Đề tài Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội

Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, cùng với các doanh nghiệp lớn tạo thành hệ thống kinh tế hợp lý, có hiệu quả. Các doanh nghiệp này đã được sự hỗ trợ khuyến khích phát triển nhiều mặt của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một yêu cầu khách quan cấp bách hiện nay. Nhận thức được vấn đề này, các ngân hàng thương mại đã có những giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hoạt động tín dụng vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quân Đội, được ngân hàng chú trọng đầu tư cả về thị trường sản phẩm và chất lượng kinh doanh. Với mục tiêu hoạt động “Sự thành công của doanh nghiệp là niền tự hào của Ngân hàng chúng tôi” và xu hướng phát triển chung của các ngân hàng thường mại. Ngân hàng Quân Đội đã mở rộng đối tượng khách hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn gặp nhiều khó khăn xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ cơ chế chính sách của Nhà nước và từ phía các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Quân Đội trước kia chỉ phục vụ cho các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế, khi mở rộng đối tượng khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa càng gặp nhiều khó khăn hơn. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quân Đội, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội” Mục đích nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu những lý luận chung nhầt về hoạt động tín dụng của ngân hàng, đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa, tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, phân tích đánh giá hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu: Trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, đề tài tập trung nghiên cứu sâu hoạt động cho vay. Đây là hoạt động chủ yếu trong hoạt động tín dụng cũng như hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Quân Đội. Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, bằng phương pháp thống kê và so sánh giữa các năm, các chỉ tiêu, để thấy được những kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng phát triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. Bố cục của đề tài: Đề tài chia làm 3 phần Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội.

docx82 trang | Chia sẻ: superlens | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, cùng với các doanh nghiệp lớn tạo thành hệ thống kinh tế hợp lý, có hiệu quả. Các doanh nghiệp này đã được sự hỗ trợ khuyến khích phát triển nhiều mặt của Nhà nước. Tuy nhiên, các doanh nghiệp nhỏ và vừa hiện nay vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Hỗ trợ tín dụng đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa là một yêu cầu khách quan cấp bách hiện nay. Nhận thức được vấn đề này, các ngân hàng thương mại đã có những giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hoạt động tín dụng vẫn chiếm vị trí quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quân Đội, được ngân hàng chú trọng đầu tư cả về thị trường sản phẩm và chất lượng kinh doanh. Với mục tiêu hoạt động “Sự thành công của doanh nghiệp là niền tự hào của Ngân hàng chúng tôi” và xu hướng phát triển chung của các ngân hàng thường mại. Ngân hàng Quân Đội đã mở rộng đối tượng khách hàng, cung cấp các sản phẩm dịch vụ phục vụ nhu cầu các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, còn gặp nhiều khó khăn xuất phát từ chính bản thân các doanh nghiệp nhỏ và vừa, từ cơ chế chính sách của Nhà nước và từ phía các ngân hàng thương mại. Ngân hàng Quân Đội trước kia chỉ phục vụ cho các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế, khi mở rộng đối tượng khách hàng doanh nghiệp nhỏ và vừa càng gặp nhiều khó khăn hơn. Ý thức được tầm quan trọng của vấn đề này đối với hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Quân Đội, em đã lựa chọn đề tài: “Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội” Mục đích nghiên cứu của đề tài: Đề tài nghiên cứu những lý luận chung nhầt về hoạt động tín dụng của ngân hàng, đặc điểm của doanh nghiệp nhỏ và vừa, tìm hiểu những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, phân tích đánh giá hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu: Trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, đề tài tập trung nghiên cứu sâu hoạt động cho vay. Đây là hoạt động chủ yếu trong hoạt động tín dụng cũng như hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Quân Đội. Trên cơ sở các tài liệu thu thập được, bằng phương pháp thống kê và so sánh giữa các năm, các chỉ tiêu, để thấy được những kết quả đạt được và hạn chế trong hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Bên cạnh đó, đề tài còn sử dụng phương pháp phân tích tổng hợp, đánh giá thực trạng phát triển, rút ra nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. Bố cục của đề tài: Đề tài chia làm 3 phần Chương I: Một số vấn đề cơ bản về tín dụng ngân hàng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa. Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Chương III: Giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân Đội. Em xin chân thành cám ơn thầy giáo TS. Hoàng Xuân Quế và các anh chị cán bộ Ngân hàng Quân Đội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRONG NỀN KINH TẾ Khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa Trong thực tế, việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa của một nước được cân nhắc đối với từng giai đoạn phát triển kinh tế, tình hình việc làm nói chung và tính chất nền kinh tế hiện hành của nước đó. Việc xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa không có tính chất cố định mà có xu hướng thay đổi theo tính chất hoạt động của nó, mục đích của việc xác định và mức độ phát triển doanh nghiệp. Một số tiêu chuẩn để xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa là tổng vốn đầu tư được huy động vào sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm hoặc dịch vụ, lợi nhuận, vốn bình quân cho một lao độngMỗi nước có một quan niệm và lựa chọn các tiêu thức khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: Trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước: Trình độ phát triển càng cao thì trị số các tiêu chí càng tăng. Ở các nước càng phát triển thì chỉ số về lao động, vốn để phân loại doanh nghiệp nhỏ và vừa càng cao. Chẳng hạn như ở Nhật Bản, doanh nghiệp có 300 lao động và nguồn vốn là một triệu USD được xem là một doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng ở Thái Lan một doanh nghiệp có quy mô như vật là doanh nghiệp lớn. Tính chất ngành nghề: Tùy thuộc vào yêu cầu và tính chất của từng ngành mà có ngành sử dụng nhiều lao động như: may mặc, giày da, thủ công, mỹ nghệ, có ngành sử dụng ít lao động, nhiều vốn như hóa chất, điệnTrong phân loại doanh nghiệp cũng cần căn cứ vào tính chất này để có những quy định phù hợp giữa các ngành với nhau. Các nước thường phân thành các nhóm ngành với những tiêu chí phân loại khác nhau. Vùng lãnh thổ: Mỗi vùng miền có trình độ phát triển khác nhau về quy mô và số lượng doanh nghiệp. Do đó, để đảm bảo tính tương thích trong việc so sánh giữa các vùng với nhau thì cũng cần tính đến hệ số vùng trong tiêu chuẩn xác định doanh nghiệp nhỏ và vừa. Vùng có nền kinh tế phát triển cao thì số lượng và quy mô doanh nghiệp phải cao hơn vùng có nền kinh tế phát triển thấp. Tính chất lịch sử: Trong quá trình phát triển kinh tế, quy mô các doanh nghiệp không ngừng tăng. Các tiêu chí phân loại cũng thay đổi tỷ lệ với tốc độ tăng trưởng quy mô các doanh nghiệp. Thông thường khái niệm về doanh nghiệp nhỏ và vừa dựa trên số lao động được sử dụng rộng