Đề tài Diện mạo kinh tế - Xã hội đàng trong

Ngay từ khi chiến tranh Nam Bắc Triều còn đang tiếp diễn thì nội bộ Nam triều đã nảy sinh mầm mống của sự chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế chỉ huy mọi việc. Để giữ vững quyền hành của mình Trịnh Kiểm tìm cách loại trừ phê cánh của Nguyễn Kim mà trước hết là con trai của ông. Người con đầu là Nguyễn Uông bị ám hại, người con thứ là Nguyễn Hoàng lo lắng tìm cách thoát khỏi mối đe dọa đó. Được sự gợi ý của trạng nguyên Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Hoàng nhờ chị (vợ của Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Bấy giờ ở xứ Thuận Hóa mới dẹp yên, tuy nhà Lê đã đặt tam ti (Đô ti, Thừa ti, Hiến ti) và phủ huyện để cai trị nhưng nhân dân vẫn chưa một lòng. Mặt khác, Kiểm thấy vùng đất ở đó hiểm nghèo, xa xôi cho ngay cho Nguyễn Hoàng. Anh Tông lên ngôi Trịnh Kiểm dâng biểu nói: “Thuận Hóa là nơi quan trọng, quân và của do đó mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, vì không được tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong. Đoạn quân công là con nhà tướng, có tài trí mưu lược có thể sai đi trấn ở đấy để cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo đến miền Nam”. Vua Lê nghe theo và trao Nguyễn Hoàng trấn tiết, phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi. . . Nguyễn Hoàng đã thành công với nước cờ thí này (lúc ấy là năm 1558).

docx69 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 2197 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Diện mạo kinh tế - Xã hội đàng trong, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM KHOA LỊCH SỬ –&— Bài tập thực hành học phần: Một số vấn đề về chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn Tên đề tài: DiỆn mẠo kinh tẾ-xã hỘi Đàng Trong GVHD: TS. Trần Thị Thanh Thanh SVTH: Nhóm 3-Sử 3A Tp. Hồ Chí Minh, ngày 20/10/2012 Mục lục Sự thiết lập chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong : Ngay từ khi chiến tranh Nam Bắc Triều còn đang tiếp diễn thì nội bộ Nam triều đã nảy sinh mầm mống của sự chia rẽ. Năm 1545, sau khi Nguyễn Kim bị mưu sát, Trịnh Kiểm được vua Lê đưa lên thay thế chỉ huy mọi việc. Để giữ vững quyền hành của mình Trịnh Kiểm tìm cách loại trừ phê cánh của Nguyễn Kim mà trước hết là con trai của ông. Người con đầu là Nguyễn Uông bị ám hại, người con thứ là Nguyễn Hoàng lo lắng tìm cách thoát khỏi mối đe dọa đó. Được sự gợi ý của trạng nguyên Nguyễn Bĩnh Khiêm, Nguyễn Hoàng nhờ chị (vợ của Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn đất Thuận Hóa. Bấy giờ ở xứ Thuận Hóa mới dẹp yên, tuy nhà Lê đã đặt tam ti (Đô ti, Thừa ti, Hiến ti) và phủ huyện để cai trị nhưng nhân dân vẫn chưa một lòng. Mặt khác, Kiểm thấy vùng đất ở đó hiểm nghèo, xa xôi cho ngay cho Nguyễn Hoàng. Anh Tông lên ngôi Trịnh Kiểm dâng biểu nói: “Thuận Hóa là nơi quan trọng, quân và của do đó mà ra, buổi quốc sơ nhờ đấy mà nên nghiệp lớn. Nay lòng dân hãy còn tráo trở, nhiều kẻ vượt biển đi theo họ Mạc, sợ có kẻ dẫn giặc về cướp, vì không được tướng tài trấn thủ vỗ yên thì không thể xong. Đoạn quân công là con nhà tướng, có tài trí mưu lược có thể sai đi