Đề tài Điều tra kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế

Hiện nay, ngành nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng phát triển và đã trở thành một nền kinh tế quan trọng của đất nước. Trong những năm qua ngành thuỷ sản không những đã góp phần giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo mà còn vươn lên làm giàu trên chính diện tích canh tác hiệu quả thấp trước đây. Ngành này đã đóng góp một tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu khá lớn trong các mặt hàng xuất khẩu nông sản, gia tăng nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho xây dựng và phát triển của đất nước. Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền trung có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho sự phát triển các hoạt động thuỷ sản nhất là nghề nuôi trồng thuỷ sản.Với địa hình bờ biển kéo dài, có hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng lớn, nhiều sông, hồ, thời tiết ấm áp thích hợp cho sự phát triển của các đối tượng thuỷ sản và thuận lợi cho việc hình thành nên các mô hình nuôi trồng thuỷ sản phong phú. Lộc An và Lộc Điền là hai xã thuộc huyện Phú Lộc nằm ở phía nam của tỉnh. Hai xã có vị trí nằm tiếp giáp với đầm phá Tam Giang – Cầu Hai về phí đông, giao thông thuận lợi với đường quốc lộ 1A chạy qua, nguồn lao động dồi dào . là những lợi thế để phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn. Thực tế trong những năm qua cho thấy hoạt động nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá nhanh trên địa bàn huyện Phú Lộc nói chung và hai xã Lộc An và Lộc Điền nói riêng. Bước đầu hoạt động này đã mang lại những thành quả nhất định tuy nhiên qua đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề trong quá trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản nơi đây có thể kể đến một trong những tình trạng chủ yếu đó là tình hình dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm thiệt hại không nhỏ tiền của của nhân dân. Để hiểu rõ hơn những vấn đề này chúng tôi chọn đề tài : “Điều tra kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế” nhằm thấy được tình hình nuôi trồng thuỷ sản của hai xã, nguyên nhân, cũng như đề xuất một số giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả sản xuất. Mục tiêu của đề tài: - Nắm được tình hình kinh tế - xã hội của hai xã tiến hành nghiên cứu. - Nắm được tình hình nuôi trồng thuỷ sản, so sánh hiệu quả kinh tế từ hoạt động nuôi trồng của hai xã và tìm ra mô hình nuôi hiệu quả. - Bước đầu xác định nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả sản xuất.

doc51 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4757 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Điều tra kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
