Đề tài Đánh giá về nguồn thu và cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay

Từ hàng chục năm nay, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi gặp phải rủi ro, biến cố trong cuộc sống như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bước sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết. Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, việc đảm bảo hệ thống tài chính cho quỹ BHXH là hết sức cần thiết và mang ý nghĩa sống còn đối với hoạt động của BHXH. Thông qua việc xem xét đánh giá cơ chế quản lý BHXH ở Việt nam .

doc27 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 1968 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Đánh giá về nguồn thu và cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đề tài : Đánh giá về nguồn thu và cơ chế quản lý quỹ bảo hiểm xã hội hiện nay LỜI NÓI ĐẦU Từ hàng chục năm nay, chính sách Bảo hiểm xã hội đã góp phần quan trọng trong việc trợ cấp vật chất, hỗ trợ đời sống cho những đối tượng hưởng bảo hiểm xã hội và gia đình họ khi gặp phải rủi ro, biến cố trong cuộc sống như ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp hoặc chết dẫn đến giảm hoặc mất nguồn thu nhập. Trong giai đoạn hiện nay, nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế và có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Bước sang cơ chế kinh tế mới với quan hệ lao động phong phú, đa dạng, chính sách BHXH trong cơ chế cũ không còn phù hợp nữa. Do đó việc nghiên cứu, tìm hiểu và xây dựng cơ sở lý luận nhằm đổi mới hoàn thiện chính sách BHXH cho phù hợp với tình hình mới là một yêu cầu cấp thiết. Quỹ BHXH là một nội dung rất quan trọng trong chính sách BHXH. Quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển. Chính vì vậy, việc đảm bảo hệ thống tài chính cho quỹ BHXH là hết sức cần thiết và mang ý nghĩa sống còn đối với hoạt động của BHXH. Thông qua việc xem xét đánh giá cơ chế quản lý BHXH ở Việt nam . Chương I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI Tổng quan về bảo hiểm xã hội. Khái niệm bảo hiểm xã hội. Bảo hiểm xã hội là hệ thống các qua hệ kinh tế dưới hình thái giá trị phát sinh trong quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quỹ bảo hiểm nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuât và đời sống của con người trong xã hội được ổn định và phát triển bình thường trong điều kiện có những biến cố bất lợi xảy ra . b) Bản chất của bảo hiểm xã hội Với cách hiểu như  trên bản chất của bảo hiểm xã hội được thể hiện ở những nội dung chủ yếu sau đây: Một là: BHXH là nhu cầu khách quan, đa dạng và phức tạp của xã hội, nhất là trong xã hội mà sản xuất hàng hóa hoạt động theo cơ chế thị trường, mối quan hệ thuê mướn lao động phát triển lao động phất triển đến một mức độ nào đó và hoàn thiện. Vì thế có thể nói kinh tế là nền tảng của bảo hiểm xã hội hay bảo hiểm xã hội không vượt qua trạng thái kinh tế của mỗi nước. Hai là: Mối quan hệ  giữa các bên trong bảo hiểm xã hội phát sinh trên cơ sở quan hệ lao động và diễn ra giữa 3 bên: Bên tham gia bảo hiểm xã hội, bên bảo hiểm xã hội và bên được bảo hiểm xã hội. Bên tham gia bảo hiểm xã hội có thể chỉ là người lao động hoặc cả người lao động và người sử dụng lao động. Bên bảo hiểm xã hội (bên nhận nhiệm vụ bảo hiểm xã hội) thông thường là cơ quan chuyên trách do Nhà nước lập ra và bảo trợ. Bên được bảo hiểm xã hội là người lao động và gia đình họ khi có đủ các điều kiện ràng buộc cần thiết. Ba là: Những biến cố làm giảm hoặc mất khả năng lao động mất việc làm trong bảo