trấn ở đấy để cùng với tướng trấn thủ Quảng Nam cùng nhau giúp sức thì mới đỡ lo đến miền Nam”. Vua Lê nghe theo và trao Nguyễn Hoàng trấn tiết, phàm mọi việc đều ủy thác cả, chỉ mỗi năm nộp thuế mà thôi. . . Nguyễn Hoàng đã thành công với nước cờ thí này (lúc ấy là năm 1558). Theo Li Tana nhận định rằng: “Trịnh Kiểm chỉ có ý tống khứ một địch thủ, nhưng Trịnh Kiểm đã đi sai nước cờ. Và thay vì tống khứ ông đã cho không Nguyễn Hoàng một vương quốc” Thuận Hóa (vùng đất từ phía Nam đèo Ngang đến đèo Hải Vân) vốn là đất cũ của Champa, tuy đã được sáp nhập vào Đại Việt từ lâu nhưng đến lúc này dân cư vẫn thưa thớt, kinh tế thì kém phát triển. Tháng 11 năm 1558, Nguyễn Hoàng đem theo nhiều anh em, bà con người Tống Sơn (Thanh Hóa) và cùng các quan lại cũ của Nguyễn kim; các “nghĩa dũng” Thanh - Nghệ vào trấn thủ Thuận Hóa. Năm 1570, khi quân Mạc tấn công vào vùng Thanh – Nghệ, chúa Trịnh phải triệu trấn thủ Quảng Nam về bảo vệ Nghệ An và giao cho Nguyễn Hoàng cai quản đất Quảng Nam (vùng đất từ đèo Hải Vân đến đèo Cù Mông). Họ Nguyễn vừa lo phát triển kinh tế, vừa lo củng cố quyền thống trị để thoát ly dần sự lệ thuộc và trở thành một lực lượng đối địch với họ Trịnh. Dần dần khu vực Thuận – Quảng trở thành vùng đất của tập đoàn phong kiến họ Nguyễn. Sau khi đã ổn định tình hình ở xứ Thuận – Quảng, năm 1593 Nguyễn Hoàng đêm quân ra Thăng Long giúp Trịnh Tùng trấn áp các tàn quân của nhà Mạc và sau đó đến năm 1600 vượt biển trở về Thuận Hóa. Năm 1613, trước khi chết Nguyễn Hoàng dặn lại con là Nguyễn Phúc Nguyên cố gắng bảo vệ dòng họ của mình: “Đất Thuận – Quảng phía Bắc có Hoành Sơn và Linh Giang, phía Nam có núi Hải Vân và Thạch Bi, địa thế hiểm cố, thật là một nơi để cho người anh hùng dụng võ. Nếu biết dạy bảo nhân dân, luyện tập binh sĩ kháng cự lại họ Trịnh thì gây dựng được cơ nghiệp muôn đời”. Sau khi lên kế nghiệp, Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức lại chính quyền, tách khỏi sự phụ thuôc họ Trịnh, chỉ nộp phú thuế theo lệ. Năm 1620, họ Trịnh đem quân vào, Phúc Nguyên không chịu nộp thuế nữa. Năm 1627, lấy cớ đó họ Trịnh đem quân vào đánh Thuận Hóa. Cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bắt đầu. Trong gần nửa thế kỉ, hai bên đánh nhau 7 lần vào các năm 1627; 1630; 1643; 1648; 1655 – 1660; 1661 và 1672, trong đó có một lần quân Nguyễn vào sông Gianh tiến đánh quân Trịnh chiếm vùng đất ở phía nam sông Lam (Nghệ An) mấy năm rồi rút về. Từ nam Nghệ An đến bắc Quảng Bình (địa phận sông Gianh và sông Nhật Lệ) trở thành chiến trường. Sau 7 lần đánh nhau dữ dội mà không có kết quả, quân sĩ hao tốn, chán nản, nhân dân khổ cực, hai họ Trịnh – Nguyễn đành phải ngừng chiến, lấy sông Gianh làm giới hạn chia cắt Đàng Ngoài, Đàng Trong. Diễn ra đồng thời với cuôc chiến tranh Trịnh – Nguyễn là quá trình mở rộng lãnh thổ và thiết lập chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong. Trong những thập kỉ đầu và giữa thế kỉ XVII, cùng với các nhóm cư dân người Việt thì một số người Trung Quốc cũng đến khai khẩn đất hoang và sinh sống làm ăn ở vùng đất Nam Bộ. Nhân việc nhà Thanh thay thế nhà Minh ở Trung Quốc, một số quan lại và quân