Đề tài Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự

Giải quyết vụ án HS là một quá trình phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến quyền con người, quyền tự do của công dân với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Vì vậy pháp luật TTHS quy định quá trình này phải được tiến hành trên cơ sở pháp lí chung, đảm bảo không xét xử oan sai đối với người vô tội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. BLTTHS thể hiện cách xử sự của Nhà nước đối với NBTG, BCBC, họ vẫn có quyền như mọi công dân khác tự do trừ một số quyền tạm thời bị pháp luật TTHS hạn chế hoặc tước bỏ. Khi một công dân trở thành đối tượng bị Nhà nước nghi là thực hiện tội phạm và buộc phải tham gia vào quan hệ TTHS với các cơ quan Nhà nước, đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử người đó có thể bị Nhà nước truy cứu TNHS, bị chịu biện pháp nghiêm khắc nhất là hình phạt, có thể bị tước bỏ nhiều quyền cơ bản của công dân như quyền tự do về thân thể và thậm chí tước bỏ cả quyền sống. Vì vậy pháp luật quy định những người này có quyền biện minh cho bản thân mình nhằm phủ nhận một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của Nhà nước, quyền đó là quyền bào chữa. Quyền bào chữa có thể coi như quyền đối trọng với quyền buộc tội của Nhà nước. Tuy nhiên khi tham gia vào TTHS, chủ thể của quyền bào chữa thường có trạng thái căng thẳng, tự mình không nhận thức được hết những tình tiết có lợi để bào chữa cho mình. Phần đông NBTG, BCBC không có kinh nghiệm hi va chạm, tiếp xúc với cơ quan TTHS, người tiến hành tố tụng NTHTT và hơn nữa pháp luật ngày càng phát triển, càng phức tạp nên không phải ai cũng hiểu hết các quy định của pháp luật mà tự bào chữa cho mình, điều này dẫn tới một nhu cầu khách quan trong xã hội là phải có những người hiểu biết chuyên sâu, có chuyên môn về pháp luật để giúp BCBC bào chữa cho mình – đó chính là những người bào chữa. Và pháp luật TTHS cũng có những quy định hết sức cụ thể, chi tiết về chủ thể này. Khi người bào chữa tham gia vào TTHS thì pháp luật phải quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của họ, những quy định này sẽ tạo thành địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS.

doc18 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Địa vị pháp lý của người bào chữa trong tố tụng hình sự, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I – Khái quát chung về người bào chữa và địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS. 1 - Tại sao lại có quy định về NBC. Giải quyết vụ án HS là một quá trình phức tạp, ảnh hưởng rất lớn đến quyền con người, quyền tự do của công dân với sự tham gia của nhiều cơ quan, tổ chức và cá nhân. Vì vậy pháp luật TTHS quy định quá trình này phải được tiến hành trên cơ sở pháp lí chung, đảm bảo không xét xử oan sai đối với người vô tội, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của công dân. BLTTHS thể hiện cách xử sự của Nhà nước đối với NBTG, BCBC, họ vẫn có quyền như mọi công dân khác tự do trừ một số quyền tạm thời bị pháp luật TTHS hạn chế hoặc tước bỏ. Khi một công dân trở thành đối tượng bị Nhà nước nghi là thực hiện tội phạm và buộc phải tham gia vào quan hệ TTHS với các cơ quan Nhà nước, đang trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử người đó có thể bị Nhà nước truy cứu TNHS, bị chịu biện pháp nghiêm khắc nhất là hình phạt, có thể bị tước bỏ nhiều quyền cơ bản của công dân như quyền tự do về thân thể…và thậm chí tước bỏ cả quyền sống. Vì vậy pháp luật quy định những người này có quyền biện minh cho bản thân mình nhằm phủ nhận một phần hoặc toàn bộ sự buộc tội của Nhà nước, quyền đó là quyền bào chữa. Quyền bào chữa có thể coi như quyền đối trọng với quyền buộc tội của Nhà nước. Tuy nhiên khi tham gia vào TTHS, chủ thể của quyền bào chữa thường có trạng thái căng thẳng, tự mình không nhận