hiểm xã hội có thể là những rủi ro ngẫu nhiên trái với ý muốn chủ quan của con người như: ốm đau, tai nạn lai động, bệnh nghề nghiệp... Hoặc cũng có thể là những trường hợp xảy ra không hoàn toàn ngẫu nhiên như: Tuổi già, thai sản v.v... Đồng thời những biến cố đó có thể diễn ra cả trong và ngoài quá trình lao động. Bốn là: Phần thu nhập của người lao động bị giảm hoặc mất đi khi gặp phải những biến cố, rủi ro sẽ được bù đắp hoặc thay thế từ một nguồn quỹ tiền tệ tập trung được tồn tích lại. Nguồn quỹ  này do bên tham gia bảo hiểm xã hội đóng góp là chủ yếu, ngoài ra còn được sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Năm là: Mục tiêu của bảo hiểm xã hội là nhằm thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu của người lao động trong trường hợp bị giảm hoặc mất thu nhập, mất việc làm. Với những mục tiêu trên, bảo hiểm xã hội đã trở thành một trong những quyền con người và được Đại hội đồng Liên hợp quốc thừa nhận và ghi vào Tuyên ngôn Nhân quyền ngày 10/12/1948 rằng:” Tất cả mọi người với tư cách là thành viên của xã hội có quyền hưởng bảo hiểm xã hội, quyền đó được đặt cơ sở trên sự thỏa mãn các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa nhu cầu cho nhân cách và sự tự do phát triển con người”. Ở nước ta, bảo hiểm xã hội là một bộ phận quan trọng trong chính sách bảo đảm xã hội. Ngoài bảo hiểm xã hội, chính sách bảo đảm xã hội còn có cứu trợ xã hội và ưu đãi xã hội. Cứu trợ xã hội là sự giúp đỡ của Nhà nước và  xã hội về thu nhập và các điều kiện sinh sống khác đối với mọi thành viên của xã  hội, trong những trường hợp bị bất hạnh, rủi ro, nghèo đói, không đủ khả năng để tự lo cuộc sống tối thiểu của bản thân và gia đình. Sự giúp đỡ này được thực hiện bằng các nguồn quỹ dự phòng của Nhà nước, bằng tiền hoặc hiện vật đóng góp của các tổ chức xã hội và những người hảo tâm. Ưu đãi xã hội là sự đãi ngộ đặc biệt cả về vật chất và tinh thần của Nhà nước, của xã hội nhằm đền đáp công lao đối với những người hay bộ phận xã hội có nhiều cống hiến cho xã hội. Chẳng hạn những người có công với nước, liệt sỹ và thân nhân liệt sỹ, thương binh v.v...đều là những đối tượng được hưởng sự đãi ngộ của Nhà nước, của xã hội, ưu đãi xã hội tuyệt nhiên không phải là sự bố thí, ban ơn, mà nó là một chính sách xã hội có mục tiêu chính trị, kinh tế , xã hội góp phần củng cố thể chế chính trị của Nhà nước trước mắt và lâu dài, đảm bảo công bằng xã hội. c)Vai trò của bảo hiểm xã hội. Trong nền kinh tế thị trường,bảo hiểm xã hội có vai trò rất to lớn.Vai trò đó được thể hiện trên các mặt sau: Bảo hiểm xã hội mang lại sự đảm bảo và ổn định cuộc sống cho người dân đặc biệt người làm công ăn lương. Khi có sự cố bảo hiểm,những người tham gia bảo hiểm nhất định sẽ nhận được một số tiền bảo hiểm để làm giảm bớt khó khăn về mặt tài chính, tạo điều kiện duy trì mức sống đã đạt được.Như vậy, thực hiện tốt chính sách bảo hiểm cũng có nghĩa là tạo sự yên tâm cho những người lao động trong quá trình lao động. Hỗ trợ và thực hiện các biện pháp an toàn lao động,tạo điều kiện để cải thiện, nâng cao sức khỏe cho người lao động.