lính trung thành với triều đình nhà Minh không chấp nhận sự thống trị của nhà Thanh đã vượt biển đến Đàng Trong tìm đất sinh sống và thúc đẩy nhanh hơn quá trình khai phá của chúa Nguyễn. Để thu hút nhiều người đến Thuận Hóa làm ăn sinh sống, chúa Nguyễn đã thi hành chính sách khuyến khích đặc biệt đối việc khai phá đất hoang, cho phép người dân biến ruộng đất khai hoang được thành sở hữu tư nhân. Đồng thời, chúa Nguyễn còn thi hành một chế độ khoan hòa, khuyến khích sản xuất, người mới đến không phải trả thuế trong 3 năm đầu định cư. Vì vậy, làn sóng tự phát di cư vào Nam tìm đất sinh sống của đông đảo những người nông dân Thuận - Quảng, chúa Nguyễn đã cho lập thành các xã, thôn, phường, ấp của người Việt. Chúa Nguyễn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho những địa chủ giàu có ở Thuận - Quảng đem tôi tớ và chiêu mộ nông dân lưu vong vào đây khai hoang lập ấp. Bảo vệ dân chúng khẩn hoang và xác lập chủ quyền là hai quá trình được các chúa Nguyễn tiến hành song song đồng thời. Trong đó xác lập chủ quyền là để bảo vệ tính hợp pháp của công cuộc khẩn hoang và thành quả của công việc khẩn hoang chính là cơ sở để xác lập chủ quyền một cách thật sự. Từ thế kỉ thứ XVII đến thế kỉ thứ XVIII, toàn bộ khu vực phía Nam đến tận Đồng Bằng Sông Cửu Long đã hoàn toàn thuộc quyền cai quản của chúa Nguyễn và nhanh chóng trở thành vùng phát triển kinh tế - xã hội năng động. Đây là thành quả lao động cần cù và sáng tạo của tất cả các cộng đồng dân cư trong guồng máy phát triển chung của đất nước, trong đó vai trò của các cư dân người Việt, người Khmer, người Chăm va người Hoa là rất nổi bật. Năm 1774, chúa Nguyễn đã chia vùng đất từ nam dãy Hoành Sơn đến Cà Mau làm 12 đon vị hành chính gọi là dinh. Vùng đất Thuận – Quảng cũ gồm 6 dinh: Bố Chính, Quảng Bình, Lưu Đồn, Cựu Dinh (hay Chính Dinh cũ), Chính Dinh, Quảng Nam. Vùng đất mới chia làm 6 dinh: Phú Yên, Bình Khang, Bình Thuận, Trấn Biên, Phiên Trấn, Long Hồ ( Vĩnh Long). Ngoài ra, còn có một trấn phụ thuộc là Hà Tiên. Mỗi dinh quản hạt một phủ, dưới phủ có huyện, tổng hay xã. Riêng dinh Quảng Nam có 3 phủ: Thăng Hoa, Quảng Ngãi, Quy Nhơn. Thủ phủ ban đầu đóng ở xã Ái Tử thuộc Cựu Dinh, năm 1570 dời vào xã Trà Bát (Triệu Phong – Quảng Trị), năm 1626, dời vào xã Phước Yên sau đó dời sang Kim Long (đều thuộc Thừa Thiên), cuối cùng vào khoảng năm 1687 dời về Phú Xuân (Huế). Năm 1614, Nguyễn Phúc Nguyên lên thay Nguyễn Hoàng đã quyết định thải hồi các quan lại do nhà Lê cử, cải tổ lại bộ máy chính quyền. Dưới các dinh đều có những ti. Năm 1646, chúa Phúc Lan bắt đầu mở khoa thi, hai cấp Chính đồ (cấp cao) và Hoa văn (cấp thấp),về sau nhiều kì thi được mở tiếp. Song sang thế kỉ XVIII, chế độ mua quan bán tước bắt đầu phát triển. Quan lại không được cấp bổng lộc nhất định mà chỉ được ban một số dân phu hoặc được phép thu thêm một số tiền gạo ngoài thuế của dân. Quân đội thời chúa Nguyễn gồm 3 loại: Quân Túc vệ hay Thân quân, quân chính quy ở các dinh và thổ binh hay tạm binh. Các loại quân đều chia thành cơ, đội, thuyền. Các chúa Nguyễn đã bố trí lực lượng quân sự thiết lập các đồn thủ “nơi xung yếu” để chống