Đề tài Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu

C.Mác đã từng nói: “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Hay nói cách khác, để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào các mối quan hệ khác nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật dân sự mà nhìn nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho nên giao dịch dân sự đã được đưa vào BLDS nước ta nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao dịch dân sự hợp pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch vi phạm vào một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gọi là giao dịch dân sự vô hiệu. Khi đó, tùy theo yêu cầu của các bên có quyền và lợi ích liên quan hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch. Những quy định này góp phần ổn định giao lưu dân sự đồng thời có thể kiểm soát được các giao dịch dân sự, tránh làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng. Do tính cấp thiết của vấn đề nên em đã chọn đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”.

doc22 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2279 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐẶT VẤN ĐỀ C.Mác đã từng nói: “con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”. Hay nói cách khác, để có thể tồn tại được, mỗi người đều phải tham gia vào các mối quan hệ khác nhau, tạo nên mối dây liên kết với thế giới xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vật chất cũng như tinh thần của bản thân. Một trong những hoạt động tích cực và hiệu quả nhất của con người nhằm hướng tới mục đích đó là việc tham gia vào các loại giao dịch khác nhau, trong đó có giao dịch dân sự. Xét dưới góc độ của môn khoa học luật dân sự mà nhìn nhận thì giao dịch dân sự là phương tiện khá hữu hiệu để thỏa mãn quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Với ý nghĩa và tầm quan trọng như vậy cho nên giao dịch dân sự đã được đưa vào BLDS nước ta nhằm bảo đảm quyền và nghĩa vụ của chủ thể phát sinh từ giao dịch bằng các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước. Tính bảo đảm đó không chỉ được thực hiện trong những giao dịch dân sự hợp pháp mà còn phát sinh từ các giao dịch vi phạm vào một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự gọi là giao dịch dân sự vô hiệu. Khi đó, tùy theo yêu cầu của các bên có quyền và lợi ích liên quan hoặc theo quy định của pháp luật mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền sẽ tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và giải quyết hậu quả pháp lý của việc tuyên bố đó nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên khi tham gia giao dịch. Những quy định này góp phần ổn định giao lưu dân sự đồng thời có thể kiểm soát được các giao dịch dân sự, tránh làm thiệt hại đến lợi ích của các chủ thể khác, lợi ích Nhà nước và lợi ích công cộng. Do tính cấp thiết của vấn đề nên em đã chọn đề tài: “Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu”. GiẢI QUYẾT VẤN ĐỀ I. Nhận thức chung về giao dịch dân sự : 1. Khái niệm giao dịch dân sự: 1.1. Định nghĩa : Chế định giao dịch dân sự lần đầu tiên được quy định trong BLDS nước ta ban hành ngày 28/10/1995 và có hiệu lực ngày 1/7/1996, sau đó được sửa đổi, bổ sung trong BLDS hiện hành 2005. Trước khi BLDS 2005 ra đời, giao dịch dân sự chưa được quy định một cách riêng rẽ, cụ thể. Với sự ra đời của BLDS 1995, giao dịch dân sự đã chính thức được đề cập đến (khái niệm, điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, giao dịch dân sự vô hiệu…). Sự củng cố và bổ sung các quy định này trong BLDS 2005 đã chứng minh ý nghĩa, vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh quan hệ dân sự nước ta. Trong thực tiễn đời sống xã hội, đa số các quan hệ dân sự đều được điều chỉnh thông qua hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương gọi chung là giao dịch dân sự. Tại điều 121, BLDS 2005 xác định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”. Theo đó, chỉ những giao dịch là hành vi pháp lý đơn phương hoặc được xác lập bằng hợp đồng thì mới là giao dịch dân sự. Đây cũng là cách phân loại phổ biến nhất của giao dịch dân sự hiện nay. Hợp đồng dân sự là loại giao dịch dân sự rất phổ biến trong cuộc sống hàng ngày. Xét về bản chất, hợp đồng dân sự là cách thể hiện ý chí chủ quan của các bên khi xác lập hợp đồng dân sự hay có thể nói nó là sự thỏa thuận ý chí của 2 hay nhiều bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Mọi cam kết, thỏa thuận hợp pháp ghi trong hợp đồng được Nhà nước bảo hộ. Nhìn chung, hợp đồng dân sự khá đa dạng và phong phú. Hành vi pháp lý đơn phương là giao dịch trong đó thể hiện ý chí của 1 bên nhằm làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Bên chủ thể đó có thể gồm một người hoặc nhiều người (ví dụ như vợ chồng lập di chúc chung). Hành vi pháp lý đơn phương là một giao dịch cho nên cũng phải đáp ứng những điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và cũng có thể bị tuyên bố vô hiệu nếu không đáp ứng một trong các điều kiện đó. Ngoài ra, bất kỳ một giao dịch dân sự nào cũng làm phát sinh hậu quả pháp lý nhất định đó chính là các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể được pháp luật bảo đảm thực hiện. Thông thường các giao dịch dân sự đó chỉ phát sinh hiệu lực khi