PHẦN 1 MỞ ĐẦU Hiện nay, ngành nuôi trồng thuỷ sản đang ngày càng phát triển và đã trở thành một nền kinh tế quan trọng của đất nước. Trong những năm qua ngành thuỷ sản không những đã góp phần giúp nhân dân xoá đói giảm nghèo mà còn vươn lên làm giàu trên chính diện tích canh tác hiệu quả thấp trước đây. Ngành này đã đóng góp một tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu khá lớn trong các mặt hàng xuất khẩu nông sản, gia tăng nguồn thu ngoại tệ phục vụ cho xây dựng và phát triển của đất nước. Thừa Thiên Huế là một tỉnh duyên hải miền trung có điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho sự phát triển các hoạt động thuỷ sản nhất là nghề nuôi trồng thuỷ sản.Với địa hình bờ biển kéo dài, có hệ đầm phá Tam Giang – Cầu Hai rộng lớn, nhiều sông, hồ, thời tiết ấm áp thích hợp cho sự phát triển của các đối tượng thuỷ sản và thuận lợi cho việc hình thành nên các mô hình nuôi trồng thuỷ sản phong phú. Lộc An và Lộc Điền là hai xã thuộc huyện Phú Lộc nằm ở phía nam của tỉnh. Hai xã có vị trí nằm tiếp giáp với đầm phá Tam Giang – Cầu Hai về phí đông, giao thông thuận lợi với đường quốc lộ 1A chạy qua, nguồn lao động dồi dào….. là những lợi thế để phát triển nghề nuôi trồng thuỷ sản trên địa bàn. Thực tế trong những năm qua cho thấy hoạt động nuôi trồng thuỷ sản phát triển khá nhanh trên địa bàn huyện Phú Lộc nói chung và hai xã Lộc An và Lộc Điền nói riêng. Bước đầu hoạt động này đã mang lại những thành quả nhất định tuy nhiên qua đó cũng nảy sinh nhiều vấn đề trong quá trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản nơi đây có thể kể đến một trong những tình trạng chủ yếu đó là tình hình dịch bệnh thường xuyên xảy ra làm thiệt hại không nhỏ tiền của của nhân dân. Để hiểu rõ hơn những vấn đề này chúng tôi chọn đề tài : “Điều tra kinh tế xã hội và đánh giá hiện trạng nuôi trồng thuỷ sản của các xã Lộc Điền và Lộc An, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế” nhằm thấy được tình hình nuôi trồng thuỷ sản của hai xã, nguyên nhân, cũng như đề xuất một số giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả sản xuất. Mục tiêu của đề tài: - Nắm được tình hình kinh tế - xã hội của hai xã tiến hành nghiên cứu. - Nắm được tình hình nuôi trồng thuỷ sản, so sánh hiệu quả kinh tế từ hoạt động nuôi trồng của hai xã và tìm ra mô hình nuôi hiệu quả. - Bước đầu xác định nguyên nhân và đề xuất một số giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả sản xuất. PHẦN 2 TỔNG QUAN CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 2.1. Tình hình nuôi trồng thủy sản trên thế giới 2.1.1. Tình hình chung Trong thời gian gần đây, nuôi trồng thuỷ sản liên tục tăng mức đóng góp vào sản lượng thuỷ sản trên thế giới, từ chỗ chỉ chiếm 7,3% sản lượng trong năm 1970, hiện nay đã lên tới 33,92% (Trong tổng số 142,1 triệu tấn thuỷ sản thế giới sản xuất được trong năm 2001, nuôi trồng thuỷ sản đạt 48,42 triệu tấn). Các loài cá nước ngọt vẫn chiếm ưu thế trong nuôi trồng thủy sản. Sản lượng năm 2001 đạt 20,80 triệu tấn, chiếm 85,2% tổng sản lượng cá nuôi đạt giá trị 22,122 tỷ USD. Tiếp theo là cá di cư hai chiều (2,543 triệu tấn, chiếm 10,4%, trị giá 7,435 tỷ USD) và cá biển (1,091 triệu tấn, chiếm 4,1%, trị giá 4,088 tỷ USD). Mức tăng trung bình của các nhóm trên gần giống nhau, cụ thể là trong giai đoạn 1970-2000, cá nước ngọt có mức tăng trung bình hàng năm là 9,9%, trong khi cá di cư đạt 10,6% và cá biển đạt 10,6%. [14] Bảng 2.1 :Sản lượng và giá trị của một số loài Nhóm cá  Sản lượng (tấn)  Trị giá (USD)   Chép (2001)  16.427.266  15.986.670.000   Rô phi (2001)  1.385.223  2.002.162.000   Da trơn (2000)  421.709  655.419.500   Hồi (2000)  