giặc, giữ dân, bảo vệ chủ quyền,…Quân đội thời chúa Nguyễn gồm bộ binh, thủy binh, tượng binh và pháo binh. Đầu thế kỉ XVII, người Đàng Trong học được cách đúc súng, các thuyền lớn đều có 5 khẩu đại bác. Chúa Nguyễn cũng thường tổ chức các hội thi bắn súng, huấn luyện thủy quân. Như vậy, từ sau khi Nguyễn Hoàng từ bỏ đất Bắc đi vào vùng đất Thuận - Quảng, họ Nguyễn dần dần phát triển xuống phía Nam, xây dựng vùng đất Đàng Trong thành một lãnh địa riêng có quyền độc lập mặc dầu cho đến trước năm 1744 vẫn giữ tước vị Quốc công, dùng niên hiệu của vua Lê. Nhưng nhân dân luôn luôn xem vùng đất Thuận – Quảng là Đàng Trong của Đại Việt xưa kia. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN ĐÀNG TRONG Năm 1558 Nguyễn Hoàng xin vào trấn đất Thuận Hóa và lập nên căn cứ của mình tại phương Nam, mở rộng biên giới của mình xuống phía nam, tới tận đồng bằng sông Cửu Long. Địa hình Vùng đất này bao gồm một dải đất dài và hẹp, nằm giữa núi ở phía tây và biển ở phía đông. Địa hình của vùng đất này có đặc điểm : vùng núi là dãy Trường Sơn phủ đầy rừng rậm, chạy dài, ở phía Bắc thường hẹp và gồ ghề, càng xuống phía nam càng thấp dần, có chiều mở rộng tạo thành cao nguyên, thường được gọi là Tây Nguyên hay Cao Nguyên Trung phần, có diện tích khoảng 20.000 dặm vuông (100 dặm chiều rộng và 200 dặm chiều dài). Vùng cao nguyên này thường được dùng làm nơi trú ẩn. ngoài ra còn có các dãy núi bị nhiều con sông nước chảy mạnh và mũi núi cắt ngang làm thành một khu vực nhỏ và hẹp, ít gắn kết với nhau về mặt địa lý. Địa hình bị chia cắt mạnh, các dãy núi đâm ngang ra biển hình thành nên các vũng vịnh tạo điều kiện xây dựng các hải cảng. Đây cũng là một trong những điều kiện để Đàng Trong phát triển về mặt kimh tế đặc biệt là ngoại thương. Vùng đồng bằng rộng lớn, chỉ tính riêng đồng bằng sông Cửu Long đã gấp hơn hai lần đồng bằng sông Hồng ở Đàng Ngoài, ngược lại , dải đồng bằng ven biển từ Đà Nẵng – Quảng Nam trở vào lại nhỏ hẹp và bị chia cắt bởi các đồi núi, vũng vịnh và đầm phá. Có ba đồng bằng lớn là: Quảng Nam : đây là một vùng đồng bằng phì nhiêu, có diện tích khoảng 1.800 cây số vuông. Nước do sông Thu Bồn và nhiều nhánh của con sông này cung cấp. Bình Định: đây là vùng đồng bằng trù phú, có tổng diện tích là 1.550 cây số vuông, có hai dãy núi khác nhau bao quanh. Hai thung lũng của vùng đất này sử dụng nước của hai con sông Đà Rằng và Lai Giang. Đồng bằng sông Cửu Long: địa hình bề mặt châu thổ với nhiều bồn trũng rộng lớn trong nội địa và hang loạt các cồn cát duyên hải. Bề mặt đồng bằng sông Cửu Long còn được phù sa mùa lũ bồi đắp hàng năm. Đồng bằng sông Cửu Long được phủ lên một mạng lưới sông ngòi và kênh đào dày đặc, chằng chịt. gồm hai hệ thống sông chính là sông Cửu Long , phần hạ lưu sông chảy vào địa phận Nam Bộ dài 250km và hệ thống sông Đồng Nai dài 580km. Khí Hậu Đèo Hải Vân nằm giữa Huế và Đà Nẵng tạo thành một làn ranh khí hậu : phía bắc là vùng khí hậu pha trộn với nhiệt đới và cận nhiệt đới, có mùa đông kéo dài từ 3 đến 4 tháng rất lạnh. Mùa hè rất nóng, tuy nhiên ở vùng núi khí hậu mát mẻ và mưa nhiều hơn. Phía Nam: nền nhiệt độ cao quanh năm, có hai mùa rõ rệt, mùa mưa với lượng mưa lớn có thể gây nên lũ lụt, mùa khô kéo dài và dễ bị hạn hán đe dọa. Sông Ngòi Hệ thống sông ngòi Đàng Trong dày đặc nên ít hạn hán hơn Đàng Ngoài. Mạng lưới sông ngòi có quan hệ chặt chẽ với địa hình, tại những nơi sườn đông hẹp và dốc các sông ven biển là những cuồng lưu sông nhỏ. Còn các cao nguyên xếp tầng , dòng sông có những đoạn êm đềm và những đoạn chảy xiết với những thác nước rất hùng vĩ. Sông ngòi có hai mùa là : Mùa cạn từ tháng 3 đến tháng 8, mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 12. Thổ Nhưỡng Đất phù sa được bồi đắp bởi các con sông thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp đặc biệt là trồng lúa nước. Các loại đất như: đất cát ven biển có độ màu mỡ thấp, khả năng giữ nước và chất dinh dưỡng đều rất kém do đó không thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Đất phù sa sông Cửu Long có độ phì nhiêu khá nhưng phải cải tạo đất phèn, đất mặn… Đất đỏ bazan tập trung ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ Ngoài ra còn có các loại đất khác như: đất xám. đất phù sa cổ, đất phù xa mới… Tóm lại: điều kiện tự nhiên ở vùng ở vùng đồng bằng và ven biển phía đông thuận lợi cho sự phát triển nông nghiệp và ngoại thương do có đường bờ biển dài và nhiều cảng nước sâu, thuận lợi cho việc giao lưu buôn bán với nước ngoài. Tuy nhiên cũng phải đối phó với thiên tai( lũ, lụt, bão…), mất mùa thường xuyên Vùng núi tuy đi lại khó khăn, địa hình hiểm trở , do khai thác theo kiểu làm rẫy, năng suất không cao nhưng luôn luôn được mùa. Kinh tế-xã hội Kinh tế Nông nghiệp. Là vùng đất ở xa mới khai phá việc quản lí của nước lỏng lẻo, người nông dân có điều kiền phát huy hết sức lao động, nâng cao năng suất sản xuất. Ruộng đất ở Thuận Quảng khá nhỏ hẹp so với Bắc Hà. Ruộng đất công Đàng Trong chia làm “quân điền trang” và “quân đồn điền” thuộc quyền quản lý của chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn cấp ruộng này cho người thân thích và công thần. Người thân thích nhà chúa được 10 mẫu, chưởng cơ 5 mẫu, cai cơ 4 mẫu, cai đội 3 mẫu. Ruộng đất ở các xã được phân chia theo lệ làng. Sang thế kỷ 18, mỗi xã dân được chia 5-6 sào ruộng, binh lính thì được khẩu phần gấp 3 lần. Ruộng đất tư được gọi là bản bức tư điền. Các chúa Nguyễn có chính sách kích thích sự phát triển ruộng tư: các đầm, đất thổ nhưỡng chiêm trũng, vùng nhiễm mặn, rừng rú đều được cải tạo thành các làng xã mới. Ruộng đất tư ở vùng Thuận Quảng phân tán, chủ yếu là loại vừa và nhỏ. Chính sách cho phép các nhà giàu mộ dân phiêu tán vào nam khai phá đất mới đã tạo điều kiện hình thành bộ phận tư hữu ruộng đất. Đồng thời, việc kiêm tính ruộng đất cũng xảy ra ở vùng Nam Bộ mới hình thành, tạo ra các địa chủ lớn, có ruộng đất hàng ngàn mẫu. Thời kỳ đầu, các chúa Nguyễn chưa nắm được số ruộng đất, thuế khóa còn nhẹ nên đời sống nông dân khá cao. Từ năm 1669, Nguyễn Phúc Tần bắt đầu ban hành phép thu thuế. Phép thu thuế của Đàng Trong không phải quá nặng, nhưng các quan lại coi việc thu quá nhiều, hay phiền nhiễu nhân dân, truy xét rà soát nhiều và tham nhũng khiến nhân dân bị bóc lột nặng nề. Từ đầu thế kỷ 17, Nam Bộ còn