Đề tài Giải pháp nhằm tăng khả năng tái tục hợp đồng Bảo Hiểm trong nghiệp vụ Bảo Hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty Bảo Hiểm Hà Tây

Bảo hiểm (BH) là một ngành dịch vụ tài chính có phạm vi hoạt động rộng liên quan đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác. Đặc điểm tạo nên sự khác biệt quan trọng của BH so với các ngành tài chính khác, đồng thời củng cố vai trò của BH trong đời sống xã hội là: BH cung cấp cơ chế bảo đảm tài chính tốt nhất cho cá nhân và các tổ chức – một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại. Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu đi lại của nhân dân ngày càng tăng, số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông gia tăng nhanh chóng và hết sức đa dạng, phong phú. Đặc biệt là xe cơ giới, với tính cơ động cao, tính việt dã tốt, tham gia triệt để quá trình vận chuyển nên lượng xe tham gia giao thông ngày càng nhiều. Mặc dù xe cơ giới ngày một hiện đại hơn, cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn gia tăng qua các năm làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tàI sản của con người. Vì thế, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (BHTNDS) ra đời là hết sức cần thiết và được triển khai dưới hình thức bắt buộc theo quy định của pháp luật. Tiến hành BHTNDS của chủ xe cơ giới nhằm bảo vệ quyền lợi của nạn nhân và chủ xe khi gặp sự cố rủi ro, bất trắc. Đồng thời cũng nâng cao được ý thức, trách nhiệm chấp hành luật lệ giao thông, đảm bảo an toàn và thể hiện tính nhân đạo vì cộng đồng. Hợp đồng (HĐ) BHTNDS của chủ xe cơ giới chỉ có hiệu lực 1 năm nên khi thời hạn của HĐ chấm dứt công ty BH muốn những khách hàng này tiếp tục tham gia BH tại công ty mình. Việc giữ khách hàng đối với công ty BH không những giúp duy trì thị phần mà còn giúp công ty tiết kiệm được các chi phí như: chi phí khai thác HĐ mới, chi phí quảng cáo, đồng thời củng cố và tăng cường vị thế của công ty. Nhận thức được tầm quan trọng này, qua thời gian thực tập tại công ty Bảo hiểm Hà Tây (BHHT) em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Giải pháp nhằm tăng khả năng tái tục hợp đồng bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm Hà Tây” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu và kết luận nội dung của chuyên đề được chia làm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về BHTNDS của chủ xe cơ giới Chương II: Tình hình tái tục nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Tây giai đoạn 2000-2004 Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng tái tục BHTNDS của chủ xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Tây

doc83 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 2456 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giải pháp nhằm tăng khả năng tái tục hợp đồng Bảo Hiểm trong nghiệp vụ Bảo Hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty Bảo Hiểm Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Bảo hiểm (BH) là một ngành dịch vụ tài chính có phạm vi hoạt động rộng liên quan đến mọi lĩnh vực trong cuộc sống hàng ngày cũng như trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh khác. Đặc điểm tạo nên sự khác biệt quan trọng của BH so với các ngành tài chính khác, đồng thời củng cố vai trò của BH trong đời sống xã hội là: BH cung cấp cơ chế bảo