1.533.824  4.875.552.400   Măng (2000)  461.857  715.091.100   Chình (2000)  232.815  975.005.700   Cá biển (2001)  1.091.085  4.088.894   ( Nguồn: Bộ Thủy sản) Nuôi tôm luôn chiếm ưu thế trong nuôi giáp xác và trong nuôi trồng thủy sản, tính đến năm 2003, sản lượng nuôi tôm trên thế giới đạt 1.804.932 tấn trong đó có 666.071 tấn tôm sú, 723.858 tấn tôm thẻ chân trắng, còn lại là các đối tượng khác (FAO,2004). Cũng theo FAO, báo cáo “Tình hình nuôi trồng thủy sản trên thế giới” năm 2007, sản lượng tôm nuôi trên thế giới đạt vào khoảng 3,3 triệu tấn. [14]. Tuy tôm nuôi mới chỉ chiếm 4,3% sản lượng và 15,3% giá trị trong cơ cấu các sản phẩm nuôi trồng thủy sản (FAO,2003) nhưng có một vai trò đặt biệt quan trọng trong thương mại thủy sản thế giới, đặt biệt là các nước đang phát triển. [1]. 2.1.2. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Việt Nam Hoạt động nuôi trồng thủy sản ở nước ta thực sự khởi sắc từ năm 1990 và đến năm 2000 – 2002 thì bùng phát cả về diện tích lẫn đối tượng nuôi. Việc mở rộng diện tích nuôi trồng thủy sản được tiến hành chủ yếu trên các vùng đất ngập nước ven biển, trong các thủy vực nước mặn ven bờ, trên các vùng cát trũng thấp ven biển miền Trung và một phần diện tích từ canh tác nông nghiệp kém hiệu quả đã được chuyển sang nuôi trồng thủy sản. Diện tích nuôi trồng thủy sản năm 2001 là 993.264 ha trong đó diện tích nuôi nước ngọt là 408.700 ha, diện tích nuôi mặn, lợ là 584.500 ha; Năm 2002 là 955.000 ha trong đó diện tích nuôi nước ngọt là 425.000 ha, diện tích nuôi mặn, lợ là 530.000 ha. Do thay đổi cơ cấu và đối tượng nuôi trồng thủy sản đã dẫn đến tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thủy sản và đóng góp phần đáng kể cho ngành chế biến hải sản xuất khẩu. Sản lượng thủy sản năm 2001 đạt 891.695 tấn, năm 2002 đạt 976.100 tấn, tăng 9,47% so với năm 2001.[1] Bảng 2.2. Các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội chủ yếu của ngành thủy sản đến năm 2010. Mục tiêu  Đơn vị  Năm     2001  2005  2010   1.Tổng sản lượng thủy sản. Bao gồm: Nghề cá biển Nghề nuôi trồng thủy sản  1000 tấn 1000 tấn 1000 tấn  2257 1367  2245 1300  3400 1400   2.Giá trị xuất khẩu  Tỷ USD  1,76  3  4,5   (Nguồn: Báo cáo thảo luận hội nghị đánh giá kết quả thực hiện chương trình phát triển thuỷ sản giai đoạn 2000- 2005 và biện pháp thực hiện đến năm 2010) Xu hướng nuôi đang chuyển từ phương thức nuôi quảng canh sang nuôi bán thâm canh. Nhiều vùng nuôi tập trung theo kiểu thâm canh công nghiệp và sản xuất hàng hóa lớn đã hình thành. Hình thức và đối tượng nuôi cũng khá phong phú, nhưng ở vùng nước lợ chủ yếu là tôm và một số loài nhuyễn thể có giá trị xuất khẩu. Sản phẩm nuôi mặn, lợ đã mang lại giá trị xuất khẩu rất cao cho nền kinh tế quốc dân và thu nhập đáng kể cho người lao động. Hình thức nuôi lồng bè trên biển cũng đang là hướng mở mới cho ngành Thủy sản, với các loài tôm hùm, cá giò, cá mú, cá tráp, trai ngọc…[5]. Đối với nuôi thủy sản nước ngọt, hình thức nuôi lồng bè và kết hợp với khai thác cá trên sông đang ngày càng phổ biến. Hình thức này đã tận dụng được diện tích mặt nước, tạo được việc làm và tăng thu nhập. Ở các tỉnh phía Bắc và miền Trung đối tượng nuôi lồng chủ yếu