Đây là vai trò tích cực của bảo hiểm xã hội đối với người lao động vì nó vừa nâng cao đời song,sức khỏe cho người lao động,vừa giảm các khoản chi trợ cấp về tai nạn,bệnh nghề nghiệp ,… vừa đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành bình thường. Sử dụng nguồn tài chính nhàn rỗi để tham gia vào thị trường tài chính nhằm mục đích bảo toàn và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội. Trong điều kiện kinh tế thị trường,quỹ bảo hiểm xã hội cũng là một nguồn tài chính quan trọng của thị trường tài chính để đầu tư phát triển kinh tế xã hội.quỹ bảo hiểm xã hội,đặc biệt là phần chi cho chế độ hưu trí có thời gian nhàn rỗi tương đối dài,hang chục năm . Vì vậy,có thể sử dụng nguồn vốn này để tham gia vào thị trường tài chính với mục đích bảo toàn và phát triển quỹ bảo hiểm xã hội. d)Một số nội dung cơ bản về bảo hiểm xã hội. -Đối tượng BHXH :Là thu nhập của người lao động chứ không phải bản thân họ. BHXH được hình thành để góp phần cân bằng thu nhập cho người lao động khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm hoặc mất khả năng lao động hoặc khả năng lao động không được sử dụng. Còn đối tượng đảm bảo của BHXH là người lao động và gia đình họ theo quy định của pháp luật BHXH. Đối tượng tham gia BHXH là người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước trong một số trường hợp. - Các chế độ BHXH: Các chế độ BHXH là hệ thống các quy định về mức hưởng của từng trường hợp, điều kiện hưởng, mức hưởng và thời hạn hưởng cho người lao động khi họ gặp phải những rủi ro thuộc từng phạm vi bảo hiểm. Tùy theo điều kiện, hệ thống BHXH của mỗi nước có thể có các chế độ BHXH khác nhau trong số 9 chế độ mà Tổ chức Lao động quốc tế quy định. Hiện nay pháp luật BHXH của Việt Nam quy định có 5 chế độ: chế độ trợ cấp cho những trường hợp bị ốm đau (gọi tắt là chế độ ốm đau); chế độ BHXH cho lao động nữ khi sinh con (gọi tắt là chế độ thai sản); chế độ trợ cấp BHXH cho người lao động bị tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp (gọi tắt là chế độ TNLĐ & BNN); chế độ chôn cất và trợ cấp mất người nuôi dưỡng (gọi tắt là chế độ tử tuất); chế độ bảo hiểm tuổi già (gọi tắt là chế độ hưu trí). Có thể nói, các chế độ là nội dung cốt lõi nhất của hệ thống BHXH, nó thể hiện được vai trò và phạm vi trách nhiệm của BHXH đối với người lao động khi họ tham gia BHXH. Trong các chế độ BHXH, quy định đối tượng được thụ hưởng, các điều kiện hưởng BHXH, mức hưởng và thời hạn được hưởng trợ cấp BHXH (sẽ được đề cập sâu hơn ở những phần sau - tác giả). Trợ cấp BHXH là khoản tiền từ quỹ BHXH được bên BHXH (cơ quan BHXH) chi trả cho mọi người được BHXH khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm và có đủ các điều kiện quy định. - Tổ chức quản lý BHXH Quản lý BHXH chung nhất, được hiểu là sự tác động của chủ thể quản lý vào đối tượng và khách thể quản lý trong các hoạt động của BHXH, nhằm đạt được mục tiêu đề ra với những nguyên tắc và phương pháp quản lý phù hợp với hệ thống quản lý chung của nền kinh tế. Quản lý BHXH cho thấy phương thức quản lý BHXH và các cơ quan chức năng có nhiệm vụ quản lý BHXH (bao gồm quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý hoạt động sự nghiệp BHXH). Do điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị của mỗi nước khác nhau nên hệ thống BHXH của các nước được xây dựng khác nhau và vì vậy không có mô hình tổ chức BHXH chung cho tất cả các nước. Có một số nước giao cho một bộ nào đó đảm nhận cả chức năng quản lý Nhà nước về BHXH và tổ chức thực hiện các nghiệp vụ BHXH. Đa số các nước hoạt động sự nghiệp BHXH (quản lý quỹ, quản lý đối tượng, thực hiện thu - chi BHXH) được giao cho cơ quan BHXH độc lập đảm nhận dưới sự điều hành của Hội đồng quản trị hoặc Hội đồng quản lý. Tuy nhiên, dù có tổ chức thế nào thì vẫn có hai nội dung quan trọng, đó là quản lý Nhà nước về BHXH và quản lý các hoạt động sự nghiệp BHXH. * Quản lý Nhà nước về BHXH BHXH là một chính sách xã hội