thức được hết những tình tiết có lợi để bào chữa cho mình. Phần đông NBTG, BCBC không có kinh nghiệm hi va chạm, tiếp xúc với cơ quan TTHS, người tiến hành tố tụng NTHTT và hơn nữa pháp luật ngày càng phát triển, càng phức tạp nên không phải ai cũng hiểu hết các quy định của pháp luật mà tự bào chữa cho mình, điều này dẫn tới một nhu cầu khách quan trong xã hội là phải có những người hiểu biết chuyên sâu, có chuyên môn về pháp luật để giúp BCBC bào chữa cho mình – đó chính là những người bào chữa. Và pháp luật TTHS cũng có những quy định hết sức cụ thể, chi tiết về chủ thể này. Khi người bào chữa tham gia vào TTHS thì pháp luật phải quy định rõ ràng về quyền và nghĩa vụ của họ, những quy định này sẽ tạo thành địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS. 2 - Khái niệm về người bào chữa trong tố tụng hình sự - Ở hầu hết các nước trên thế giới, hệ thống pháp luật TTHS đều quy định một chế định riêng về người bào chữa. Tuy nhiên ở mỗi quốc gia khác nhau thì sự nhìn nhận khái niệm này cũng không đồng nhất. Pháp luật một số nước quy định chỉ luật sư mới có thể làm người bào chữa. Ví dụ ở Trung Quốc: khi một người bị truy tố và đưa ra xét xử, người đó có quyền tự bào chữa hoặc yêu cầu sự giúp đỡ của luật sư… Mở rộng hơn, pháp luật TTHS Nga quy định chủ thể khác cũng có quyền bào chữa trong TTHS: Theo quyết định của Tòa án bên cạnh luật sư thì một trong số những người họ hàng thân thích của bị can hoặc người khác theo yêu cầu của bị can có thể được chấp nhận là người bào chữa… Mặc dù quan niệm về người bào chữa ở những nước trên thế giới có những điểm khác biệt nhưng nó đều có chung những đặc điểm nổi bật như: người bào chữa là người có kiến thức pháp luật, được BCBC hoặc người được pháp luật cho phép mời để tiến hành hoạt động bào chữa. Hoạt động bào chữa nhằm mục đích bảo về quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tạm giữ, người bị tình nghi, của bị can, bị cáo. Ở Việt Nam đến nay chưa có một định nghĩa thống nhất cũng như không nêu khái niệm thế nào là người bào chữa trong TTHS, nhưng dựa vào khái niệm chung về người bào chữa, về luật sư…ta có thể hiểu: NBC trong TTHS là người tham gia tố tụng để chứng minh sự vô tội hoặc làm giảm nhẹ TNHS của người bị buộc tội về mặt pháp lí nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của họ, thông qua đó góp phần bảo vệ pháp chế XHCN. Hệ thống quy định của BLTTHS năm 2003 chỉ tập trung quy định về chủ thể, quyền và nghĩa vụ, lựa chọn và thay đổi người bào chữa trong TTHS. Theo đó tại điều 56 BLTTHS năm 2003 quy định, người bào chữa có thể là: luật sư, người đại diện hợp pháp của người bị tạm giữ, BCBC; Bào chữa viên nhân dân. 3 - Phân loại người bào chữa. + Luật sư: Muốn trở thành luật sư bào chữa trong TTHS thì phải có đủ điều kiện hành nghề theo quy định của luật luật sư 2006 ( như: công dân VN trung thành với tổ quốc, tuân theo Hiến pháp và pháp luật, có bằng cử nhân luật, được đào tạo nghề luật sư, qua thời gian tập sự, được cấp chứng chỉ hành nghề...), và được NBTG, BCBC hay người đại diện hợp pháp yêu cầu hoặc được CQTHTT chỉ định tham gia tố tụng để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Luật sư tham gia bào chữa trong trường hợp sau: . Theo hợp đồng dịch vụ pháp lí . Theo yeu cầu của CQTHTT + Người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC. BLTTHS không quy định rõ khái niệm “ người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC. Tuy nhiên dựa trên quy định tại BLDS 2005 về người đại diện theo pháp luật thì theo quan điểm này, người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC là cha mẹ hoặc người giám hộ đương nhiên của NBTG, BCBC chưa thành niên hoặc người có nhược điểm về tinh thần hay thể chất. Người giám hộ có thể là giám hộ đương nhiên hoặc giám hộ được cử. + Bào chữa viên nhân dân: Xem xét khoản 2 và khoản 3 điều 57 BLTTHS năm 