là trắm cỏ với quy mô lồng nuôi khoảng 12 – 24 m3, năng suất 450 – 600 kg/lồng. Ở các tỉnh phía Nam đối tượng nuôi chủ yếu là cá basa, cá lóc, cá bống tượng và cá he. Nuôi các đối tượng loài đặc sản có giá trị kinh tế cao như: ba ba, tôm càng xanh, cá sấu, lươn, ếch…đang được mở rộng và làm tăng giá trị kinh tế của các mô hình nuôi nước ngọt [1]. Về vấn đề nuôi tôm, trong thời gian qua, diện tích và sản lượng tôm nuôi của nước ta liên tục tăng, số liệu được trình bày trong bảng sau đây: Bảng 2.3: Diện tích và sản lượng từ năm 2003 đến năm 2005. [4]. Năm  Diện tích (nghìn ha)  Sản lượng (nghìn tấn)   2000  324,1  93,5   2001  454,9  154,9   2002  509,6  186,2   2003  574,9  237,9   2004  598  281,8   2005  528,3  327,2   (Nguồn: Báo cáo thảo luận hội nghị đánh giá kết quả thực hiện chương trình phát triển thuỷ sản giai đoạn 2000- 2005 và biện pháp thực hiện đến năm 2010) Tuy nhiên, nghề nuôi tôm ở nước ta vài năm trở lại đây trở nên bấp bênh, môi trường nuôi ngày càng ô nhiễm, dịch bệnh xảy ra thường xuyên và lây lan trên diện rộng. Nguyên nhân của việc bùng phát dịch bệnh, năng suất thấp xuất phát từ việc phát triển nuôi một cách tự phát, quy hoạch vùng nuôi không hợp lý không đảm bảo cho sự phát triển bền vững.[7] 2.1.3. Tình hình nuôi trồng thủy sản ở Thừa Thiên Huế Thừa Thiên Huế, một tỉnh duyên hải miền Trung, có hệ thống đầm phá ven biển rộng lớn (gần 22.000 ha) được xếp vào loại lớn của thế giới. Hệ thống đầm phá Tam Giang, Cầu Hai, Lăng Cô chạy dọc suốt 5 huyện ven biển Thừa Thiên Huế, từ Phong Điền, Hương Trà, Quảng Điền, Phú Vang, Phú Lộc là một vùng đầm phá nước lợ với hệ sinh thái sông biển phong phú và đặc sắc, là điều kiện tự nhiên rất thuận lợi cho nhiều loài thủy sinh phát triển. Một lợi thế cho nhiều ngành nghề nông, lâm, ngư nghệp, mà đặc biệt là nghề nuôi trồng thủy sản. Trong giai đoạn từ năm 1998 đến năm 2003, diện tích nuôi tôm vùng đầm phá ven biển Thừa Thiên Huế tăng nhanh, nhất là những năm 2000-2003. Năm 2000 diện tích nuôi là 2.021 ha chiếm khoảng 66,77% diện tích nuôi trồng thủy sản. Năm 2003 các trị số tương ứng là 3.875 ha, chiếm khoảng 80,45%; tăng 207,46% so với năm 2000.[6] Cùng với sự gia tăng về diện tích nghề nuôi tôm vùng đầm phá đã không ngừng áp dụng kỹ thuật và những hình thức nuôi tiến bộ nên năng suất tôm tăng khá, từ 0,208 tấn/ha ở năm 1998 lên 0,858 tấn/ha ở năm 2003, tương ứng tăng 412,5%. Từ đó sản lượng nuôi tôm tăng, năm 2003 đạt 9.149 tấn, tăng 11,66 lần so với năm 1998. Đây chính là nguồn nguyên liệu tôm cho chế biến, xuất khẩu và tiêu dùng nội địa. Các huyện Phú Vang, Phú Lộc phát triển nuôi tôm nhanh hơn các huyện khác. Vùng đầm phá huyện Phú Lộc tăng diện tích bình quân hằng năm là 42,192%/năm và sản lượng tăng 109,84%/năm trong thời gian trên. Phong Điền không mở rộng diện tích nhưng đầu tư thâm canh nên sản lượng tôm nuôi ở năm 2003 tăng 9,67 lần so với năm 1998. Năm 2009, theo báo cáo của các đơn vị và địa phương trong tỉnh, kết quả thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch về nuôi trồng thủy sản trong 10 tháng và ước lượng cả năm 2009 như sau: [6] * Về diện tích. Tính đến hết tháng 8 tổng diện tích nuôi trồng thuỷ sản trên toàn Tỉnh thực hiện là : 