là vùng đất hoang vu. Từ khi khai phá vùng này, các chúa Nguyễn có chính sách quan tâm đến nông nghiệp. Hàng loạt con sông và kênh được đào vét ở Thuận Quảng, điển hình như kênh Trung Đan và Mai Xá. Sang thế kỷ 18, những vùng đất hoang vu ở Nam Bộ đã trở thành ruộng phì nhiêu, ruộng tốt bậc nhất Đại Việt. Nghề nông Đàng Trong đã tạo ra 26 giống lúa nếp và 23 giống lúa tẻ. Ngoài ra, nông dân còn trồng khoai, ngô, hạt bo bo (tức ý dĩ), vừng (gọi là mè) và các cây ăn quả gồm mãng cầu (na), mít, xoài, chuối; các loại rau. Mỗi vùng đều có đặc sản riêng như bí, dưa bở ở Bà Rịa, khoai lang và ngô ở Biên Hòa, lạc ở Gia Định, xoài ở Bình Định, hồ tiêu ở Hà Tiên, mía ở Bình Thuận và Quảng Nam, măng cụt ở Vĩnh Long và Biên Hòa, dâu ở Thuận Hóa, Quảng Nam, bông ở Quảng Ngãi, quế ở Quy Nhơn, Thăng Hoa, Điện Bàn. Chế độ thuế khóa Từ năm 1558, khi mới vào cai quản Thuận-Quảng, Nguyễn Hoàng chưa định ngạch thuế khóa cho ruộng đất nông nghiệp. Khi đến mùa gặt, ông thường sai người chiếu theo số ruộng đất để thu thuế. Năm 1586, Trịnh Tùng nhân danh Lê Thế Tông sai Nguyễn Tạo vào thu thuế Thuận Quảng, nhưng không đi trực tiếp mà cho các phủ huyện tự làm sổ rồi mang về. Từ năm 1600, Nguyễn Hoàng bắt đầu ly khai họ Trịnh, trực tiếp quản lý việc thu thuế đất này. Năm 1618, ông sai người đo đạc ruộng công của các xã để thu thuế. Năm 1669, Nguyễn Phúc Tần theo đề nghị của Vũ Phỉ Thừa, sai Hồ Quảng Đại đi đo đạc ruộng đất ở các huyện, định ra 3 bậc và chia các hạng ruộng để thu thuế thóc. Ruộng công, ruộng tư đều được chia làm 3 hạng, đánh thuế ngang nhau: Nhất đẳng nộp 40 thăng thóc 8 hợp gạo Nhị đẳng nộp 30 thăng thóc 6 hợp gạo Tam đẳng nộp 20 thăng thóc 4 hộp gạo Ruộng mùa thu và đất khô thì không chia hạng, mỗi mẫu nộp 3 tiền. Ngoài ra, người nông dân cày ruộng công phải nộp các loại: phiến cót, tiền cung đốn, tiền nộp thóc vào kho, tiền bao mây, tiền trình diện. Quan điền trang và quan đồn điền thì có lệ thế riêng (khoảng 205 thăng/mẫu) Ruộng ở vùng cực nam được thu theo thửa hoặc từ 4-10 hộc, hoặc từ 2-4 hộc (mỗi hộc = 70-75 thăng) Ngoài tô chính, người nông dân còn phải nộp gạo đầu mẫu, tiền phụ trình diện, tiền cót tre (cứ 1000 thăng thóc nộp 5 tấm cót hay 2 tiền) Thuế nhân đinh gồm 4 loại : sai dư, cước mễ, thường tân, tiết liệu với mức khá nặng: Tráng hạng: 3 quan 3 tiền Dân hạng: 1 quan 9 tiền Lão hạng: 2 quan 1 tiền Bất cụ: 1 quang 5 tiền 30 đồng. Các chức sắc, con cháu quan viên đều phải nộp. Ở nhiều nơi, mức thuế còn lên đến 4-5 quan. Nghĩa vụ binh dịch rất nặng nề. Ngoài ra người dân còn bị bắt làm phu canh gác, quét dọn cho các quan. Các quan chức địa phương hàng năm phải nộp cho chúa nhiều loại tiền: lĩnh bằng, nhận ấn, lễ mừng sinh nhật, dỗ tết…để có tiền làm các việc đó, quan lại phải lấy thêm ở người dân. Tuy nhiên, do những điều kiện đặc biệt của Đàng Trong, nhân dân nghèo đói đi lưu vong có thể tìm đến các vùng đất hoang, khai khẩn, lập nghiệp và sống một cuộc đời ít nhiều tự do, mặc dù không phải lúc nào cũng thuận lợi tốt đẹp. Mâu thuẫn xã hội tạm thời được giải quyết và đó là lí do làm cho cuộc khủng hoảng xã hội ở Đàng Trong đến muộn hơn Đàng Ngoài. Sự phát