2003 có thể hiều bào chữa viên nhân dân là người được mặt trận Tổ quốc VN, tổ chức thành viên của mặt trận cử để bào chữa cho NBTG, BCBC là thành viên của tổ chức mình. Bào chữa viên nhân dân tham gia tố tụng trong 2 trường hợp: . Theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng ( khoản 2 điều 57) . Ủy ban mặt trận tổ quốc VN , tổ chức thành viên của mặt trận tự cử bào chữa viên nhân dân tham gia TTHS ( khoản 3 điều 57). Như vậy có thể thấy bào chữa viên nhân dân phải là thành viên của mặt trận tổ quốc VN hoặc tổ chức thành viên của mặt trận, tham gia vào TTHS để bào chữa cho thành viên tổ chức mình . Tóm lại: người bào chữa là người tham gia TTHS với trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Việc tham gia tố tụng của người bào chữa phải do NBTG, BCBC hoặc người đại diện hợp pháp của họ mời, hay đươc CQTHTT yêu cầu Đoàn luật sư phân công văn phòng luật sư hoặc đề nghị Ủy ban mặt trận Tổ quốc Việt nam, tổ chức thành viên mặt trận cử. Người bào chữa có quyền do luật định để làm rõ sự thật vụ án, phát hiện và làm sáng tỏ các tình tiết để chứng minh NBTG, BCBC không có tội, hoặc những tình tiết làm giảm nhẹ TNHS cho họ, đồng thời giúp đỡ NBTG, BCBC về mặt pháp lí đảm bảo cho họ thực hiện những quyền tố tụng theo luật định. Người bào chữa cũng có địa vị pháp lí độc lập, có quyền và nghĩa vụ riêng biệt không phụ thuộc vào quyền và nghĩa vụ của NBTG, BCBC. Người bào chữa tham gia TTHS cũng không có quyền và lợi ích liên quan đến vụ án, mà chỉ nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. - Địa vị pháp lí: của chủ thể theo từ điển luật học: địa vị pháp lí của chủ thể pháp luật thể hiện thành một tổng thể các quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể qua đó xác lập cũng như giới hạn khả năng của cá chủ thể trong các hoạt động của mình. Thông qua địa vị pháp lí có thể phân biệt chủ thể pháp luật này với chủ thể pháp luật khác, đồng thời cũng có thể xem xét vị trí và tầm quan trọng của chủ thể pháp luật trong các mối quan hệ pháp luật. Từ định nghĩa trên có thể hiểu, địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS là tổng thể những quyền và nghĩa vụ mà pháp luật quy định cho họ trong các giai đoạn của tố tụng nhằm thực hiện nhiệm vụ của mình. Túm lai: chế định NBC có vị trí vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền bào chữa của NBTG, BCBC. Cho đến nay, BLTTHS 2003 đã quy định khá đầy đủ về các vấn đề liên quan đến người bào chữa. Toms lại: NBC trong TTHS bao gồm 3 chủ thể chính là: luật sư, người đại diện hợp pháp của NBTG, BCBC, và bào chữa viên nhân dân. Những người này khi tham gia tố tụng để bào chữa cho NBTG, BCBC có các quyền và nghĩa vụ tương ứng theo quy định của pháp luật. Người bào chữa tham gia tố tụng theo yêu cầu của chính thân chủ của họ hoặc do CQTHTT chỉ định. Tuy nhiên sự tham gia của người bào chữa hoàn toàn được phụ thuộc vào ý chí của người được bào chữa là chấp nhận hay từ chối. Trong thực tiễn tố tụng ở VN, chủ thể chủ yếu tham gia tố tụng với vai trò người bào chữa là luật sư. Ý NGHĨA CỦA VIỆC QUY ĐỊNH ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRONG TTHS. a. Ý nghĩa chính trị quy định về địa vị pháp lí của người bào chữa trong TTHS góp phần bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của công dân. Góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa trong sự nghiệp Đôỉ mới đất nước. b- Ý nghĩa xã hội: - thể hiện tính nhân đạo trong TTHS - góp phần nâng cao ý thức pháp luật của người tham gia tố tụng, cũng như quần chúng nhân dân. c- Ý nghĩa pháp lí: - đảm bảo thực hiện các nguyên tắc cơ bản của LTTHS ( nguyên tắc tại điều 11- BLTTHS) - Góp phần xác định sự thật khách quan của vụ án. ( thoogn qua tranh luận) 4- KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT TTHS VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÍ CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA TRƯỚC KHI BAN HÀNH BLTTHS 2003 Lịch sử nước ta đã thừa nhận rất sớm về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa nhưng trong mỗi giai đoạn khác nhau của lịch sử, ở chế độ khác nhau thì có quan điểm khác nhau về địa vị pháp lí của người bào chữa. Trong giai đoạn 1945 – 1954 từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời, nhà nước ta đã ban hành nhiều sắc lệnh quy định về địa vị pháp lý của người bào chữa như: sắc lệnh về việc thành lập Tòa án quân sự; sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 về tổ chức các Tòa án và ngạch thẩm phán; sau đó là sắc lệnh số 21 ngày 14/2/1946 về tổ chức các Tòa án quân sự; Nnghị định 01/ NĐ ngày 02/01/1950 của Bộ tư pháp…Những quy định trên là cơ sở pháp lý đầu tiên quy định về quyền bào chữa, đồng thời chỉ ra được thành phần của người bào chữa. Tuy nhiên do trình độ còn nhiều hạn chế và hoàn cảnh lịch sử của đất nước còn nhiều khó khăn, trong các văn bản pháp lí đã quy định về địa vị pháp lí của người bào chữa tuy chưa đầy đủ nhưng ngày càng được bổ sung hoàn thiện. - Thời kì 1954 – 1988. Với sự ra đời của thông tư số 22 – HCTP ngày 18/12/1957 của Bộ tư pháp và đặc biệt sau khi các bản hiến pháp năm 1959 và 1980 ra đời đã quy định về quyền và nghĩa vụ của người bào chữa khi tham gia tố tụng. Tuy nhiên thời kì này các quy định về NBC còn rất tản mạn, không thống nhất. Và NBC hầu như chỉ tham gia vào TTHS ở giai đoạn xét xử. Đó cũng là một trong những lí do mà quyền của BCBC không được đảm bảo, gây ra nhiều oan sai, vi phạm. Nhu cầu phải có quy định thống nhất về cách thức bảo vệ quyền lợi hợp pháp của BCBC thông qua NBC là hết sức cần thiết. Và đến sau này khi BLTTHS 1988 ra đời đã làm được điều đó. Để đảm bảo giải quyết vụ án được vô tư khách quan toàn diện và chính xác, góp phần bảo vệ quyền lợi của BCBC, BLTTHS 1988 quy định khá cụ thể về địa vị của NBC như: Điều 35 LTTHS đã phân loại cụ thể về người bào chữa ; Điều 36 quy định về quyền và nghĩa vụ của NBC ; Điều 37 đề cập vấn đề lựa chọn và thay đổi NBC. Từ chỗ người bào chữa chỉ có thể tham gia vào vụ án khi kết thúc điều tra, BLTTHS năm 1988 – Bộ luật đầu tiên của nước ta thừa nhận sự tham gia của người bào chữa sớm hơn rất nhiều – từ khi có quyết định khởi tố bị can. Đây là quy định tiến bộ của pháp luật nhằm đảm bảo quyền bào chữa, quyền tranh tụng của NBC. Tuy nhiên, luật TTHS năm 1988 vẫn chưa có khái niệm chính thức và thống nhất về người bào chữa. Đồng thời, những quy định của BLTTHS về phạm vi những người tham gia tố tụng với tư cách người bào chữa còn giới hạn, NBC còn khá bị lệ thuộc vào các quyết định của các cơ quan tư pháp…Để khắc phục được những tồn tại trên, luật TTHS năm 2003 ra đời là cơ sở pháp lý quan trọng để NBC thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. V – NHỮNG QUY ĐỊNH CỦA BLTTHS NĂM 2003 VỀ QUYỀN CỦA NGƯỜI BÀO CHỮA. Bộ luật TTHS năm 2003 quy định NBC tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trong trường hợp bắt người theo quy định tại DD81, 82 BLTTHS 2003 thì NBC tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ. Trong trường hợp cần giữ bí mậtđiều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, thì Viện trưởng VKS quyết định để người bào chữa tham gia tố tụng từ khi kết thúc điều tra. Theo đó NBC có thể tham gia tố tụng vào một trong ba thời điểm: NBC tham gia tố tụng từ khi có quyết định tạm giữ, trong trường hợp bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã ( điều 81), bắt người trong trường hợp khẩn cấp ( điều 82 ) Từ khi kết thúc điều tra trong những trường hợp cần giữ bí mật điều tra đối với tội xâm phạm an ninh quốc gia, theo quyết định của VTVKS Thời điểm tham gia tố tụng của NBC có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động bào chữa của họ trong suốt quá trình giải quyết vụ án. Được tham