đảm tài chính tốt nhất cho cá nhân và các tổ chức – một nhu cầu không thể thiếu trong cuộc sống hiện đại. Khi nền kinh tế – xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu đi lại của nhân dân ngày càng tăng, số lượng các loại phương tiện tham gia giao thông gia tăng nhanh chóng và hết sức đa dạng, phong phú. Đặc biệt là xe cơ giới, với tính cơ động cao, tính việt dã tốt, tham gia triệt để quá trình vận chuyển nên lượng xe tham gia giao thông ngày càng nhiều. Mặc dù xe cơ giới ngày một hiện đại hơn, cơ sở hạ tầng giao thông ngày càng được mở rộng, nâng cấp và hoàn thiện, song tai nạn giao thông vẫn gia tăng qua các năm làm ảnh hưởng trực tiếp đến tính mạng và tàI sản của con người. Vì thế, bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới (BHTNDS) ra đời là hết sức cần thiết và được triển khai dưới hình thức bắt buộc theo quy định của pháp luật. Tiến hành BHTNDS của chủ xe cơ giới nhằm bảo vệ quyền lợi của nạn nhân và chủ xe khi gặp sự cố rủi ro, bất trắc. Đồng thời cũng nâng cao được ý thức, trách nhiệm chấp hành luật lệ giao thông, đảm bảo an toàn và thể hiện tính nhân đạo vì cộng đồng. Hợp đồng (HĐ) BHTNDS của chủ xe cơ giới chỉ có hiệu lực 1 năm nên khi thời hạn của HĐ chấm dứt công ty BH muốn những khách hàng này tiếp tục tham gia BH tại công ty mình. Việc giữ khách hàng đối với công ty BH không những giúp duy trì thị phần mà còn giúp công ty tiết kiệm được các chi phí như: chi phí khai thác HĐ mới, chi phí quảng cáo, đồng thời củng cố và tăng cường vị thế của công ty. Nhận thức được tầm quan trọng này, qua thời gian thực tập tại công ty Bảo hiểm Hà Tây (BHHT) em đã mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Giải pháp nhằm tăng khả năng tái tục hợp đồng bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới tại công ty Bảo hiểm Hà Tây” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Ngoài lời mở đầu và kết luận nội dung của chuyên đề được chia làm 3 chương: Chương I: Lý luận chung về BHTNDS của chủ xe cơ giới Chương II: Tình hình tái tục nghiệp vụ BHTNDS của chủ xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Tây giai đoạn 2000-2004 Chương III: Một số kiến nghị nhằm nâng cao khả năng tái tục BHTNDS của chủ xe cơ giới tại Bảo Việt Hà Tây Qua bài viết này, em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Th.S Tô Thiên Hương cùng các thầy cô trong bộ môn BH – trường Đại học Kinh tế quốc dân cũng như các cô chú, anh chị cán bộ tại công ty Bảo hiểm Hà Tây đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề này. Do thời gian và sự hiểu biết của bản thân còn hạn chế nên bài viết của em khó tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự tham gia, góp ý để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Hà Nội, ngày 6/5/2005 CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM 1. Sự cần thiết phải bảo hiểm trách nhiệm Trong cuộc sống cũng như trong sản xuất đôi khi chủ các phương tiện vận tải, chủ sử dụng lao động hoặc chủ sản xuất sản phẩm trong quá trình hoạt động cũng như tiến hành các công việc của mình gây thiệt hại cho người khác và bản thân anh ta lại có lỗi. Vì thế đã làm phát sinh trách nhiệm dân sự (TNDS) và theo luật dân sự của mỗi nước anh ta phải tiến hành bồi thường cho người bị hại. Mức bồi thường cao hoặc thấp, lớn hoặc nhỏ trước hết phụ thuộc vào lỗi