5.670,25 ha đạt 94,95% so với kế hoạch. Trong đó: + Diện tích nuôi nước lợ, mặn: 3.823,46 ha, đạt 92,51% so với kế hoạch gồm: - Diện tích nuôi chuyên tôm:         1.424,3ha/2.430,2ha, đạt 58,61%; - Diện tích nuôi xen ghép:             2.213,73ha/1.532,5ha, đạt 144,45%; - Diện tích nuôi tôm chân trắng:     185,43ha/185,43ha, đạt 100%. - Nuôi lồng nước lợ thực hiện được: 1.523 lồng đạt 152,30% . Đến nay, diện tích nuôi xen ghép phát triển khá mạnh đạt 144,45 % so với kế hoạch và tăng 45,21% so với cùng kỳ năm 2008, có được điều này là do bà con ngư dân đã thấy được hiệu quả bền vững từ hình thức nuôi này. Năm nay một số hồ nuôi tôm bỏ hoang đã được bà con ngư dân chuyển sang nuôi xen ghép như Quảng Điền, Phú Lộc, Phú Vang, Hương Trà. Diện tích nuôi chuyên tôm giảm mạnh chỉ đạt 58,61% so với kế hoạch vì chuyển sang nuôi xen ghép. + Về nuôi tôm chân trắng : Đến nay diện tích nuôi tôm chân trắng trên cát phát triển khá mạnh đạt 185,43 ha, diện tích quay vòng 3 vụ đạt 237,85 ha. Diện tích tăng là do hiệu quả từ việc nuôi tôm chân trắng mang lại. Tuy nhiên nuôi tôm chân trắng đòi hỏi vốn đầu tư lớn và quy trình kỹ thuật khắt khe. Vừa qua tại Phong Điền một số hộ nuôi ở xã Điền Hương và Phong Hải đã xảy ra hiện tượng tôm chết khi mới nuôi gần hai tháng là do chất lượng con giống và quy trình kỹ thuật chưa đảm bảo. Chi cục Nuôi trồng thuỷ sản đã nhiều lần nhắc nhở chính quyền địa phương và người nuôi phải có ao xử lý nước cấp và nước thải nhưng chưa được sự quan tâm đúng mức của chính quyền và bà con. + Về diện tích nuôi nước ngọt đến nay: 1.846,79ha/1.838,64ha, đạt 100,44%. Trong đó nuôi chuyên cá 1.599,61 ha, nuôi cá - lúa 229,08 ha và nuôi cá – sen 18,1 ha. Riêng cá lồng đã đưa vào nuôi 2.155 lồng đạt gần 90,32% so với kế hoạch. * Về sản lượng thu hoạch: Tổng sản lượng thu hoạch đến thời điểm hiện nay là 6.762,65 tấn đạt 79,56% [6]. Trong đó: + Sản lượng nước lợ : 4.268,76 tấn đạt 78,52% - Sản lượng Tôm sú, rảo : 1.875 tấn - Sản lượng tôm chân trắng : 1.447,36 tấn - Sản lượng Cá nước lợ : 435 tấn - Sản lượng Cua, ghẹ : 165,5 tấn Hiện nay sản lượng nhuyễn thể như vẹm, hàu chưa thống kê được, 3 tấn là sản lượng của ốc hương. - Sản lượng rong câu : 342,5 tấn - Sản lượng nước ngọt : 2.493,89 tấn đạt 71,25%. * Về năng suất : Bảng 2.4: Năng suất nuôi chuyên tôm trong ao [6] STT  Tên Huyện  Năng suất bình quân (tấn/ha/vụ)  Ghi chú   1  Phú Vang  1,10  Bình quân năng suất của tôm sú và chân trắng.   2  Phú Lộc  0,48  Năng suất bình quân tính cả diện tích nuôi xen ghép   3  Hương Trà  0,50  Năng suất bình quân tính cả diện tích nuôi xen ghép   4  Quảng Điền  0,38  Năng suất bình quân tính cả diện tích nuôi xen ghép.   5  Phong Điền  7,49  Bình quân năng suất của tôm sú và chân trắng.   