của mỗi nước vì vậy phải có sự quản lý các hoạt động BHXH. Quản lý Nhà nước về BHXH là một trong các hoạt động quản lý đó. Quản lý Nhà nước về BHXH xuất phát từ chức năng xã hội của Nhà nước. Quản lý Nhà nước về BHXH được thể hiện thông qua một số nội dung cơ bản sau: - Quản lý thống nhất các hoạt động BHXH trên phạm vi toàn quốc gia  - Xây dựng pháp luật BHXH Một trong những chức năng cơ bản của quản lý Nhà nước về BHXH là công tác xây dựng văn bản pháp luật BHXH. Nhà nước, thông qua các cơ quan chức năng của mình (tùy theo mô hình quản lý Nhà nước của mỗi nước) xây dựng các văn bản pháp luật về BHXH bao gồm các đạo luật, các luật, các văn bản pháp quy (Nghi định, quyết định...) và các văn bản dưới luật để thực hiện pháp luật BHXH thống nhất trong phạm vi quốc gia. Khác với bảo hiểm thương mại, Nhà nước chỉ ban hành những điều, những nội dung cơ bản nhất còn các chính sách, chiến lược cụ thể là do các công ty bảo hiểm thực hiện, đối với BHXH, Nhà nước quy định bằng văn bản pháp luật rất cụ thể và chặt chẽ các nội dung của chính sách BHXH, các cơ quan BHXH không được tự ý đặt ra bất kỳ chế độ, bất kỳ quy định nào. Vì vậy, xây dựng pháp luật BHXH có thể coi là chức năng quan trọng nhất của quản lý Nhà nước về BHXH. - Định hướng các hoạt động BHXH, bao gồm: + Thứ nhất, định hướng chính sách + Thứ hai, định hướng tài chính BHXH - Thực hiện thanh tra, kiểm tra các hoạt động sự nghiệp BHXH - Bảo hộ và bảo trợ cho các hoạt động BHXH * Tổ chức hoạt động sự nghiệp BHXH. Dù mô hình có thể được tổ chức khác nhau, nhưng hoạt động sự nghiệp BHXH có những chức năng chủ yếu sau: - Thực hiện thu- chi BHXH: Thông quan bộ máy của mình và trên cơ sở pháp luật BHXH của mỗi nước, các cơ quan BHXH tiến hành các nghiệp vụ thu tiền đóng BHXH của các doanh nghiệp và người lao động (còn gọi là phí BHXH) và triển khai chi trả các trợ cấp cho người thụ hưởng BHXH và các chi phí quản lý khác. Thực hiện các nghiệp vụ kế toán - tài chính BHXH theo chính sách tài chính của mỗi nước. - Quản lý đối tượng Trong hoạt động BHXH có hai nhóm đối tượng đó là nhóm đối tượng tham gia BHXH và nhóm đối tượng thụ hưởng BHXH. Nhóm đối tượng tham gia BHXH bao gồm các doanh nghiệp và người lao động. Khi tham gia BHXH, doanh nghiệp (người sử dụng lao động) và người lao động đều phải đóng phí BHXH. Vì vậy, để đảm bảo nguồn thu cho quỹ BHXH, các cơ quan BHXH phải nắm chắc được số lượng các đơn vị tham gia BHXH, những di biến động trên từng địa bàn và trong toàn quốc. Đồng thời, cũng phải có được những thông tin đầy đủ về người lao động để xác định được nguồn thu và dự báo được các khoản chi trong tương lai. - Quản lý quỹ BHXH: + Quản lý quỹ BHXH bao gồm quản lý công tác thu BHXH và quản lý công tác chi BHXH, nhằm đảm bảo cho quĩ được an toàn và đảm bảo thu đúng, thu đủ; chi đúng, chi đủ cho đối tượng thụ hưởng BHXH; hạn chế tối đa sự thất thoát quỹ BHXH. + Xây dựng chiến lược tăng trưởng quỹ BHXH thông qua các hoạt động đầu tư. + Tham gia vào thị trường tài chính của quốc gia. Đây là một trong những chức năng quan trọng của cơ quan BHXH. Bởi lẽ các quá trình thu và chi BHXH không diễn ra song trùng và thông thường sự tồn tích của quỹ BHXH rất lớn. Nếu được Nhà nước điều tiết thông qua các chính sách và công cụ tài chính, quỹ BHXH sẽ góp phần rất lớn vào việc ổn định nền tài chính quốc gia. - Thực hiện thanh tra, kiểm tra: Tuỳ theo mô hình của từng nước mà nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra về BHXH có khác nhau. Với những nước trao quyền tự chủ cao cho