của anh ta cũng như mức độ thiệt hại của người nạn nhân. Trong điều kiện tiến bộ khoa học kỹ thuật và với quy mô sản xuất ngày càng lớn thì đôi khi thiệt hại do những người này gây ra vượt quá khả năng tự bồi thường của họ. Điều đó gây nên rất nhiều phiền toái cho các cơ quan pháp luật và ngày càng làm cho các án dân sự tăng lên chồng chất và đôi khi không giải quyết được. Chính vì vậy, bảo hiểm trách nhiệm dân sự (BHTNDS) ra đời và nó được triển khai trước hết ở các nước công nghiệp phát triển và ngày nay bất cứ nước nào có bảo hiểm thương mại thì đều có BHTNDS. Ngày nay việc triển khai loại hình BHTNDS là cần thiết khách quan và có vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế chính trị của mỗi nước Vai trò của BHTN thể hiện ở chỗ: - Nâng cao được nhận thức và trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm - Giúp các tầng lớp dân cư nhận thức sâu sắc hơn về hệ thống pháp luật của nước minh để từ đó chấp hành và thực hiện tốt pháp luật - Giúp cho mọi hoạt động trong xã hội đI vào một quỹ đạo chung dưới sự điều tiết của pháp luật từ đó góp phần đảm bảo an toàn cho xã hội - Xét về mặt kinh tế tham gia BHTNDS luôn luôn mang lại lợi ích thiết thực cho họ bởi lẽ người tham gia không phải chi ra một khoản tiền lớn thậm chí rất lớn để bồi thường cho người bị hại khi không may TNDS thuộc về mình. Từ đó góp phần ổn định cuộc sống, ổn định sản xuất kinh doanh cho người tham gia bảo hiểm - BHTNDS ra đời còn giúp hệ thống pháp luật của mỗi nước đồng bộ hơn để từ đó góp phần quản lý tốt mọi mặt trong đời sống xã hội 2. Đặc điểm của bảo hiểm trách nhiệm a. Đối tượng bảo hiểm mang tính trừu tượng Đối tượng bảo hiểm của các hợp đồng BHTN là phần trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường các thiệt hại, do đó rất trừu tượng. Hơn nữa, trách nhiệm là bao nhiêu cũng không xác định được ngay lúc tham gia bảo hiểm. Thông thường trách nhiệm pháp lý phát sinh khi có đủ 3 điều kiện sau: - Có thiệt hại thực tế của bên thứ ba - Có hành vi trái pháp luật của cá nhân hay tổ chức - Có quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của cá nhân hay tổ chức và thiệt hại của bên thứ ba Mức độ thiệt hại do trách nhiệm pháp lý phát sinh bao nhiêu là hoàn toàn do sự phán xử của toà án. Thông thường, thiệt hại này được tính dựa trên mức độ lỗi của người gây ra và thiệt hại của bên thứ ba. Tuy nhiên, trong thực tế cũng có những trường hợp toà án sẽ không căn cứ vào mức độ lỗi để phán xử, mà căn cứ vào khả năng tài chính của người gây ra thiệt hại b. Bảo hiểm trách nhiệm thường được thực hiện dưới hình thức bắt buộc Việc thực hiện dưới hình thức bắt buộc có những mặt tích cực và tiêu cực đối với những công ty bảo hiểm * Tích cực: + Giúp các công ty bảo hiểm khai thác bảo hiểm dễ dàng hơn để từ đó tăng doanh thu và phí bảo hiểm + Làm cho người dân ngày càng hiểu biết sâu sắc hơn về bảo hiểm + Nếu các công ty có khả năng tài chính tốt anh ta có thể nâng cao hạn mức trách nhiệm của mình. Đây thực chất là vấn đề đa dạng hoá sản phẩm để cạnh tranh đối với các đối tượng khác * Tiêu cực: + Vì thực hiện dưới hình thức bắt buộc cho nên người dân tham gia bảo hiểm luôn luôn diễn ra hiện tượng tâm lý bị ức chế : họ luôn luôn có cảm giác công ty bảo hiểm đến thu nợ, thu thuế của họ. Vì vậy nếu công ty thực hiện không tốt thì tâm lý