rãi bởi vì nó không dễ dàng chịu sự ảnh hưởng của những khác biệt về mức thu nhập và những thay đổi trong giá trị của đồng tiền nội địa qua các thời kỳ khác nhau của mỗi quốc gia. Ở nước ta khái niệm doanh nghiệp nhỏ và vừa được đưa ra tại điều 3, Nghị định 90/2001/NĐ – CP của Chính Phủ về trợ giúp phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: “Doanh nghiệp nhỏ và vừa là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc số lao động hằng năm không quá 300 người” Các doanh nghiệp nhỏ và vừa bao gồm: Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Các doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo Luật doanh nghiệp Nhà nước. Các hợp tác xã thành lập theo Luật Hợp tác xã. Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký theo Nghị định 02/2000/NĐ-CP ngày 03 tháng 02 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh. Căn cứ tình hình kinh tế cụ thể của ngành, địa phương, trong quá trình thực hiện các biện pháp, chương trình trợ giúp có thể linh hoạt áp dụng đồng thời cả hai chỉ tiêu vốn và lao động hoặc một trong hai chỉ tiêu. Một số nhà nghiên cứu cho rằng: Ở Việt Nam cần phân định doanh nghiệp nhỏ và vừa theo lĩnh vực sản xuất và dịch vụ. Đối với lĩnh vực sản xuất: doanh nghiệp có vốn dưới 1 tỷ đồng, số lao động dưới 100 người là doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có từ 1 tỷ đến 10 tỷ đồng vốn, 100 đến 500 lao động là doanh nghiệp vừa. Đối với lĩnh vực thương mại và dịch vụ: doanh nghiệp có vốn dưới 500 triệu và dưới 50 lao động là doanh nghiệp nhỏ, còn doanh nghiệp có vốn từ 500 triệu đến 5 tỷ và lao động từ 50 đến 250 người là doanh nghiệp vừa. Hiện nay ở Việt Nam có khoảng 170.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh theo Luật doanh nghiệp, 2,6 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn 18.000 hợp tác xã. Trong số đó, doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm 96% số doanh nghiệp đăng ký theo luật doanh nghiệp và 99% tổng số hộ kinh doanh cá thể. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa, thu hút khoảng 450.000 lao động với thu nhập bình quân 1,05 triệu đồng / tháng Nguồn: Báo Sài Gòn giải phóng ngày 11/09/2005 . Đặc điểm doanh nghiệp nhỏ và vừa 1.1.2.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa dễ khởi sự và năng động, linh hoạt trong sản xuất kinh doanh Doanh nghiệp nhỏ và vừa tốn tại và phát triển ở mọi ngành nghề mọi thành phần kinh tế, chỉ cần số vốn hạn chế, một mặt bằng nhỏ hẹp đã có thể tiến hành hoạt động kinh doanh như nhận gia công theo đơn đặt hàng của các doanh nghiệp lớn đặc biệt là trong ngành dệt, may, cơ khí, Tổ chức quản lý của doanh nghiệp nhỏ và vừa đơn giản, dễ đưa ra quyết định, khi nhu cầu thị trường thay đổi hay gặp khó khăn dễ dàng thay đổi tình thế, nội bộ dễ đi đến thống nhất. Trước những biến động của thị trường, họ rất linh hoạt và mạnh dạn đầu tư, thay đổi trong sản xuất, trang thiết bị kỹ thuật với chi phí bổ sung không cao. Nhu cầu đầu tư ít, sử dụng nhiều nguyên liệu sẵn có ở địa phương, chi phí đào tạo người lao động và quản lý ít tốn kém. Đây là một điểm lợi thế rất lớn của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong cơ chế thị trường, góp phần quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Ngày nay, vòng đời của sản phẩm nhiều khi ngắn hơn thời gian tồn tại của máy móc thiết bị sản xuất ra, nó đòi hỏi phải khấu hao nhanh, đặc biệt là hao mòn vô hình. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể kết hợp, hợp lý hóa, cơ khí hóa với lao động thủ công để sản xuất được những sản phẩm chất lượng cao trong điều kiện kết cấu hạ tầng hạn chế. 1.1.2.2 Doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút nhiều lao động nhưng tay nghề lao động chưa cao Các doanh nghiệp nhỏ và vừa do nguồn vốn ít nên đầu tư vào tài sản cố định cũng ít, họ thường tận dụng lao động thay thế cho vốn. Đặc biệt là những nước có lực lượng lao động dồi dào và nhân công rẻ để tiến hành sản xuất kinh doanh. Chi phí trung bình để tạo ra một chỗ làm trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường chỉ bằng 10% doanh nghiệp lớn. Một trong những khó khăn hiện nay các doanh nghiệp nhỏ và vừa gặp phải là thiếu đội ngũ lao động có trình độ, có khả năng đáp ứng yêu cầu trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Trình độ học vấn ở các doanh nghiệp nhỏ và vừa là rất thấp. Do quy mô nhỏ lại thiếu vốn nên hầu như các doanh nghiệp nhỏ và vừa không đủ kinh phí để đầu tư, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của người lao động ngay cả khi chủ doanh nghiệp có tầm nhìn chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực. Trong số 25% lao động có chuyên môn thì chỉ có 6% lao động có trình độ cao đẳng, đại học. Chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa có trình độ học vấn từ trung cấp trở xuống chiếm 55,63%, có 40,81% chủ doanh nghiệp có trình độ đại học trở lên nhưng họ cũng ít được đào tạo về kiến thức kinh tế và quản trị doanh nghiệp Nguồn: Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa – Bộ Kế hoạch và Đầu tư . Như vậy, các chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa thiếu kinh nghiệm về nhiều mặt từ kỹ năng quản lý đến hiểu biết về công nghệ và thị trường. Có tới 80% doanh nghiệp nhỏ và vừa hướng vào khai thác chế biến nguyên liệu tại chỗ, chế biến nông sản thực phẩm, gỗ, diệt may, sản xuất gạch ngóiNgười lao động có tay nghề kém, ít qua đào tạo cơ bản, chủ yếu được truyền theo kiểu cha truyền con nối. Lao động phổ thông, trình độ tay nghề còn đơn giản, chưa được đào tạo chiếm 60-70% lực lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa. 1.1.2.3 Doanh nghiệp nhỏ và vừa có nguồn tài chính hạn chế, khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn tiến hành sản xuất kinh doanh đều phải có một lượng vốn nhất định. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường khởi sự từ nguồn vốn ban đầu không cao, nhưng họ chủ yếu hoạt động nhờ nguồn vốn này. Cơ cấu vốn nợ của các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ thấp trong cơ cấu vốn thường bao gồm: nguồn vốn vay từ bạn bè, gia đình, các khoản tín dụng thương mại, tín dụng ngân hàng và các tổ chức tài chính Quy mô số vốn ban đầu của doanh nghiệp rất quan trọng và tăng theo quy mô phát triển của doanh nghiệp. Doanh nghiệp càng hoạt động có hiệu quả thì càng có nhiều điều kiện để tăng trưởng nguồn vốn. Tuy nhiên, để có thể huy động được vốn nợ còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng có nhiều ưu thế vượt trội nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa không dễ tiếp cận được. Doanh nghiệp phải đáp ứng được các điều kiện tín dụng phải chịu sự kiểm soát của ngân hàng và chi phí sử dụng vốn. Năng lực tài chính nội tại của doanh nghiệp nhỏ và vừa thấp, các chỉ tiêu tài chính thường không đảm bảo yêu cầu của ngân hàng, thêm vào đó doanh nghiệp không có tài sản có giá trị để làm tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng Đối với tín dụng thương mại, là phương thức tài trợ rẻ, tiện dụng và linh hoạt nhưng mức độ rủi ro cho nhà cung cấp cao cần có quan hệ hợp tác lâu bền có tín nhiệm lẫn nhau. Tín dụng thương mại được hình thành trong quan hệ mua bán chịu, mua bán trả chậm hay trả góp. Theo số liệu điều tra của Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa thuộc Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tiến hành tại hơn 63 nghìn doanh nghiệp ở 30 tỉnh, thành phía Bắc cho thấy quy mô vốn của các doanh nghiệp nhỏ, khả năng tiếp cận nguồn vốn còn thấp: chỉ có 32,38% doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn của Nhà nước mà chủ yếu là các doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp cổ phần