Hội đồng quản trị BHXH thì trong hệ thống sự nghiệp BHXH chức năng thanh tra, kiểm tra rất quan trọng. Đối với những nước có quản lý Nhà nước về BHXH riêng thì chức năng thanh tra, kiểm tra hoạt động BHXH của các cơ quan quản lý Nhà nước rất lớn. Tuy nhiên, trong hệ thống BHXH vẫn có chức năng thanh tra kiểm tra của mình nhằm đảm bảo các hoạt động BHXH đúng với các quy định của pháp luật. 2. Tổng quan về quỹ bảo hiểm xã hội Khái niệm quỹ bảo hiểm xã hội: Quỹ BHXH là một quỹ tiền tệ tập trung giữ vị trí là khâu tài chính trung gian trong hệ thống tài chính quốc gia. Nó ra đời tồn tại và gắn với mục đích bảo đảm ổn định cuộc sống cho người lao động và gia đình họ khi gặp rủi ro làm giảm hoặc mất thu nhập từ lao động, mà không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời. Như vậy, Quỹ BHXH là quỹ tài chính độc lập, tập trung nằm ngoài Ngân sách Nhà nước. Nguồn hình thành quỹ bảo hiểm xã hội Quỹ BHXH tập trung những đóng góp bằng tiền của những người tham gia BHXH hình thành một quỹ tiền tệ tập trung để chi trả cho những người được hưởng BHXH và gia đình họ khi họ bị giảm hoặc mất thu nhập do bị giảm, mất khả năng lao động hoặc mất việc làm.Như vậy quỹ BHXH là một quỹ tiêu dùng, đồng thời là một quỹ dự phòng; nó vừa mang tính kinh tế vừa mang tính xã hội rất cao và là điều kiện hay cơ sở vật chất quan trọng nhất đảm bảo cho toàn bộ hệ thống BHXH tồn tại và phát triển.Quỹ BHXH hình thành và hoạt động đã tạo khả năng giải quyết những rủi ro của tất cả những người tham gia với tổng dự trữ ít nhất, giúp cho việc giàn trải rủi ro được thực hiện theo cả hai chiều không gian và thời gian, đồng thời giúp giảm thiểu thiệt hại kinh tế cho người sử dụng lao động, tiết kiệm chi cho cả Ngân sách nhà nướcvà ngân sách gia đình.Quỹ được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau: - Thứ nhất, đó là phần đóng góp của người sử dụng lao động, người lao động và Nhà nước, đây là nguồn chiếm tỉ trọng lớn nhất và cơ bản của quỹ. - Thứ hai, là phần tăng thêm do bộ phận nhàn rỗi tương đối của quỹ được tổ chức BHXH chuyên trách đưa vào hoạt động sinh lời. - Thứ ba, là phần nộp phạt của những cá nhân và tổ chức kinh tế vi phạm luật lệ về BHXH. Phần lớn các nước trên thế giới, quỹ BHXH đều được hình thành từ các nguồn nêu trên. Tuy nhiên phương thức đóng góp và mức đóng góp của các bên tham gia có khác nhau. Mục đích sử dụng quỹ BHXH Quỹ BHXH được sử dụng chủ yếu cho hai mực đich sau đây:Chi trả và trợ cấp cho các chế độ BHXH,chi phí cho sự nghiệp quản lý BHXH Theo khuyến nghị của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) quỹ BHXH được sử dụng để trợ cấp cho các đối tượng tham gia BHXH, nhằm ổn định cuộc sống cho bản thân và gia đình họ, khi đối tượng tham gia BHXH gặp rủi ro. Thực chất là trợ cấp cho 9 chế độ mà tổ chức này đã nêu lên trong công ước 102 tháng 6 năm 1952 tại Giơnevơ:Chăm sóc y tế,Trợ cấp ốm đau ,Trợ cấp thất nghiệp ,trợ cấp tuổi già, trợ cấp tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp, trợ cấp gia đình cấp sinh đẻ, trợ cấp khi tàn phế, trợ cấp cho người còn sống ( trợ cấp mất người nuôi dưỡng) .9 chế độ trên hình thành một hệ thống các chế độ BHXH . Tuỳ điều kiện kinh tế xã hội mà mỗi nước tham gia công ước Giơnevơ thực hiện khuyến nghị đó ở mức độ khác nhau, nhưng ít nhất phải thực hiện được ba chế độ. Trong đó, ít nhất phải có một trong năm chế độ: (3), (4), (5), (8), (9). Mỗi chế độ trong hệ thống trên khi xây dựng đều dựa trên những cơ sở kinh tế xã hội tài chính, thu nhập, tiền lương .v.v…Đồng