diễn ra ngày càng nặng nề hơn + Đặc biệt trong thời kỳ đầu triển khai BHTNDS do ý thức của người dân cũng như do sự hiểu biết chưa đầy đủ cho nên họ rất dễ nhầm lẫn giữa các nghiệp vụ BHTN này với các nghiệp vụ bảo hiểm tàI sản có liên quan. Từ đó đã phát sinh thêm những khiếu nại không cần thiết trong quá trình bồi thường c. Có thể áp dụng giới hạn trách nhiệm hoặc không Bởi vì thiệt hại TNDS phát sinh chưa thể xác định được ngay tại thời điểm tham gia bảo hiểm và thiệt hại đó có thể là rất lớn. Bởi vậy, để nâng cao trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm, các công ty hoặc nhà nước thường phải ấn định những hạn mức trách nhiệm (HMTN) cụ thể của mình Hạn mức này có thể cao hoặc thấp phụ thuộc vào điều kiện kinh tế xã hội cũng như khả năng tài chính của các công ty BH. HMTN có thể quy định bằng số tương đối hoặc số tuyệt đối tuỳ theo từng nghiệp vụ BH HMTN cao hoặc thấp còn tuỳ thuộc vào điều kiện kinh doanh của mỗi công ty và luôn thay đổi cho phù hợp từng thời kỳ, giai đoạn hoặc chu kỳ sản phẩm. Việc xác định HMTN phù hợp rất quan trọng đối với các công ty BH bởi vì nó quan hệ trực tiếp đến khả năng tài chính của khách hàng HMTN của một số loại hình BHTN như: trách nhiệm của các hãng hàng không, trách nhiệm của chủ sử dụng lao động, trách nhiệm của các chủ doanh nghiệp (DN)…là những vấn đề liên quan đến độ an toàn rất cao của những người tham gia BH đó cho nên các công ty BH thường đưa ra những HMTN khác nhau để họ dễ dàng lựa chọn - Quy mô các loại hình DN hiện nay khác nhau là khác nhau - Trong cơ chế thị trường mỗi DN đều có những thời kỳ phát triển thành đạt nhưng cũng có thời kỳ gặp khó khăn, thậm chí phá sản cho nên các mức trách nhiệm khác nhau là điều kiện để họ dễ dàng lựa chọn - Trong cơ chế thị trường có rất nhiều loại hình công ty BH kinh doanh loại hình BH này. Để thực hiện cạnh tranh thì mỗi công ty BH đều đưa ra nhiều HMTN khác nhau cho phù hợp với khả năng tài chính của mình cũng như khách hàng tiềm năng của mình d. Bảo hiểm trách nhiệm cũng áp dụng nguyên tắc bồi thường và nguyên tắc thế quyền hợp pháp giống như BH tài sản bởi lẽ thực chất ở đây cũng là BH thiệt hại chỉ có điều thiệt hại ở đây không liên quan trực tiếp đến người tham gia BH mà liên quan đến người thứ ba 3. Các loại hình bảo hiểm trách nhiệm cơ bản - BHTNDS của các chủ phương tiện vận tải: + BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba + BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với hành khách + BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với hàng hóa trên xe + BHTNDS của nhà vận chuyển trong ngành hàng không dân dụng + BHTNDS của chủ tàu thuyền + BHTNDS của chủ sử dụng lao động đối với người lao động - BHTNDS của chủ nuôi chó - Bảo hiểm trách nhiệm đối với sản phẩm - Bảo hiểm trách nhiệm pháp lý đối với những luật sư, bác sĩ - Bảo hiểm trách nhiệm công cộng - Bảo hiểm trách nhiệm chung II. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NGHIỆP VỤ BẢO HIỂM TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ CỦA CHỦ XE CƠ GIỚI BHTNDS của chủ xe cơ giới bao gồm: - BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba - BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với hành khách - BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với hàng hoá 1. Tác dụng của bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới BH là sự chuyển giao rủi ro trên cơ sở hợp đồng, tức là người BH nhận về mình những rủi ro của người được BH (ví dụ như tuổi thọ, tình trạng sức khoẻ, tổn thất tài sản, trách nhiệm) để đổi lấy phí của người tham gia BH. BHTNDS của chủ xe cơ giới có nhiều tác dụng khác nhau đối với không chỉ chủ phương tiện mà còn với cả xã hội. Thứ nhất, tích cực góp phần ngăn ngừa và đề phòng tai nạn giao thông đường bộ, thông qua các hoạt động đề phòng và hạn chế tổn thất của các nhà BH. Những năm qua, Tổng công ty BHVN đã chi nhiều tỷ đồng cùng Bộ Giao thông vận tải làm công tác đề phòng hạn chế tai nạn giao thông, xây dựng trên 20 đường lánh nạn và tường phòng hộ trên các đèo dốc nguy hiểm. Chỉ tính riêng đường lánh nạn trên đèo Măng Giang đã cứu được trên 100 xe các loại bị mất phanh, số người, tài sản được cứu không thể tính bằng tiền, có ý nghĩa xã hội rất lớn. Thứ hai, góp phần ổn định tài chính cho các chủ xe, giúp các chủ xe khắc phục sự cố tiếp tục sản xuất, kinh doanh khi bất chợt phải chi một khoản tiền lớn ngoài dự kiến, đó là bồi thường cho người bị nạn. Thứ ba, tích cực góp phần xoa dịu bớt sự căng thẳng giữa chủ xe với phía nạn nhân trong mỗi vụ tai nạn. Đồng thời thông qua nghiệp vụ này giúp lái xe ý thức được trách nhiệm của mình khi điều khiển, sử dụng xe. Làm giảm thiểu số vụ tai nạn xảy ra. Thứ tư, nghiệp vụ này ra đời còn góp phần giảm bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước, tăng thu ngân sách để từ đó có điều kiện đầu tư trở lại nền kinh tế, nâng cấp cơ sở hạ tầng giao thông và tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động. Thứ năm, thông qua tài liệu thống kê của nghiệp vụ giúp các công ty BH và các cơ quan hữu quan nhận biết được các rủi ro và nguyên nhân gây ra rủi ro, để từ đó phối hợp thực hiện các biện pháp đề phòng hạn chế tổn thất. Giảm thiểu đến mức thấp nhất có thể thiệt hại do tai nạn giao thông gây ra. 2. Các loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới Xe cơ giới là các loại xe chạy trên đường bộ bằng động cơ của chính mình (trừ xe đạp máy) 2.1. Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là phần trách nhiệm được xác định bằng tiền theo quy định của luật pháp và sự phán quyết của toà án quyết định chủ xe phải gánh chịu do lưu hành xe của mình gây tai nạn cho người thứ ba. Người thứ ba thực chất là phía nạn nhân trong vụ tai nạn. Người thứ ba có thể là 1 người, có thể là nhiều người, có thể là tài sản, hoa màu, nhà cửa, cầu cống…Tuy nhiên những trường hợp sau đây luật kinh doanh BH của các nước không coi là người thứ ba. - Thân nhân của chủ xe và lái xe. - Những người làm công cho chủ xe và lái xe. - Tư trang hành lý và tài sản của mỗi người nói trên. a. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm * Đối tượng bảo hiểm: Người tham gia BH thông thường là chủ xe, có thể là cá nhân hay đại diện cho một tập thể. Nhà BH chỉ nhận BH cho phần TNDS của chủ xe phát sinh do sự hoạt động và điều khiển xe cơ giới của người lái xe mà không chịu trách nhiệm bồi thường vật chất thân xe và cũng không chịu trách nhiệm về hình sự của lái xe. Như vậy, đối tượng được BH là nghĩa vụ, trách nhiệm bồi thường của chủ xe khi xe của anh ta đang lưu hành gây tai nạn cho người thứ ba. TNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là