6  Doanh nghiệp  11,00  Nuôi tôm chân trắng trên cát   (Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản tỉnh Thừa Thiên Huế) 2.3.2. Tình hình nuôi trồng thủy sản xã Lộc An và Lộc Điền . Trong những năm gần đây dưới sự chỉ đạo phát triển của ủy ban nhân dân xã Lộc Điền và Lộc An tình hình nuôi trồng thủy sản của hai xã đã có những phát triển đáng kể, diện tích và sản lượng không ngừng tăng lên, trong đó xã Lộc Điền có diện tích 179 ha đạt 106,5% kế hoạch tăng 11 ha so với năm 2008, năng suất bình quân ước tính đạt 1 tấn/ha sản lượng nuôi trồng 179 tấn tôm, cá các loại đạt 91,66% kế hoạch giá trị sản xuất ước 8,8 tỷ đồng, diện tích tôm bị bệnh chết 24,5 ha chiếm tỷ lệ 15,31%. Lộc An nuôi trồng thủy sản chủ yếu là nuôi cá nước ngọt năm 2009 tổng diện tích nuôi là 67,1 ha trong đó có 50,4 ha là nuôi cá nước ngọt; 31,4 ha nuôi cá; 31,7 ha nuôi cá lúa; 3,9 ha là sen cá; riêng nuôi cá lồng có 67 lồng chủ yếu là trắm cỏ, diện tích nuôi tôm là 16,7 ha. Đối với cá nuôi ao cho năng suất 0,9 tấn/ha, đối với cá lồng năng suất bình quân 0,25 tấn/lồng. Sản lượng nuôi trong năm qua đạt 143 tấn tôm, cá trong đó tôm 17 tấn còn lại là cá, tổng giá trị sản xuất ước tính 5,8 tỷ đồng đạt 89,78% kế hoạch.[10][12] Nhìn chung ở hai xã Lộc Điền và Lộc An đang có những chuyển biến tích cực trong nuôi trồng thủy sản đem lại thu nhập đáng kể, đạt được thành công trong xóa đói giảm nghèo cho nhân dân. Ở đây, nhiều mô hình nuôi thủy sản thành công ngày càng nhiều, điển hình là [8]: Bảng 2.5 Danh sách các hộ nuôi thủy sản điển hình của huyện phú Lộc TT  Đơn vị  Hộ nuôi  DT (ha)  Vụ 1  Vụ 2  Cả năm       SL (tấn)  Lãi (Tr.đ)  SL (tấn)  Lãi (Tr.đ)  SL (tấn)  Lãi (Tr.đ)   I  Lộc Điền   1   Nguyễn Văn Bình  5  15  250     250   2   Đặng Thoan  1,7  3,5  130     130   3   Trần Đáo  1,7  3  80     80   4   Trương Nối  1,9    1,5  40   40   II  Lộc An   1   Tô Văn Tám  2,26  2,26  150       2   Nguyễn Mai Cáo  1,18  1,12  120       3   Lê Văn Lượng  1,39  1,2  125       (Nguồn: Báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2009 huyện Phú Lộc tỉnh Thừa Thiên Huế) 2.3.3. Những thuận lợi và khó khăn chung trong nuôi trồng thủy sản của Lộc Điền và Lộc An: Theo nguồn báo cáo tổng kết tình hình nuôi trồng thủy sản năm 2009 của hai xã Lộc Điền và Lộc An gửi Ủy ban nhân dân huyện Phú Lộc đã chỉ ra những thuận lợi và khó khăn chung trong nuôi trồng thủy sản :[10][12] * Thuận lợi : - Có định hướng, chủ trương và kế hoạch phát triển nuôi trồng thuỷ sản của huyện và xã. - Có sự quan tâm và ưu tiên và đầu tư đúng mức của các cấp lãnh đạo và các ban ngành liên quan. - Có nhiều diện tích cho nuôi trồng thủy sản. - Điều kiện tự nhiên thích hợp cho nuôi tôm , cá. - Người dân đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau trong ngăn chặn dịch bệnh và bảo vệ môi trường nuôi trồng thuỷ sản. Ý thức vai trò và trách nhiệm của cộng đồng cao. * Khó khăn : - Vấn đề ao lắng, ao xử lý nước cấp vào ao chưa được quan tâm. - Hệ thống xử lý nước thải còn chưa kiểm soát được. - Vốn đầu tư hạn chế, ngư dân thiếu vốn đầu tư cho vụ nuôi. - Dịch bệnh xảy ra nhiều. - Thị trường đầu ra không ổn định. - Môi trường ngày càng ô nhiễm. - Giá cả vật tư cao. - Cán bộ hợp tác xã còn ít, năng lực không đồng đều, tính năng động còn hạn chế. - Trình độ hiểu biết của người dân về nuôi trồng thuỷ sản còn thấp, một số người còn mang hệ tư tưởng bảo thủ. Những khó khăn đó xuất phát từ. * Nguyên nhân : - Đời sống người dân còn nghèo - Thiếu giống thủy sản - Giá cả phụ thuộc thị trường - Nguồn giống không đảm bảo - Thiếu qui hoạch tổng thể - Không có tập huấn hoặc tổ chức tập huấn còn quá ít Để giải quyết trước mắt những khó khăn còn