phù hợp với các quy định của pháp luật. Trong trường hợp ngược lại, giao dịch dân sự đó sẽ bị tuyên bố là vô hiệu và phát sinh những hậu quả pháp lý từ việc tuyên bố đó. 1.2. Các nguyên tắc của giao dịch dân sự: Để có thể xác định những tư tưởng chỉ đạo chung cho các giao dịch dân sự nhằm bảo đảm cho các giao dịch đó luôn được thực hiện trong vòng trật tự nhất định, các nhà làm luật đã đề ra 1 số nguyên tắc của giao dịch dân sự như sau: Nguyên tắc tôn trọng lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Nguyên tắc không trái pháp luật, đạo đức xã hội . Nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, trung thực trong giao dịch dân sự . Nguyên tắc mọi thỏa thuận, cam kết hợp pháp trong giao dịch dân sự có hiệu lực đều bắt buộc thi hành. Nguyên tắc hòa giải. Nguyên tắc bảo vệ quyền dân sự. 1.3. Đặc điểm của giao dịch dân sự: Với việc tôn trọng và tuân thủ các nguyên tắc trên, giao dịch dân sự luôn mang một số đặc điểm đặc thù như sau: Giao dịch dân sự phải thể hiện được ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch: việc tham gia bất kỳ một giao dịch nào của các chủ thể đều nhằm đạt được những lợi ích vật chất và tinh thần nhất định, từ đó mới hình thành nên sự thỏa thuận về các quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia giao dịch. Cho nên có thể nói ý chí của chủ thể tham gia là cơ sở hình thành giao dịch dân sự. Tuy nhiên muốn hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự phát sinh theo chiều hướng các bên mong muốn thì nhất thiết phải có sự thể hiện, bày tỏ ý chí thống nhất vơi nguyện vọng bên trong của các chủ thể. Các bên tham gia giao dịch phải tự nguyện: đó là sự thống nhất giữa ý chí và sự bày tỏ ý chí ra bên ngoài của các chủ thể và là sự thỏa thuận ý chí giữa các bên tham gia giao dịch. Đây là nguyên tắc quan trọng trong việc thiết lập giao dịch Chế tài trong giao dịch mang tính chất bắt buộc nhưng cũng rất linh hoạt: chế tài trong giao dịch dân sự là những biện pháp cưỡng chế mà pháp luật quy định buộc các bên chủ thể tham gia phải thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình nếu giao dịch đó có hiệu lực, đồng thời cũng là các biện pháp xử lý, giải quyết hậu quả pháp lý phát sinh nếu giao dịch đó vô hiệu. Nội dung của pháp luật không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội: giao dịch dân sự được xây dựng nên trên cơ sở đảm bảo quyền tự do ý chí của các chủ thể tham gia giao dịch cho nên các chủ thể có quyền tự đặt ra những nội dung, cam kết phù hợp với sự thỏa thuận của các bên. Tuy nhiên, nội dung đó nhất thiết không được trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Quy định này không hề vi phạm tự do ý chí của các chủ thể mà nhằm bảo đảm các nguyên tắc khác của giao dịch dân sự như bảo vệ lợi ích chung của xã hội cũng như của chính các chủ thể tham gia giao dịch. 2. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: Nguyên tắc tôn trọng quyền tự do thỏa thuận của của các chủ thể tham gia giao dịch không có nghĩa là pháp luật thừa nhận tất cả các chủ thể, mục đích, nội dung hay hình thức của giao dịch mà pháp luật cũng đặt ra một số những yêu cầu tối thiểu buộc các chủ thể phải tuân theo gọi là điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự nhằm tạo nên cơ sở pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể. Tại Điều 122 BLDS 2005 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự: “ 1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây: Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự; Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội; Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện. 2. Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định.” Từ quy định trên có thể hiểu điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự là những điều kiện do pháp luật duy định mà một giao dịch dân sự muốn phát sinh hiệu lực pháp lý phải thỏa mãn các điều kiện đó. Tuy nhiên trên thực tế, để xác định một giao dịch có phát sinh hiệu quả pháp lý hay không chúng ta còn phải căn cứ vào các quy định khác của pháp luật có liên quan và các ngành luật điều chỉnh giao dịch đó. 2.1. Điều kiện về năng lực chủ thể tham gia giao dịch dân sự: Theo quy định tại Điều 122 BLDS thì “người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự”. Chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự rất đa dạng. Theo đó, “người” ở đây phải được hiểu là tất cả các chủ thể đó tức là cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam, trong đó Nhà nước nước CHXHCN Việt Nam là chủ thể đặc biệt của hầu hết các ngành luật nên chúng ta sẽ không xét đến năng lực hành vi dân sự của chủ thể này. 2.1.1. Đối với cá nhân: Cá nhân được coi là chủ thể thường xuyên, chủ yếu, phổ biến nhất của giao dịch dân sự bởi ngay cả trong giao dịch có sự tham gia của pháp nhân hay chủ thể khác thì cá nhân với tư cách là người đại diện vẫn tham gia giao dịch đó. Tuy nhiên để giao dịch có hiệu lực thì cá nhân cũng phải chịu sự điều chỉnh mà cụ thể là quy định của pháp luật về năng lực hành vi dân sự “Người tham gia giao dịch phải có năng lực hành vi dân sự”. Năng lực hành vi dân sự theo quy định của pháp luật là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự (Điều 17 BLDS). Giao dịch dân sự do cá nhân thiết lập chỉ có hiệu