trách nhiệm hay nghĩa vụ bồi thường ngoài hợp đồng của chủ xe hay lái xe cho người thứ ba do việc lưu hành xe gây tai nạn. Đối tượng được BH không được xác định trước.Chỉ khi nào việc lưu hành xe gây ra tai nạn có phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba thì đối tượng này mới được xác định cụ thể. Các điều kiện phát sinh TNDS của chủ xe đối với người thứ ba bao gồm: Thứ nhất, chủ xe ( lái xe) phải có hành vi trái pháp luật. Có thể do vô tình hay cố ý mà lái xe vi phạm luật giao thông đường bộ, hoặc vi phạm các qui định khác của Nhà nước. Thứ hai, người thứ ba phải có thiệt hại thực tế về tài sản, tính mạng hoặc sức khỏe. Thứ ba, phải có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của chủ xe (lái xe) với những thiệt hại của người thứ ba. Thứ tư, chủ xe (lái xe) phải có lỗi Thực tế chỉ cần đồng thời xảy ra ba điều kiện thứ nhất, thứ hai, thứ ba là phát sinh TNDS đối với người thứ ba của chủ xe (lái xe). Nếu thiếu một trong ba điều kiện trên TNDS của chủ xe sẽ không phát sinh, và do đó không phát sinh trách nhiệm của BH. Điều kiện thứ tư có thể có hoặc không, vì nhiều khi tai nạn xảy ra là do tính nguy hiểm cao độ của xe cơ giới mà khách hàngông hoàn toàn do lỗi của chủ xe (lái xe). Ví dụ: xe đang chạy bị nổ lốp, lái xe mất khả năng điều khiển nên đã gây tai nạn. Trong trường hợp này, TNDS vẫn có thể phát sinh nếu có đủ ba điều kiện đầu tiên. BHTNDS của chủ xe cơ giới đối với người thứ ba là loại hình được thực hiện bắt buộc, vì: Thứ nhất, đây là một trong những nghiệp vụ liên quan nhiều đến các bộ luật của quốc gia mà đã là luật pháp thì mọi công dân trong xã hội phải tự giác nghiêm túc thực hiện một cách bắt buộc. Thứ hai, thực hiện bắt buộc là nhằm đảm bảo tính công bằng trong xã hội và đảm bảo quyền lợi cho mọi công dân Thứ ba, thực hiện bắt buộc còn góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm của các chủ xe và giúp các cơ quan hữu quan có liên quan quản lý tốt các đầu xe cơ giới. * Phạm vi bảo hiểm Người BH nhận bảo đảm cho các rủi ro bất ngờ không lường trước được gây ra tai nạn và làm phát sinh trách nhiệm dân sự của chủ xe. Cụ thể, các thiệt hại thuộc phạm vi BH bao gồm: - Tai nạn gây thiệt hại đến tính mạng và tình trạng sức khỏe của người thứ ba - Tai nạn gây thiệt hại đến tài sản, hàng hoá… của người thứ ba - Tai nạn gây thiệt hại đến sản xuất kinh doanh của người thứ ba Ở Việt Nam hiện nay thiệt hại về tài sản và kinh doanh được gọi chung là thiệt hại về tài sản. - Tai nạn gây thiệt hại đến tính mạng và tình trạng sức khoẻ của người tham gia cứu chữa trong vụ tai nạn - Những chi phí cần thiết và hợp lý để ngăn ngừa hạn chê thiệt hại, các chi phí thực hiện biện pháp đề xuất của cơ quan BH (kể cả biện pháp không mang lại hiệu quả) Bên cạnh đó, có những rủi ro nhà BH không chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại như: - Hành động cố ý gây thiệt hại của chủ xe/ lái xe, hoặc của người bị thiệt hại - Xe không có giấy chứng nhận kiểm định an toàn kỹ thuật và môi trường (đối với loại xe yêu cầu phải có) - Lái xe không có giấy phép lái xe hợp lệ (đối với loại xe cơ giới bắt buộc phải có giấy phép lái xe), lái xe có nồng độ cồn, rượu, bia vượt quá quy định của pháp luật hiện hành, khi có kết luận bằng văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc có các chất