gia tố tụng càng sớm, NBC càng có điều kiện tìm hiểu về vụ án đó tìm ra những tình tiết chứng cứ có lợi cho thân chủ của mình. Mặt khác, các cơ quan điều tra trong quá trình thực hiện việc bắt, tạm giam,…vẫn còn những thiếu sót làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của NBTG, BCBC. Với sự tham gia của NBC những hoạt động này sẽ được giám sát và như vậy quyền lợi của người được bào chữa sẽ đảm bảo hơn. Quy định về việc NBC có thể tham gia tố tụng ngay từ khi có quyết định tạm giam là 1 bước tiến của BLTTHS 2003 so với BLTTHS 1988. Theo quy định của BLTTHS 1988 NBC chỉ được tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Đây là sự thay đổi mang tính phát triển của BLTTHS 2003, nó tạo điều kiện cho NBC tham gia tiếp xúc với vụ án ngay từ đầu, có được sự chủ động cần thiết trong việc thu thập chứng cứ gỡ tội hoặc những tình tiết có lợi cho NBTG, BCBC, đồng thời nó cũng tránh được sự lạm quyền từ phía cơ quan điều tra. BLTTHS 2003 dành khoản 2 điều 58 để quy định về quyền của NBC trong TTHS: - Quyền có mặt khi lấy lời khai của NBTG, khi hỏi cung BC và nếu điều tra viên đồng ý thì được hỏi NBTG, BCBC và người cosd mặt ở những hoạt động điều tra khác, xem các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và các quyết định tố tụng liên quan đến người mình bào chữa. Đây là quy định mở rộng sự tham gia của người bào chữa trong các hoạt động điều tra. Việc tham gia này của người bào chữa trong hoạt động hỏi cung có ý nghĩa trợ giúp ban đầu đối với NBTG, BCBC. Sự có mặt của người bào chữa khi lấy lời khai, khi hỏi cung giúp cho NBTG, BCBC được ổn định về mặt tâm lí hơn khi trả lời những câu hỏi của ĐTV. Điều này sẽ giúp tình trạng hạn chế tình trạng do quá sợ hãi hoặc thiếu hiểu biết, NBTG, BCBC sẽ khai không đúng thực tế vụ án. Sau đó chính những lời khai này có thể trở thành chứng cớ buộc tội đối với NBTG, BCBC. Ngoài ra với sự hiểu biết pháp luật của mình, NBC có thể giúp NBTG, BCBC nhìn ra điểm sơ hở thiếu chặt chẽ trong lời khai, giúp NBTG, BCBC khai lại đúng với sự thật vụ án. Sự tham gia của NBC ngay trong hoạt động lấy lời khai, hỏi cung còn đảm bảo cho những hoạt động này được tiến hành đầy đủ, tuân thủ pháp luật hơn. Tham gia hoạt động điều tra có thể giúp cho NBC có cái nhìn tổng quát về vụ án , đồng thời nắm rõ các tình tiết chứng cứ để từ đó đưa ra lời bào chữa thích hợp và hiệu quả cho NBTG, bị can trong những giai đoạn tố tụng tiếp theo. NBC còn có thể hỏi NBTG, BCBC nếu được sự đồng ý của ĐTV. Đây là quy định thể hiện sự công bằng của pháp luật. Trong biên bản hỏi cung không chỉ có những tình tiết mang tính buộc tội mà những câu hỏi của người bào chữa cũng có thể dẫn đến những luận cứ cho thấy NBTG, BCBC không có tội hoặc giảm nhẹ TNHS. Tuy nhiên điều này chỉ được thực hiện khi có sự đồng ý của ĐTV, phụ thuộc vào ý chí của ĐTV, vì vậy có thể dẫn tới tình trạng NBC không được thực hiện quyền này. NBC cũng có quyền tham gia các hoạt động điều tra khác như: hoạt động đối chất, nhận dạng, hoạt động khám nghiệm, thực nghiệm hiện trường, khám xét, thu giữ tài sản…Ngoài ra trong quá trình xem xét các biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình và có liên quan tới người mà mình bào chữa, nếu nhận thấy hành vi tố tụng của ĐTV không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc biên bản có những yếu tố vi phạm pháp luật, NBC có thể khiếu nại lên cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Quyền đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch. Với mục đích đảm bảo sự công bằng, khách quan của quá trình giải quyết vụ án, BLTTHS 2003 quy định những trường hợp phải từ chối hoặc thay đổi người tiến hành tố tụng, hoặc người tham gia tố tụng khác nếu có dấu hiệu cho thấy họ không vô tư, khách quan. Một trong những chủ thể có quyền yêu cầu thay đổi người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng khác là NBC. Đối với người tiên hành tố tụng, những căn cứ này quy định tại điều 42 BLTTHS 2003. Theo đó người tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi nếu: + điều 42 Đối với người giám định, họ phải từ chối tham gia tố tụng hoặc bị thay đổi nếu thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 4 điều 60 BLTTHS 2003 Dẫn chứng…. Ngoài ra, nếu người giám định không đủ khả năng chuyên môn để đáp ứng yêu cầu giám định họ cũng có thể bị thay đổi. Đây cũng là những căn cứ để thay đổi người phiên dịch quy định tại điều 61 BLTTHS 2003. Quyền thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa từ NBTG, BCBC, người thân thích của những người này hoặc từ cơ quan, tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của NBTG, BCBC nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác. Khi thực hiện nhiệm vụ bào chữa cho NBTG, BCBC thì NBC phải căn cứ vào các chứng cứ, tình tiết có liên quan vụ án, các tài liệu thu thập được từ phía cơ quan điều tra. Tuy nhiên nếu chỉ dựa vào những chứng cứ tài liệu do cơ quan điều tra thu thập được, NBC có thể sẽ không nắm bắt được tình tiết có lợi cho NBTG,BCBC hoặc sẽ có cái nhìn về vụ án theo hướng kết luận của cơ quan điều tra. Vì vậy pháp luật cho phép NBC được tự mình thu thập tài liệu, đồ vật, tình tiết liên quan đến việc bào chữa, nếu không thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác… Đến nay chưa có quy định nào khác của BLTTHS 2003 hoặc văn bản hướng dẫn về thế nào là bí mật điều tra. NBC nào làm trái pháp luật thì tùy theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị thu hồi giấy chứng nhận bào chữa, xử lí kỉ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu TNHS, nếu gây thiệt hại phải bồi thường theo quy định của pháp luật. Nghĩa vụ của NBC trong TTHS đã được pháp luật quy định một cách khá toàn diện và hợp lí. Việc thực hiện tốt các nghĩa vụ này sẽ giúp cho người bào chữa tỏ rõ vai trò, nâng cao địa vị pháp lí của mình trong TTHS. V - THỰC TRẠNG VÀ KIẾN NGHỊ 1 – Thực trạng. Từ khi BLTTHS 2003 có hiệu lực áp dụng trong, những quy định mới của bộ luật về NBC đã ít nhiều có hiệu quả trên thực tế. NBC đã có cơ sở pháp lí để thực hiện các hoạt động nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của thân chủ mình một cách hợp pháp. Tuy nhiên trên thực tế việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của NBC còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần khắc phục. Thực tế về tỉ lệ NBC tham gia TTHS ở VN hiện nay. Ở Việt Nam hiện nay, NBC tham gia TTHS chủ yếu là luật sư. Sự tham gia của người đại diện hợp pháp là rất ít và đặc biệt rất hiếm đối với bào chữa viên nhân dân. Tuy nhiên tỷ lệ luật sư tham gia TTHS với tư cách NBC cũng còn rất ít so với số dân ( trung bình 1 luật sư/16.000 dân), và đội ngũ luật sư cũng không đồng đều giữa các tỉnh, thành phố; giữa đồng bằng và miền núi; chất lượng luật sư còn yếu kém, chưa được đào tạo một cách bài bản; người dân chưa nhận thấy được vai trò quan trọng của NBC… b. Thực trạng việc thực hiện những quy định về thủ tục tham gia của luật sư vào quá trình giải quyết vụ án hình sự. Việc cấp giấy chứng nhận bào chữa còn nhiều bất cập. Nhiều nơi CQTHTT áp dụng luật máy móc, cố tình “làm khó” NBC, đòi hỏi nhiều loại giấy tờ không hợp lý làm cho họ rơi vào vòng luẩn quẩn trong việc xin giấy chứng nhận bào chữa, mất thời gian cũng như công sức, ảnh hưởng đến công việc bào chữa. Luật quy định thời hạn cấp hoặc trả lời từ chối không cấp giấy chứng nhận bào chữa là 3 ngày kể từ ngày nhận được đơn đề nghị nhưng thực tế thì NBC không bao giờ nhận được giấy chứng nhận bào chữa đúng thời hạn, có trường hợp kéo dài đến 1 năm. Liệu đây có phải là 1 công cụ để CQTHTT hạn chế luật sư tham gia tố tụng. Ví dụ: Trong vụ án tiêu cực việc phân bổ dệt may ở Bộ Thương mại, tròn một năm sau khi làm thủ tục