hóa; 35,24% số doanh nghiệp khó tiếp cận và 32,38% không tiếp cận được. Việc tiếp cận các nguồn vốn khác cũng khó khăn chỉ có 48,65% số doanh nghiệp tiếp cận được; 30,43% khó tiếp cận và 20,92% không tiếp cận được. 1.1.2.4 Trình độ khoa học công nghệ cũng như trình độ quản lý yếu kém Để thành công trong nền kinh tế cạnh tranh mạnh mẽ như hiện nay, bất kỳ một doanh nghiệp nào cũng quan tâm đến công nghệ, máy móc, thiết bị, các phương pháp và bí quyết sản xuất. Nó giúp doanh nghiệp tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, giảm bớt chi phí sản xuất và tăng năng lực cạnh tranh. Năng lực tiếp nhận, ứng dụng công nghệ vào sản phẩm và quản lý phụ thuộc vào nhận thức, thông tin, nguồn nhân lực và nguồn vốn của doanh nghiệp. Thông thường các doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt là những doanh nghiệp thường xuyến có những thay đổi công nghệ và cần nhiều vốn. Doanh nghiệp nhỏ và vừa với nguồn vốn, trình độ nhân lực hạn chế nên ít có thay đổi công nghệ phù hợp. Thực tế, hầu hết các thiết bị được sử dụng đều rất lạc hậu. Các chủ doanh nghiệp chưa đánh giá hết tầm quan trọng và tính bức bách trong việc đổi mới công nghệ. Đầu tư công nghệ ít quan tâm đến phương pháp và bí quyết sản xuất, đầu tư “nhỏ giọt”, thiếu đồng bộ dẫn đến hiệu suất sử dụng công nghệ không cao. Công nghệ sử dụng trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nước ta, lạc hậu so với các nước trong khu vực từ 2-3 thế hệ, thiết bị máy móc thời gian khấu hao đã hết nhưng vẫn được sửa chữa và sử dụng. Khoảng 8% doanh nghiệp nhỏ và vừa ở phía Bắc đạt trình độ công nghệ tiên tiến mà phần lớn là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các chủ doanh nghiệp không có kiến thức, thông tin, kinh nghiệm về những vấn đề liên quan đến lựa chọn, mua và chuyển giao công nghệ. Doanh nghiệp nhỏ và vừa nước ta được thành lập trong thời kỳ đổi mới chủ yếu là các doanh nghiệp gia đình. Do vậy trình độ quản lý, điều hành thường theo thói quen, kỹ năng quản lý theo định hướng thị trường hiện đại còn thiếu. Tuy trình độ kỹ thuật công nghệ thấp nhưng các doanh nghiệp nhỏ và vừa ít có nhu cầu đào tạo về kỹ thuật công nghệ cũng như trình độ quản lý. 1.1.2.5 Không có hoặc ít có xung đột giữa người lao động và người sử dụng lao động Mối quan hệ chủ, thợ trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa thường là trực tiếp thậm chí chủ doanh nghiệp trực tiếp làm thợ. Quan hệ giữa người lao động và người quản lý khá thân thiếy. Nhiều doanh nghiệp không có sự phân chia phòng ban, bộ phận rõ ràng thậm chí một người có thể đảm nhận nhiều vị trí. Sự ngăn cách giữa người lao động và người sử dụng lao động không lớn, bản thân người sử dụng lao động cũng luôn sát với công việc của người lao động do vậy nếu có xung đột, mâu thuẫn cũng dễ dàng giải quyết. Số lượng các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam gia tăng rất nhanh. Từ năm 2000 đến năm 2004 cả nước có gần 120.000 doanh nghiệp được thành lập, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Cục phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng đặt mục tiêu từ nay đến năm 2010 sẽ có khoảng 320.000 doanh nghiệp nhỏ và vừa được thành lập, trong đó có khoảng 3 - 6% doanh nghiệp nhỏ và vừa trực tiếp tham gia xuất khẩu. Tuy nhiên, đại bộ phận các doanh nghiệp nhỏ và vừa có số lượng đầu tư ban đầu thấp, gần 50% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 1 tỷ đồng, gần 75% số doanh nghiệp có mức vốn dưới 2 tỷ đồng và 90% doanh nghiệp có mức vốn dưới 5 tỷ đồng. Các doanh nghiệp nhỏ và vừa còn gặp nhiều khó khăn về công nghệ, trình độ quản lý, khả năng tiếp cận thị trườngHậu quả của những hạn chế đó là năng suất, chất lượng sản phẩm cũng như hiệu quả đầu tư thấp. Hàng hóa của các doanh nghiệp không thể cạnh tranh trên thị trường, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, phá sản. Khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở Việt Nam là thiếu các chính sách điều tiết kinh tế vĩ mô của Chính phủ. Hệ thống chính sách, luật pháp và các tổ chức hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa chưa hoàn thiện. Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế đất nước, doanh nghiệp nhỏ và vừa có nhiều cơ hội để phát triển và rất cần đến sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Vai trò của doanh nghiệp nhỏ và vừa trong nền kinh tế Khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội tùy heo trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước mà vai trò đó cungc được thể hiện khác nhau. Đối với các nước công nghiệp phát triển cao, các tập đoàn kinh tế lớn chi phối nền kinh tế, nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn có vai trò quan trọng trên các mặt. Ở Nhật Bản, doanh nghiệp nhỏ và vừa được coi là một nguồn lực đảm bảo sức sống của nền kinh tế, là bộ phận hợp thành quan trọng của cơ cấu quy mô nhiều tầng của các công ty lớn xuyên quốc gia. Đối với các nước đang phát triển và chậm phát triển ngoài vai trò là bộ phận hợp thành của kinh tế quốc dân, doanh nghiệp nhỏ và vừa còn có vai trò chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tiến hàng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, giải quyết các vấn đề xã hội. Cụ thể: 1.1.3.1 Doanh nghiệp nhỏ và vừa có khả năng tận dụng các nguồn lực xã hội Về tiềm lực vốn: Nhờ sự đa dạng hóa trong các loại hình sản xuất kinh doanh, khởi sự bằng nguồn vốn hạn hẹp. doanh nghiệp nhỏ và vừa thu hút được đông đảo người dân tham gia. Do đó, nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư được đưa vào đầu tư sản xuất kinh doanh, hạn chế tiêu dùng không sinh lợi. Về lao động: Mặc dù số lượng lao động ở từng doanh nghiệp không nhiều nhưng doanh nghiệp nhỏ và vừa lại chiếm khoản 90-99% tổng số lượng các doanh nghiệp các nước. Do đó, tổng số lao động làm việc trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm tỷ lệ đáng kể từ 50-80%. Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường nhằm vào mục tiêu sản xuất kinh doanh phục vụ nhu cầu tiêu dùng của nhân dân, sử dụng nhiều lao động, ít vốn với chi phí thấp nên phần lớn lao động trong khu vực này không đòi hỏi trình độ cao, mất nhiều thời gian đào tạo và chi phí tốn kém mà chỉ cần bồi dưỡng hoặc đào tạo ngắn ngày là người lao động có thể tham gia sản xuất trong doanh nghiệp. Khi những doanh nghiệp lớn ứng dụng công nghệ tự động hóa, lao động phổ thông dư thừa, cầu lao động phổ thông đối với doanh nghiệp lớn giảm mạnh. Doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là nơi thu hút, tiếp nhận và đảm bảo thu nhập cho họ. Có thể nói doanh nghiệp nhỏ và vừa là “van điều hòa lao động” trong xã hội. Trong tiến trình đẩy mạnh cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, đã xuất hiện một bộ phận không nhỏ lao động dư thừa, với những kinh nghiệm đã tích lũy được trong quá trình lao động, họ có thể thành lập các doanh nghiệp nhỏ hay tìm kiếm việc làm tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Những người lao động này có thể đóng góp quan trọng vào sự phát triển của các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Về kỹ thuật: Doanh nghiệp nhỏ và vừa thường lựa chọn kỹ thuật phù hợp với trình độ lao động khả năng về vốn. Họ kết hợp kỹ thuật thủ công với kỹ thuật mà người lao động có thể nhanh chóng tiếp thu và làm chủ trong sản xuất. 1.1.3.2 Đóng góp quan trọng vào GDP và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Sự phát triển nhanh các doanh nghiệp nhỏ và vừa cả số lượng lẫn chất lượng đã đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế và sự gia tăng thu nhập của các nước. Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa làm số lượng các doanh
Luận văn liên quan