kích thích khác mà pháp luật cấm sử dụng - Xe sử dụng để đua thể thao, đua xe trái phép, chạy thử sau khi sửa chữa (trừ khi có thoả thuận khác) - Xe đi vào đường cấm, khu vực cấm - Thiệt hại có tính chất gây ra hậu quả gián tiếp như: giảm giá trị thương mại, thiệt hại gắn liền với việc sử dụng và khai thác tài sản bị thiệt hại - Thiệt hại đối với tài sản bị mất cắp hoặc bị cướp trong tai nạn - Chiến tranh và các nguyên nhân tương tự như chiến tranh Thiệt hại đối với tài sản đặc biệt bao gồm: vàng bạc, đá quý, tiền, các loại giấy tờ có giá trị như tiền, đồ cổ, tranh ảnh quý hiếm, thi hài, hài cốt b. Phí bảo hiểm Phí BHTNDS thường được tính cho từng đầu xe, từng loại xe. Các loại xe khác nhau có mức phí khác nhau Ở Việt Nam xe cơ giới được chia làm 2 loại xe để tính phí BH: - Mô tô: được chia làm 2 loại nhỏ để tính phí + Loại 50 phân khối + Loại trên 50 phân khối - Ô tô: được chia thành các loại sau + Xe con 4 chỗ ngồi trở xuống + Xe chở khách được chia làm 2 loại . Loại từ 24 chỗ ngồi trở xuống . Loại trên 24 chỗ ngồi + Xe tải được chia ra như sau: . Dưới 3 tấn . Từ 3 đến 8 tấn . Trên 8 tấn + Xe chuyên dùng: cứu thương, cứu hoả Thời hạn BH từ 1 năm trở xuống vì vậy có cả phí cả năm và phí ngắn hạn theo tháng Công thức tính phí (phí tính theo năm) : P= f +d Trong đó: P – Phí BH trên đầu phương tiện f - Phí thuần d- Phụ phí Phí thuần được tính theo công thức: f = trong đó: Si : số vụ tai nạn xảy ra năm thứ i có phát sinh TNDS Ti: là thiệt hại bình quân mỗi vụ tai nạn năm thứ i có phát sinh TNDS Ci: số xe tham gia BHTNDS năm thứ i n: thứ tự các năm lấy số liệu tính toán Như vậy, f thực chất là số tiền bồi thường bình quân trong thời kỳ n năm cho mỗi đầu phương tiện tham gia BH trong thời kỳ đó Công thức trên được tính cho từng loại xe. Nếu công ty BH mới thành lập hoặc lần đầu tiên triển khai nghiệp vụ BH này phải căn cứ vào số liệu điều tra hoặc số liệu của cảnh sát giao thông hoặc sử dụng biểu phí của một công ty nào đó ở một nước sau đó được thực hiện và điều chỉnh dần Đối với các phương tiện hoạt động ngắn hạn (dưới 1 năm) thời gian tham gia BH được tính tròn theo tháng và phí BH được xác định như sau:  Hoặc : P ngắn hạn = P năm ( Tỷ lệ phí ngắn hạn theo tháng Trường hợp đã đóng phí (tham gia BH) cả năm nhưng vào một thời điểm nào đó phương tiện không hoạt động nữa hoặc chuyển sở hữu mà không chuyển quyền BH thì chủ phương tiện sẽ được hoàn phí BH tương ứng với số thời gian còn lại của năm (làm tròn theo tháng) nếu trước đó chủ phương tiện chưa có khiếu nại và được BH bồi thường Số phí hoàn lại được xác định như sau:  c. Trách nhiệm bồi thường của bảo hiểm Khi tai nạn xảy ra, để yêu cầu người BH bồi thường, chủ xe (lái xe) phải gửi hồ sơ khiếu nại bồi thường cho người BH, hồ sơ bao gồm các giấy tờ sau: - Thông báo tai nạn và yêu cầu bồi thường - Các giấy tờ chứng minh thiệt hại về người như giấy chứng thương của nạn nhân, giấy ra viện, phiếu mổ và các giấy tờ liên quan đến các chi phí chăm sóc, cứu chữa, giấy chứng tử của nạn nhân, các chứng từ điều trị, chi phí mai táng - Các giấy tờ chứng minh thiệt hại tài sản như hoá đơn sửa, thay mới tài sản bị thiệt hại do tai nạn, các giấy tờ chứng minh các chi phí cần thiết và hợp lý mà chủ xe đã chi ra để giảm thiểu tổn thất hay để thực hiện chỉ dẫn của DNBH - Bản k
Luận văn liên quan