Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình

Ngày nay, với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, sự gia tăng dân số cộng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã tạo rất nhiều áp lực lên việc sử dụng đất đai, khiến cho quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp làm ảnh hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm của cả nước, đồng thời cũng làm thay đổi cơ cấu kinh tế, đời sống của nhân dân cả nước. Mỗi vùng sản xuất nông nghiệp khác nhau thì có một phương thức canh tác khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của vùng, lãnh thổ đó. Điều kiện tự nhiên thuận lợi thì hiệu quả của việc sử dụng đất đem lại cao, ngược lại điều kiện tự nhiên bất lợi không những ảnh hưởng lớn đến việc bố trí các loại cây trồng vật nuôi mà còn ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân. Là xã miền núi của huyện Bố Trạch, nằm cách trung tâm huyện 25 km Sơn Trạch có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển hoàn thiện cả về công – nông nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính của vùng với hơn 75% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Là một xã thuần nông nên sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến và tiêu thụ, phương thức canh tác chưa được chuyên môn hoá, trình độ thâm canh sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, tài nguyên đất đai và nhân lực chưa được khai thác đầy đủ. Trong những năm gần đây, quá trình chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa làm giảm quỹ đất nông nghiệp của xã. Bên cạnh đó, nhu cầu lương thực, thực phẩm lại tăng nhanh do sự gia tăng dân số tạo ra sức ép đối với đất canh tác. Xuất phát từ thực tế đó, được sự đồng ý của khoa Tài nguyên đất và Môi trường nông nghiệp và sự hướng dẫn của của cô giáo TS Trần Thị Thu Hà, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình" nhằm xác định các loại hình sử dụng đất phù hợp và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững

doc67 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 10011 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1 ĐẶT VẤN ĐỀ 1.1 Tính cấp thiết của đề tài. Ngày nay, với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, sự gia tăng dân số cộng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đã tạo rất nhiều áp lực lên việc sử dụng đất đai, khiến cho quỹ đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp làm ảnh hưởng đến sản lượng lương thực, thực phẩm của cả nước, đồng thời cũng làm thay đổi cơ cấu kinh tế, đời sống của nhân dân cả nước. Mỗi vùng sản xuất nông nghiệp khác nhau thì có một phương thức canh tác khác nhau. Sự khác nhau này phụ thuộc vào điều kiện tự nhiên của vùng, lãnh thổ đó. Điều kiện tự nhiên thuận lợi thì hiệu quả của việc sử dụng đất đem lại cao, ngược lại điều kiện tự nhiên bất lợi không những ảnh hưởng lớn đến việc bố trí các loại cây trồng vật nuôi mà còn ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân. Là xã miền núi của huyện Bố Trạch, nằm cách trung tâm huyện 25 km Sơn Trạch có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển hoàn thiện cả về công – nông nghiệp và dịch vụ. Tuy nhiên, nông nghiệp vẫn là ngành sản xuất chính của vùng với hơn 75% dân số hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp. Là một xã thuần nông nên sản xuất nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn do hạn chế trong quá trình phát triển cơ sở hạ tầng, cơ sở chế biến và tiêu thụ, phương thức canh tác chưa được chuyên môn hoá, trình độ thâm canh sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, tài nguyên đất đai và nhân lực chưa được khai thác đầy đủ. Trong những năm gần đây, quá trình chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa làm giảm quỹ đất nông nghiệp của xã. Bên cạnh đó, nhu cầu lương thực, thực phẩm lại tăng nhanh do sự gia tăng dân số tạo ra sức ép đối với đất canh tác. Xuất phát từ thực tế đó, được sự đồng ý của khoa Tài nguyên đất và Môi trường nông nghiệp và sự hướng dẫn của của cô giáo TS Trần Thị Thu Hà, chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình" nhằm xác định các loại hình sử dụng đất phù hợp và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp bền vững. 1.2. Mục đích - Đánh giá hiệu sử dụng sử dụng đất sản xuất nông nghiệp xã Sơn Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình. - Định hướng và đề xuất một số giải pháp kinh tế - kỹ thuật nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng đất trên địa bàn xã. 1.3. Yêu cầu - Đánh giá chính xác, đầy đủ, khoa học và phù hợp với tình hình thực tiễn của xã, các tiêu chí phải thống nhất. - Phải thu thập số liệu một cách chính xác và tin cậy. - Các giải pháp đề xuất phải phù hợp và có tính khả thi. PHẦN 2 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Một số khái niệm sử dụng trong đánh giá đất 2.1.1. Khái niệm về đất đai Theo học thuyết sinh học cảnh quan, đất đai được coi là vật mang của hệ sinh thái. Đất đai được định nghĩa đầy đủ như sau: ''Một vạt đất xác định về mặt địa lý là một diện tích bề mặt trái đất với những thuộc tính tương đối ổn định hoặc thay đổi có tính chất chu kỳ có thể dự đoán được của sinh quyển bên trên, bên trong và bên dưới nó, như là không khí, đất (soild), điều kiện thủy văn, địa chất, thực vật, động vật cư trú, những hoạt động trước đây và hiện nay của con người, ở chừng mực mà những thuộc tính đó ảnh hưởng có ý nghĩa tới việc sử dụng đất hiện nay và trong tương lai của con người ''. Trong phạm vi nghiên cứu sử dụng đất, đất đai được nhìn nhận như là một nhân tố sinh thái ( FAO, 1976). Với khái niệm này,đất đai bao gồm tất cả các thuộc tính sinh học và tự nhiên của bề mặt trái đất có ảnh hưởng nhất định đến tiềm năng và hiện trạng sử dụng đất.[2] 2.1.2. Đặc điểm của đất đai 2.1.2.1. Các đặc điểm tự nhiên của đất đai Xét về mặt tự nhiên, trong đất luôn có các đặc điểm tự nhiên được hình thành nhờ vào các tính chất lý học, hóa học của đất đai. * Tính chất vật lý của đất đai Tính vật lý của đất đai thể hiện qua các yếu tố như tỷ trọng, dung trọng, độ xốp, tính trương co, tính dẻo, độ chặt của đất. Các yếu tố này sẽ ảnh hưởng đến các đặc tính của đất đai, đặc biệt là đặc tính thành phần cơ giới, ảnh hưởng trực tiếp đến phương thức canh tác và các loại hình sử dụng đất được lựa chọn. * Tính chất hóa học của đất Trong đất đai có nhiều tính chất hóa học đăc trưng, bởi vì bản thân trong đất đai có nhiều nguyên tố hóa học và sự phản ứng giữa các nguyên tố hóa học này sẽ tạo nên các tính chất hóa học. Các yếu tố thể hiện các tính chất hóa học có trong đất như độ chua, các nhóm mùn, keo đất, tính đệm, dung dịch đất...các yếu tố này ảnh hưởng đến chất lượng đất rất lớn, quyết định đến loại hình sử dụng đất.[11] 2.1.2.2. Các đặc điểm về kinh tế - xã hội của đất đai Xét về mặt kinh tế xã hội, đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và hoạt động của con người, đất đai vừa là đối tượng lao động, vừa là phương tiện lao động. Đất đai là một vật thể tự nhiên mang tính lịch sử. Đất đai là một sản phẩm của tự nhiên, suốt hiện và tồn tại ngoài ý chí và sự nhận thức của con người. Qua quá trình lao động, con người tác động vào đất đai để thu lại sản phẩm, chính trong quá trình này, con người đã chuyển tải vào đất đai giá trị sức lao động của mình và làm cho đất đai tham gia vào các mối quan hệ xã hội. Do đó, từ vật thể tự nhiên, đất đai đã mang tính lịch sử. Tính chất quan trọng nhất của đất đai làm cho nó trở thành một tư liệu sản xuất đặc biệt, đó chính là độ phì của đất. Độ phì là khả năng của đất cung cấp cho cây trồng thức ăn,nước và những điều kiện khác, đảm bảo sự sinh trưởng và phát triển của cây trồng. Đất đai có tính giới hạn về số lượng, tính cố định về vị trí, không thể thay thế và có khả năng tăng sức sản xuất.