thời tuỳ từng chế độ khi xây dựng còn phải tính đến các yếu tố sinh học; tuổi thọ bình quân của quốc gia, nhu cầu dinh dưỡng; xác suất tử vong…Tuy nhiên, cơ sở để xác định điều kiện hưởng BHXH phải tính đến một loạt các yếu tố liên quan đến toàn bộ hệ thống các chế độ cũng như từng chế độ BHXH cụ thể. Chẳng hạn khi xác định điều kiện hưởng trợ cấp BHXH tuổi già phải dựa vào cơ sở sinh học là tuổi đời và giới tính, của người lao động là chủ yếu. Bởi vì tuổi già để hưởng trợ cấp hưu trí của mỗi giới, mỗi vùng, mỗi quốc gia có những khác biệt nhất định. II. Cơ chế quản lý quỹ BHXH 1. Một số nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và quản lý quỹ BHXH - Tài chính BHXH là một quỹ tồn tại và hoạt động độc lập, cơ chế thu, chi của quỹ phải luôn bảo đảm cân đối, phải bảo toàn và phát triển quỹ để bảo đảm quyền lợi cho người tham gia BHXH. Vì thế, tổ chức quản lý điều hành quỹ BHXH phải được tổ chức độc lập thống nhất trong phạm vi cả nước trên cơ sở pháp luật của Nhà nước đã ban hành và chịu sự kiểm tra, giám sát, quản lý của Nhà nước về chấp hành pháp luật BHXH đối với các bên tham gia BHXH. Tổ chức BHXH Việt Nam có hoạt động độc lập thì mới có điều kiện theo dõi, kiểm tra, giám sát công việc thu, chi của quỹ, tăng cường công tác quản lý quỹ và mới có điều kiện để quản lý, sử dụng vốn nhàn rỗi trong cơ chế thị trường có lợi nhất, không ngừng tinh giảm biên chế gọn nhẹ, giảm chi phí quản lý hành chính, nghiệp vụ hoạt động BHXH. Để bảo vệ quyền lợi cho người lao động, Nhà nước cần phải luật pháp hoá việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, tạo điều kiện tự chủ và tự chịu trách nhiệm của tổ chức BHXH về kết quả đầu tư bảo toàn và phát triển vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH, phù hợp với cơ chế thị trường. Việc quản lý điều hành tăng trưởng quỹ phải đảm bảo nguyên tắc bảo toàn được vốn, không làm vốn bị tổn thất, còn phải làm cho vốn sinh lợi. Việc đầu tư vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải đảm bảo các yêu cầu sau: + Bảo đảm chắc chắn, an toàn tuyệt đối, có khả năng thanh khoản cao. + Phải có lãi. + Phải đáp ứng nhu cầu thanh toán thường xuyên việc chi trả các chế độ BHXH phát sinh. Vì thế, các hình thức đầu tư phải linh hoạt, đa dạng nhưng phải chặt chẽ theo những nguyên tắc và yêu cầu nêu trên. Thực hiện tốt việc đầu tư vốn nhàn rỗi, quỹ BHXH không chỉ có tác dụng bảo toàn và phát triển vốn mà còn bảo đảm quyền lợi cho người lao động trên thực tế. Tổ chức quản lý quỹ đầu tư tăng trưởng vốn nhàn rỗi của quỹ BHXH phải tuân theo nguyên tắc hạch toàn kinh doanh. - Phải bảo đảm quyền lợi của người lao động tương ứng với nghĩa vụ đóng góp của họ. Trong nền kinh tế thị trường, người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng hưởng chế độ BHXH. Song người lao động muốn được hưởng quyền lợi về BHXH thì họ phải có nghĩa vụ đóng góp BHXH theo các phương thức thích hợp (bắt buộc hay tự nguyện, ít chế độ hay nhiều chế độ BHXH...) thường xuyên đều đặn trong những tháng, năm còn tuổi lao động. Quyền lợi được hưởng phải phù hợp với mức đóng góp và thời gian đóng góp BHXH của từng người lao động theo quy định của pháp luật. Vì thế, để tạo nguồn tài chính ổn định cho quỹ BHXH, ngoài sự đóng góp của người lao động, người sử dụng lao động Nhà nước cũng phải đóng góp vào quỹ BHXH. Trong trường hợp Nhà nước thay đổi chính sách kinh tế - xã hội làm mất cân đối quỹ, hoặc do các rủi ro bất khả kháng, Nhà nước phải có trách nhiệm trợ giúp quỹ BHXH để đảm bảo
Luận văn liên quan