tồn tại Ủy ban nhân dân huyện đã đề xuất các giải pháp : * Giải pháp : - Tạo điều kiện cho người dân vay vốn sản xuất - Mở các lớp tập huấn kỹ thuật nuôi trồng thủy sản - Lập kế hoạch và qui hoạch vùng nuôi rõ ràng - Nắm rõ thông tin thị trường - Xây dựng hệ thống xử lý nước - Hỗ trợ con giống cho người dân sản xuất PHẦN 3 NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3. Đối tượng, thời gian, địa điểm và phương pháp nghiên cứu: 3.1. Đối tượng nghiên cứu. Các hộ dân nuôi trồng thuỷ sản tại địa điểm nghiên cứu. 3.2. Thời gian nghiên cứu. Tháng 1 đến tháng 5 năm 2010 3.3. Địa điểm nghiên cứu. Nghiên cứu được tiến hành tại xã Lộc Điền và xã Lộc An huyện Phú Lộc – tỉnh Thừa Thiên Huế. 3.4. Nội dung nghiên cứu. - Điều tra tình hình kinh tế - xã hội của hai xã tiến hành nghiên cứu. - Điều tra tình hình nuôi trồng thuỷ sản, so sánh hiệu quả kinh tế từ hoạt động nuôi trồng của hai xã và tìm ra mô hình nuôi hiệu quả. - Xác định nguyên nhân, đề xuất một số giải pháp khắc phục và nâng cao hiệu quả sản xuất. 3.5. Phương pháp nghiên cứu. 3.5.1. Phương pháp điều tra. a. Thu thập thông tin thứ cấp: Tiếp cận nguồn cơ sở dữ liệu thống kê về nuôi trồng thuỷ sản của các tổ chức tại địa bàn điều tra bao gồm: Phòng nông nghiệp huyện Phú Lộc, Uỷ ban Nhân dân xã tiến hành nghiên cứu. b. Thu thập thông tin sơ cấp: Phỏng vấn trực tiếp các hộ tham gia nuôi trồng thuỷ sản bằng bảng hỏi điều tra thiết kế sẵn. c. Phương pháp chọn mẫu điều tra. Chọn phỏng vấn 10% số hộ trong danh sách tổng các hộ nuôi trồng thuỷ sản ở mỗi xã đảm bảo tính đại diện cho tổng số mẫu. d. Phương pháp tổ chức thực hiện điều tra. Điều tra thí điểm: Xây dựng bộ bảng hỏi điều tra với trên 30 chỉ tiêu điều tra. Dùng bản hỏi điều tra thí điểm ngẫu nhiên một số hộ nuôi trong danh sách được cung cấp, lấy kết quả đối chiếu với mục tiêu và nội dung nghiên cứu. Trên cơ sở đó điều chỉnh bộ bảng hỏi lần cuối để tiến hành điều tra chính thức.[2] Điều tra chính thức: Chọn ngẫu nhiên số hộ nuôi trồng thủy sản tương ứng với 10% tổng số hộ nuôi tại mỗi xã để điều tra. Tiến hành phỏng vấn trực tiếp từng hộ bằng bộ bảng hỏi điều tra hoàn chỉnh. 3.5.4. Phương pháp xử lý số liệu.[3] Số liệu thu được sẽ được tập hợp và xử lý bằng phần mềm xử lý số liệu Excell 2003. PHẦN 4 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU Lộc Điền và Lộc An là hai xã thuộc huyện Phú Lộc với địa thế nằm ven Phá Tam Giang nên thuận lợi cho phát triển ngành thuỷ sản và cũng là nơi có thế mạnh về khai thác và nuôi trồng thuỷ sản. Vì là vùng ven Phá Tam Giang nên cả hai xã đều có tiềm năng rất lớn để phát triển nuôi trồng thuỷ sản nước lợ, diện tích mặt nước tiềm năng để phát triển nuôi trồng thuỷ sản; đối với xã Lộc Điền là 202 ha, tính đến năm 2008 tổng diện tích đưa vào nuôi trồng là 179 ha, năm 2009 là 190 ha, ở đây chủ yếu là nuôi độc canh tôm sú và một số vùng nuôi xen ghép tôm với cá kình, cá dìa; riêng xã Lộc An là có diện tích đầm phá nhỏ hơn nhưng lại có thế mạnh về nuôi cá nước ngọt, trong đó năm 2009 tổng diện tích nuôi trồng là 67,1 ha thì đã có tới 50,4 ha là nuôi trồng thủy sản nước ngọt, phần lớn là nuôi lồng bè độc canh cá trắm cỏ còn lại là nuôi xen ghép cá lúa, sen cá…
Luận văn liên quan