[11] 2.1.3. Khái niệm đánh giá đất Hiện nay có nhiều khái niệm khác nhau về đánh giá đất: - Đánh giá đất đai là so sánh, đánh giá khả năng của đất theo từng khoanh đất dựa vào độ màu mỡ và khả năng sản xuất của đất. - Theo Sôbôlev: Đánh giá đất đai là học thuyết về sự đánh giá có tính chất so sánh chất lượng đất của các vùng đất khác nhau mà ở đó thực vật sinh trưởng và phát triển. - Đánh giá đất đai là sự phân chia có tính chất chuyên canh về hiệu suất của đất do những dấu hiệu khách quan (khí hậu, thời tiết, thủy văn, thảm thực vật tự nhiên, hệ động vật tự nhiên,…) và thuộc tính của chính đất đai tạo nên. - Đánh giá đất đai chỉ có ý nghĩa trong lĩnh vực một vùng có điều kiện tự nhiên (trừ yếu tố đất), điều kiện kinh tế xã hội như nhau. - Theo FAO (1976) đánh giá đất đai là quá trình so sánh, đối chiếu những tính chất vốn có của vạt/khoanh đất cần đánh giá với những tính chất đất đai mà loại hình sử dụng đất yêu cầu. Như vậy đánh giá đất đai trong sản xuất nông nghiệp thường dựa vào chất lượng (độ phì tự nhiên, độ phì hữu hiệu) của đất và mức sản phẩm mà độ phì tạo nên. [2] 2.2. Sản xuất nông nghiệp 2.2.1. Đặc điểm của sản xuất nông nghiệp Sản xuất nông nghiệp được tiến hành trên địa bàn rộng lớn, phức tạp, phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên nên mang tính khu vực rõ rệt. Chịu ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu rất lớn. Trong sản xuất nông nghiệp, ruộng đất là tư liệu sản xuất không thể thay thế. Ruộng đất bị giới hạn về diện tích, con người không thể tăng theo ý muốn chủ quan nhưng sức sản xuất của đất là chưa có giới hạn, nghĩa là con người có thể khai thác chiều sâu của ruộng đất nhằm thoả mãn nhu cầu tăng lên của loài người về các nông sản phẩm. Đối tượng sản xuất của nông nghiệp là cơ thể sống. Các loại cây trồng, vật nuôi phát triển theo quy luật sinh học. Cây trồng và vật nuôi với tư cách là tư liệu sản xuất đặc biệt được sản xuất trong bản thân nông nghiệp bằng cách sử dụng trực tiếp sản phẩm thu được ở chu kỳ trước làm tư liệu sản xuất cho kỳ sau. Sản xuất nông nghiệp mang tính thời vụ cao. Đó là nét đặc thù điển hình nhất của sản xuất nông nghiệp, bởi vì một mặt quá trình sản xuất nông nghiệp là quá trình tái sản xuất kinh tế xoắn xuýt với quá trình tái sản xuất tự nhiên, thời gian hoạt động và thời gian sản xuất xen kẽ nhau, song lại không hoàn toàn trùng hợp nhau, sinh ra tính thời vụ cao trong nông nghiệp.[11] 2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp Việc sử dụng đất luôn chịu ảnh hưởng của các nhân tố tự nhiên, kinh tế - xã hội và nhân tố không gian. Có thể thấy rõ sự tác động của các nhân tố này tới quá trình sử dụng đất như sau: 2.2.2.1. Điều kiện tự nhiên. Việc sử dụng đất luôn chịu sự ảnh hưởng của nhân tố tự nhiên. Do vậy khi sử dụng đất đai ngoài bề mặt không gian cần chú ý đến việc thích ứng với điều kiện tự nhiên và quy luật sinh thái tự nhiên của đất cũng như các yếu tố bao quanh mặt đất như nhiệt độ, ánh sáng, lượng mưa, không khí và các khoáng sản trong lòng đất…Trong điều kiện tự nhiên, khí hậu là nhân tố hạn chế hàng đầu của việc sử dụng đất đai, sau đó là điều kiện đất đai (chủ yếu là địa hình, thổ nhưỡng) và các nhân tố khác. [9] 2.2.2.1.1. Điều kiện khí hậu và thời tiết. Khí hậu và nguồn nước có ảnh hưởng mạnh mẽ, trực tiếp đến sản xuất nông nghiệp. Đặc biệt, ảnh hưởng lớn tới việc xác định cơ cấu cây trồng, thời vụ, khả năng xen canh, tăng vụ và hiệu quả sản xuất nông