triển của nông nghiệp ở Đàng Trong, do những điều kiện đặc biệt của nó, đã có tác dụng duy trì lâu dài sự tồn tại của những quan hệ sản xuất phong kiến và cũng là cơ sở cho sự yên ổn tương đối của xã hội Đàng Trong, của chính quyền phong kiến ở Đàng Trong. Những điều kiện đặc biệt về mặt khai thác đất đai cũng tạo ra một cơ sở khá bền vững về lực lượng địa chủ cho tập đoàn thống trị Nguyễn và đó là một trong những nhân tố giải thích sự chuyển biến của lịch sử nước ta cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX. Thủ công nghiệp a/ Thủ công nghiệp nhà nước Các chúa Nguyễn lập nhiều xưởng đóng thuyền ở các nơi, đặt Nhà đồ chuyên chế tạo vũ khí, làm đồ trang sức, đồ gỗ phục vụ chúa, đặt ti Nội pháo tượng lấy dân hai xã Phan Xá và Hoàng Giang lành nghề đúc súng vào làm (vừa đúc đại bác vừa đúc súng tây). Các xưởng thủ công nhà nước đã làm được nhiều sản phẩm có chất lượng cao, nhiều loại vũ khí, thuyền lớn nhưng sử dụng chế độ công tượng, bắt thợ khéo trong nhân dân làm công tượng suốt đời. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển sáng tạo chung của thợ thủ công. b/ Thủ công nghiệp nhân dân: Hoàn cảnh mới của đất nước đã làm tăng nhu cầu về hàng thủ công. Khắp các làng xã, đâu đâu cũng hình thành những nghề thủ công, những thợ thủ công chuyên các nghề rèn, mộc, dệt vải lụa, kéo tơ, tô tượng, làm đá, làm gốm, làm đồ trang sức… Kéo tơ; dệt lụa: tồn tại hầu hết ở các làng. Giáo sĩ A. đơ Rốt đã nhận xét “Đàng Trong rất nhiều tơ, nhân dùng cả tơ để làm lưới đánh cá”, lái buôn Bori cũng đồng quan điểm khi viết “ở Đàng Trong có rất nhiều tơ lụa, đến nỗi những người lao động và hạ lưu dùng thường xuyên, hằng ngày”. Khối lượng sản xuất lớn, ngay từ đầu thế kỉ XVII, theo Bori “tơ có một số lượng rất lớn…đến nỗi cung cấp cả cho Nhật Bản, gửi sang cả vương quốc Lais…” Mặt hàng vải lụa gồm nhiều loại như: lụa trắng, lụa vàng, the, lĩnh, lượt, lụa hoa, nhiễu, đoạn, vải nhỏ, vải trắng, vải hoa, vải sợi đôi…kĩ thuật dệt, theo như nhận định của Lê Quý Đôn là “không thua kém gì Quảng Đông” Về tổ chức sản xuất chủ yếu mang tính chất gia đình. Những hạn chế của nhà nước về khổ vải, độc quyền thu mua tơ và bán tơ cho thương nhân nước ngoài, thuế má, lao dịch…đã làm cho nghề dệt không phát triển mạnh lên để chuyển sang một phương thức sản xuất mới. Nghề làm đường, vùng Quảng Nam, Quảng Ngãi, nghề làm đường đặt biệt phát triển. Hàng năm, nhà chúa đã thu 15.922 cân đường phên, 7960 cân đường cát thuế của châu Xuân Đài (Quảng Nam) 24.438 cân đường phên của xã Đông Phiên (Quảng Nam)…tính chung toàn miền Nam, nhà chúa thu thuế 48.320 cân 9 lạng đường, 5300 chĩnh mật mía. Theo Bori, đường Việt Nam thuộc loại “đẹp nhất Ấn Độ”. Trong nghề làm đường đã có sự phân công: người thì trồng mía, người thì mua mía ép lấy nước, người thì đốt lò đun mía ép và tinh chế đường. Nghề rèn sắt: phổ biến ở khắp các làng xã, chế tạo các công cụ cần cho sản xuất hay trong sử dụng của các gia đình. Sản xuất cũng mang tính chất hộ gia đình. Một số thợ rèn sắt đã phát triển nghề mình lên thành nghề đúc súng và được nhà nước trưng dụng. Các nghề thủ công cổ truyền phổ biến khác như dệt chiếu,