ruộng cấy lúa trong mô hình lúa - cá phải cải tạo kĩ hơn ruộng trồng lúa truyền thống, vì ngoài việc trồng lúa còn ảnh hưởng tới việc thả cá. Do vậy phải làm ruộng thật kĩ, phải tát cạn, diệt tạp, nạo vét bùn đáy ao, lấp cá hang, lổ mọi và dọn cỏ quanh bờ ao. Bón vôi : liều lượng 5- 10 kg/100 m2 đối với ruộng ít chua, 10 – 15 kg/100 m2 đối với ruộng chua nhiều và rải điều khắp ao, phơi ao 2 -3 ngày, không phơi nứt nẻ để cải tạo độ PH và diệt mầm bệnh hại cá. Tạo thức ăn tự nhiên ban đầu cho cá bằng cách bón phân với lượng: đối với phân hữu cơ bón 7 – 10 kg/100 m2, đối với phân vô cơ bón 150 – 200 kg/100 m2. Và cấp nước vào qua lưới lọc tránh cá dữ lọt vào ao nuôi. - Thời vụ thả giống: Tùy theo các hình thức nuôi mà định thời gian thả giống cho phù hợp. Thường sau khi cấy 15 – 20 ngày thì thả cá vào ruộng, nếu gieo sạ thì 30 ngày sau mới thả và thả vào lúc sáng sớm hay chiều mát. - Mật độ thả giống: Tùy theo từng chân ruộng khác nhau mà áp dụng mật độ thả cá cho phù hợp. Nuôi cá trên ruộng lúa chủ yếu tận dụng được thức ăn tự nhiên do đó chọn loài cá nuôi là những loài cá ăn tạp, những loài cá ăn lọc: cá chép, cá rô phi, cá trê, cá trôi, cá chim trắng, cá trắm cỏ khi nuôi kết hợp nhiều loại cá khác nhau cũng cần phải có tỷ lệ phù hợp. Có thể thả theo các cách sau: + Đối với hình thức lúa - cá xen canh, cứ 100 m2 thả: 10 – 15 con cá chép cỡ 6 – 8 cm 10 – 15 con cá rô phi cỡ 4 – 6 cm 8 – 10 con cá trê phi, trê lai cỡ 6 – 8 cm Trư ờng Đạ i họ c K inh tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 9 + Đối với với hình thức lúa - cá luân canh cứ 100 m2 thả : 10 – 15 con cá chép cỡ 6 – 8 cm 5 – 7 con cá trắm cỏ cỡ 10 – 15 cm 5 – 10 con cá rô phi cỡ 4 - 6 cm 10 – 15 con cá trê, trê lai cỡ 6 – 8 cm Nếu các hộ nông dân nuôi cá trong ruộng lúa theo hình thức xen canh và thu hoạch cá sau khi thu hoạch lúa nửa tháng thì lưu ý sau khi cấy lúa phải thả các giống cá có kích thước lớn để kịp với thời gian thu hoạch cá là sau khi thu hoạch lúa. Vì vậy, nếu thả cá có kích cỡ nhỏ thì phải bổ sung nhiều thức ăn nhân tạo hơn để cho cá nhanh lớn. Đây là một trong những mô hình có giá trị cao trong sản xuất nông nghiệp, vừa có tính ổn định nhu cầu lương thực thực phẩm cho người dân và vừa đảm bảo sự ổn định về môi trường sinh thái trong nông nghệp. 1.1.3 Đặc điểm của ruộng trũng, của cá nuôi ở ruộng, của cây lúa 1.1.3.1 Đặc điểm của ruộng trũng Ruộng trũng là những chân ruộng luôn luôn ổn định nước, vào mùa mưa thường bị ngập nước. Ở ruộng trũng có nhiều loài sinh vật sinh sống, nó cung cấp một nguồn thức ăn dồi dào cho cá, cụ thể là những loài động vật sau : - Thực vật lớn : Đó là các loại rong. Vào mùa nước lớn, các loài rong này phát triển rất mạnh và mọc thành từng vùng lớn trên mặt ruộng, mật độ trung bình là 302 g/m2. Tuy nhiên, vào mùa cấy lúa, chúng sẽ bị người dân phá đi để cấy lúa. - Thực vật thấp : Đó là các loại tảo, những loài này phát triển rất nhanh khi ruộng ngập nước. Đặc điểm nuôi cá ở ruộng lúa chủ yếu dựa vào thức ăn tự nhiên. Vì vậy, trong mô hình này cần chú ý tới đặc điểm này để có biện pháp tăng thêm nguồn thức ăn cho cá. - Động vật nổi: Có gần khoảng 50 loài động vật nổi ở đồng ruộng trũng. Trong đó, giáp xác chiếm 15 loài, nhuyễn thể chiếm 19 loài, giun đốt chiếm 24 loài, côn trùng có 7 loài trưởng thành... - Động vật sống quanh gốc lúa và cá bụi thủy sinh: Đây là nhóm động vật chuyên sống bám dựa vào các động vật lớn và sống trong gốc lúa vào mùa cấy lúa. Trư ờng Đạ i họ c K inh tế H uế GVHD: PGS.TS. Mai Văn Xuân Khóa luận tốt nghiệp SVTH: Lê Thị Thanh Trang - K42BKTNN 10 Nhóm này, qua điều tra người ta thu được kết quả bao gồm : giáp xác 12 loài, côn trùng 4 loài, giun tơ 1 loài... Tất cả là nguồn thức ăn tự nhiên dồi dào cho cá, nguồn thức ăn này càng dồi dào hơn nếu ta đầu tư thêm nhiều phân bón cho ruộng lúa. 1.1.3.2 Đặc điểm của các loài cá nuôi ở ruộng Khi chọn loài cá nuôi trong ruộng lúa cần chú ý chọn những loài cá có những đặc điểm sau : Loài cá nuôi cần có thời gian sinh trưởng ngắn, phù hợp với điều kiện canh tác của ruộng lúa. Đặc điểm loài cá sống phù hợp với môi trường của ruộng lúa là các loài cá ăn chất hữu cơ, động vật phù du, sâu bọ và còn có khả năng ăn trực tiếp cám, bột ngô, khoai sắn và thức ăn hỗn hợp... Các loài cá thường được nuôi trong ruộng lúa là : - Cá chép : Cá chép phân bố rộng, có ở gần khắp các nước trên thế giới. Cá chép sống chủ yếu trong nước ngọt nhưng cũng sống được trong nước lợ có nồng độ muối thấp. Cá chép là loài cá rộng nhiệt, nhưng nhiệt độ thích hợp cho cá chép từ 20 – 280C , sống được ở độ PH thích hợp cho cá là 7 – 8. Cá
Luận văn liên quan