nghiệp ở từng địa phương. Sự phân chia các đới trồng trọt chính trên thế giới như nhiệt đới, cận nhiệt, ôn đới và cận cực liên quan tới sự phân đới khí hậu. Sự phân mùa của khí hậu quy định tính mùa vụ trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Các điều kiện thời tiết có tác dụng kìm hãm hay thúc đẩy sự phát sinh và lan tràn dịch bệnh cho vật nuôi, các sâu bệnh có hại cho cây trồng. Những tai biến thiên nhiên như lũ lụt, hạn hán, bão… gây thiệt hại nghiêm trọng cho sản xuất nông nghiệp. Chính điều này làm cho ngành nông nghiệp có tính bấp bênh. [9] 2.2.2.1.2. Điều kiện đất đai. Sự sai khác giữa địa hình, địa mạo, độ dốc, độ cao so với mặt nước biển, độ dốc và hướng dốc, sự bào mòn mặt đất và mức độ xói mòn…thường dẫn đến sự khác nhau về đất đai và khí hậu, từ đó ảnh hưởng đến sản xuất và phân bố các ngành nông - lâm nghiệp, hình thành sự phân biệt địa giới theo chiều thẳng đứng đối với nông nghiệp. Địa hình và độ dốc ảnh hưởng đến phương thức sử dụng đất nông nghiệp từ đó đặt ra yêu cầu cần phải đảm bảo thuỷ lợi hoá và cơ giới hoá cho đồng ruộng nhằm thu lại hiệu quả sử dụng đất là cao nhất. Điều kiện thổ nhưỡng quyết định rất lớn đến hiệu quả sản xuất nông nghiệp. Độ phì của đất là tiêu chí quan trọng về sản lượng cao hay thấp. [10] 2.2.2.2. Nhân tố kinh tế - xã hội. Nhân tố kinh tế - xã hội bao gồm các yếu tố như chế độ xã hội, dân số và lao động, thông tin và quản lý, chính sách môi trường và chính sách đất đai, sức sản xuất và trình độ phát triển của kinh tế hàng hoá, cơ cấu kinh tế và phân bố sản xuất, các điều kiện về công nghiệp, nông nghiệp, giao thông vận tải, sử dụng lao động, điều kiện và trang thiết bị vật chất cho công tác phát triển nguồn nhân lực, đưa khoa học kỹ thuật vào sản xuất. Nhân tố kinh tế - xã hội thường có ý nghĩa quyết định, chủ đạo đối với việc sử dụng đất đai. Trong một vùng hoặc trên phạm vi một nước, điều kiện vật chất tự nhiên của đất thường có sự khác biệt không lớn, về cơ bản là giống nhau. Nhưng với điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, dẫn đến tình trạng có vùng đất đai được khai thác sử dụng triệt để từ lâu đời và đã đem lại những hiệu quả kinh tế - xã hội rất cao nhưng có nơi đất đai bị bỏ hoang hoá hoặc khai thác với hiệu quả kinh tế thấp. [10] 2.2.2.3. Nhân tố không gian. Trong thực tế, mọi ngành sản xuất vật chất hay phi vật chất đều cần đến đất đai như điều kiện không gian để hoạt động. Đặc tính cung cấp không gian của đất đai là yếu tố vĩnh hằng của tự nhiên ban phát cho loài người. Vì vậy, không gian trở thành một trong những nhân tố hạn chế cơ bản nhất của việc sử dụng đất. Vị trí và không gian của đất không tăng thêm cũng không mất đi trong quá trình sử dụng do vậy tác dụng hạn chế của đất sẽ thường xuyên xảy ra khi dân số và xã hội luôn phát triển. Sự bất biến của tổng diện tích đất đai không chỉ hạn chế khả năng mở rộng không gian sử dụng mà còn chi phối giới hạn thay đổi của cơ cấu đất đai. Tài nguyên đất đai có hạn lại giới hạn về không gian vì vậy cần phải thực hiện nghiêm ngặt nguyên tắc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm có hiệu quả kết hợp với việc bảo vệ đất và bảo vệ môi trường. [10] 2.2.3. Vai trò của sản xuất nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân + Cung cấp lương thực thực phẩm cho toàn xã hội. Thực tế cho thấy rằng xã hội càng phát triển thì yêu cầu về dinh dưỡng do lương thực và thực phẩm ( đặc biệt là thực phẩm ) ngày càng tăng nhanh. Một đặc điểm quan trọng của hàng hóa lương thực, thực phẩm là không thể thay thế bằng bất kỳ một loại hàng hóa nào khác. Những hàng hóa này dù cho trình độ khoa học - công nghệ phát triển như hiện nay, vẫn chưa có ngành nào có thể thay thế được. Lương thực, thực phẩm là yếu tố đầu tiên có tính chất quyết định sự tồn tại phát triển của con người và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những hàng hóa có chứa chất dinh dưỡng nuôi sống con người này chỉ có thể có được thông qua hoạt động sống của cây trồng và vật nuôi hay nói cách khác là thông qua quá trình sản xuất nông nghiệp. + Quyết định an ninh lương thực quốc gia, góp phần thúc đẩy sản xuất công nghiệp, các ngành kinh tế khác và phát triển đô thị. Nông nghiệp cung cấp các nguyên liệu cho công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp chế biến. Nông nghiệp là khu vực dự trữ và cung cấp nguồn lao động dồi dào cho phát triển công nghiệp, các ngành kinh tế khác và đô thị. Nông nghiệp nông thôn là thị trường tiêu thụ rộng lớn cho hàng hóa công nghiệp và các ngành kinh tế khác. [1] + Nguồn thu ngân sách quan trọng của nhà nước. Nông nghiệp là ngành kinh tế sản xuất có quy mô lớn nhất nước ta. Tỷ trọng giá trị tổng sản lượng và thu nhập quốc dân trong khoảng 25 % tổng thu ngân sách trong nước. Việc huy động một phần thu nhập từ nông nghiệp được thực hiện dưới nhiều hình thức: Thuế nông nghiệp, các loại thuế kinh doanh khác,... Bên cạnh nguồn thu ngân sách cho nhà nước việc xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp làm tăng nguồn thu ngoại tệ góp phần thiết lập cán cân thương mại đồng thời cung cấp vốn ban đầu cho sự phát triển của công nghiệp. [1] + Hoạt động sinh kế chủ yếu của đại bộ phận dân nghèo nông thôn. Nước ta với hơn 70 % dân cư tập trung ở nông thôn họ sống chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, với hình thức sản xuất tự cấp tự túc đáp ứng nhu cầu cấp thiết hàng ngày. + Tái tạo tự nhiên. Nông nghiệp còn có tác dụng bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường. Trong các ngành sản xuất chỉ có nông nghiệp mới có khả năng tái tạo tự nhiên cao nhất mà các ngành khác không có được. Tuy nhiên nông nghiệp lạc hậu và phát triển không có kế hoạch cũng dẫn đến đất rừng bị thu hẹp, độ phì đất đai giảm sút, các yếu tố khí hậu thay đổi bất lợi. Mặc khác sự phát triển đến chóng mặt của thành thị, của công nghiệp làm cho nguồn nước và bầu không khí bị ô nhiễm trầm trọng. Đứng trước thảm họa này đòi hỏi phải có sự cố gắng của cộng đồng quốc tế nhằm đẩy lùi thảm họa đó bằng nhiều phương pháp, trong đó nông nghiệp giữ một vị trí cực kỳ quan trọng trong việc thiết lập lại cân bằng sinh thái động thực vật. Vì thế phát triển công nghiệp phải trên cơ sở phát triển nông nghiệp bền vững. [1] 2.3. Hiệu quả sử dụng đất và các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất Khái niệm về hiệu quả được sử dụng trong đời sống xã hội, nói đến hiệu quả người ta sẽ hiểu là công việc đạt kết quả tốt. Như vậy hiệu quả là kết quả mong muốn, cái mà con người mong đợi và hướng tới khi thực hiện một công việc. Nó có nội dung khác nhau ở những lĩnh vực khác nhau. Trong sản xuất hiệu quả có nghĩa là hiệu suất, là năng suất. Trong quy doanh hiệu quả là lãi suất, lợi nhuận, trong lao động hiệu quả là năng suất lao động được đánh giá bằng số lượng thời gian hao phí để sản xuất ra một đơn vị sản phẩm hoặc là bằng số lượng sản phẩm được sản xuất ra trong một đơn vị thời gian. Trong xã hội, hiệu quả xã hội là có tác dụng tích cực đối với một lĩnh vực xã hội nào đó. [2] 2.3.1. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế (HQKT) là một phạm trù phản ánh chất lượng của các hoạt động kinh tế. Theo ngành thống kê định nghĩa thì HQKT là một phạm trù kinh tế, biểu hiện của sự tập trung phát triển theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác các nguồn lực và sự chi phí các nguồn lực trong quá trình sản xuất. Nâng cao HQKT là một tất yếu của mọi nền sản xuất xã hội, yêu cầu của công tác quản lý kinh tế buộc phải nâng cao chất lượng các hoạt động kinh tế làm xuất hiện phạm trù HQKT. Nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phát triển theo hai chiều: chiều rộng và chiều sâu, phát triển theo chiều rộng là huy động mọi nguồn lực vào sản xuất, tăng đầu tư chi phí vật chất, lao động, kỹ thuật, mở mang thêm nhiều ngành nghề, xây dựng thêm nhiều nhà máy, xí nghiệp… Phát triển theo chiều sâu là đẩy mạnh việc áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ sản xuất, tiến hành hiện đại hóa, tăng cường chuyên môn hóa và hợp tác hóa, nâng cao trình độ sử dụng các nguồn lực, chú trọng chất lượng sản phẩm và dịch vụ. Phát triển theo chiều sâu là nhằm nâng cao HQKT. HQKT là tiêu chuẩn cao nhất cua mọi sự lựa chọn kinh tế của các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Theo C. Mác thì quy luật kinh tế đầu tiên trên cơ sở sản xuất tổng thể là quy luật tiết kiệm thời gian và phân phối một cách có kế hoạch thời gian lao động theo các nghành sản xuất khác nhau. Theo các nhà khoa học Đức (Stenien, Hanau, Rusteruyer, Simmerman-1995): Hiệu quả kinh tế là chỉ tiêu so sánh mức độ tiết kiệm chi phí trong một đơn vị kết quả hữu ích và mức tăng kết quả hữu ích của hoạt động sản xuất vật chất trong một thời kì, góp phần làm tăng thêm phúc lợi xã hội. Như vậy, hiệu quả kinh tế được hiểu là mối tương quan so sánh giữa lượng kết quả đạt được với lượng chi phí bỏ ra trong các hoạt động sản xuất. Kết quả đạt được là phần giá trị thu được của sản phẩm đầu ra, lượng chi phí bỏ ra là phần giá trị của các nguồn lực đầu ra. Mối tương quan đó cần xét cả về phần so sánh tuyệt đối với tương đối cũng như xem xét mối quan hệ chặt chẽ giữa hai đại lượng đó. Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế mà trong đó sản xuất đạt hiệu quả kinh tế và hiệu quả phân bổ. Điều đó có nghĩa là cả hai yếu tố hiện vật và giá trị đều tính đến khi xem xét sử dụng các nguồn lực trong nông nghiệp. Nếu đạt được một trong 2 yếu tố hiệu quả kỹ thuật và phân bố thì khi đó hiệu quả kinh tế. Từ những vấn đề trên có thể kết luận rằng bản chất của hiệu quả kinh tế sử dụng đất là: Trên một diện tích nhất định sản xuất ra một khối lượng của cải vật chất nhiều nhất, với một lượng đàu tư chi phí về vật chất và lao động thấp nhất nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng về vật chất của xã hội. Xuất phát từ vấn đề này mà trong quá trình đánh giá đất nông nghiệp cần phải chỉ ra được loại hình sử dụng đất có hiệu quả kinh tế cao.[2][3] 2.3.2. Hiệu quả xã hội Theo Nguyễn Thị Vòng và các cộng sự (2001) thì hiệu quả xã hội là mối tương quan so sánh giữa kết quả xét về mặt xã hội và tổng chi phí bỏ ra. Hiệu quả về mặt xã hội trong sử dụng đất nông nghiệp chủ yếu được xác định bằng khả năng tạo việc làm trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp. Từ những quan điểm trên của các tác giả cho thấy hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội có mối quan hệ mật thiết với nhau, chúng là tiền đề của nhau và là một phạm trù thống nhất, phản ánh mối quan hệ giữa kết quả sản xuất với các lợi ích xã hội mà nó mang lại. Trong giai đoạn hiện nay, việc đánh giá hiệu quả xã hội của các loại hình sử dụng đất nông nghiệp là nội dung được các nhà khoa học quan tâm.[2][3] 2.3.3. Hiệu quả môi trường Hiệu quả về môi trường là xem xét sự phản ứng của môi trường đối với hoạt động sản xuất. Tất cả các hoạt động sản xuất, đặc biệt là sản xuất nông nghiệp đều ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường. Đó có thể là ảnh hưởng tích cực đồng thời có thể là ảnh hưởng tiêu cực. Thông thường, hiệu qủa kinh tế thường mâu thuẫn với hiệu quả môi trường. Chính vì vậy khi xem xét hiệu quả môi trường cần phải đảm bảo tính cân bằng với phát triển kinh tế,
Luận văn liên quan