lực nếu đáp ứng được các yêu cầu về mức độ hành vi dân sự của cá nhân. Mức độ đó được xác lập như sau: Đối với người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: là những người từ đủ 18 tuổi trở lên không thuộc trường hợp bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự hay bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập mọi giao dịch dân sự. Đối với những người có năng lực hành vi dân sự một phần từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi: ở lứa tuổi này, chủ thể đã có thể xác lập và thực hiện một số giao dịch dân sự nhất định. Quy định này cũng hoàn toàn hợp lý với điều kiện về độ tuổi lao động trong Bộ luật Lao động: người lao động là người có thể từ đủ 15 tuổi trở lên và có tham gia giao kết hợp đồng lao động. Đối với người có năng lực hành vi dân sự 1 phần từ đủ 6 tuổi đến dưới 15 tuổi, người bị tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự: Theo Điều 20 BLDS thì người từ đủ 6 tuổi đến 15 tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý trừ các giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hằng ngay phù hợp với lứa tuổi. Quy định này là hoàn toàn hợp lý bởi những người thuộc độ tuổi này sự nhận thức và làm chủ hành vi của mình chưa được đầy đủ. Còn đối với những người bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì trong các giao dịch do người này tham gia phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật trừ giao dịch phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt hàng ngày. Đối với người dưới 6 tuổi, người bị tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự thì không được xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, mọi giao dịch dân sự của họ đều phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. 2.1.2. Đối với các chủ thể khác: Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác cũng có thể trở thành chủ thể của các giao dịch dân sự nhưng pháp luật cũng quy định cho những đối tượng này những quy định nhất định như đối với chủ thể là cá nhân. Các chủ thể này chỉ có thể tham gia giao dịch dân sự thông qua người đại diện theo pháp luật của họ hoặc do họ ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự đó. Tuy nhiên pháp luật cũng quy định rõ pháp nhân chỉ được tham gia các giao dịch dân sự thuộc chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân; hộ gia đình chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác theo quy định pháp luật; còn tổ hợp tác chỉ được tham gia các giao dịch dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác. Nếu tham gia vào các giao dịch dân sự không thuộc lĩnh vực hoạt động đã được pháp luật quy định như trên, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác đều coi là đã vi phạm 1 trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, tất nhiên giao dịch đó sẽ bị coi là vô hiệu. 2.2. Điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch dân sự: “Mục đích của giao dịch dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi xác lập giao dịch đó” (Điều 123 BLDS 2005). Trong bất kỳ một giao dịch nào, các bên tham gia đều hướng đến một mục đích nhất định, từ đó sẽ có sự xác lập quyền và nghĩa vụ (tức là nội dung của giao dịch) nhằm hiện thực hóa mục đích đó. Như vậy mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ 2 chiều với nhau. Mục đích và nội dung là một trong những yếu tố chủ yếu tạo thành một giao dịch dân sự, do vậy điều kiện về mục đích và nội dung của giao dịch cũng là những điều kiện cần thiết cho một giao dịch dân sự hợp pháp: “Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội”. Điều cấm của pháp luật được hiểu là những quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi nhất định. Việc quy định cụ thể những điều cấm của pháp luật là để đảm bảo lợi ích công cộng và của các chủ thể. Còn đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Tuy nhiên trong thực tế, căn cứ để xác định mục đích và nội dung của giao dịch dân sự trái với đạo đức xã hội khá phức tạp vì đó là những chuẩn mực ứng xử do cộng đồng xã hội tự đặt ra và thừa nhận nó như những quy tắc chung chứ không được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản pháp luật như các điều cấm của pháp luật. 2.3. Điều kiện về ý chí của chủ thể tham gia giao dịch dân sự: Bản chất của giao dịch dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí tức là các chủ thể tham gia giao dịch phải có sự tự nguyện. Đây cũng là một trong các điều kiện tiên quyết để 1 giao dịch dân sự có hiệu lực “Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện”. Khi tham gia giao dịch dân sự, mỗi chủ thế đều có những nguyện vọng, mong muốn để tạo cơ sở cho việc xác lập các quyền và nghĩa vụ trong giao dịch đó. Nhưng để có thể đạt được mục đích của giao dịch, các chủ thể phải có sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí. Nếu không thỏa mãn điều này tức là các chủ thể đã vi phạm điều kiện về sự tự nguyện trong giao dịch đồng nghĩa với việc giao dịch dân sự được xác lập sẽ bị coi là vô hiệu. Pháp luật cũng quy định một số trường hợp cụ thể mà giao dịch dân sự được thiết lập không có sự tự nguyện của các chủ thể tham gia giao dịch: giao dịch dân sự được xác lập bởi sự giả tạo, nhầm lẫn, lừa dối, đe dọa hay giao dịch xác lập vào thời điểm mà người xác lập không nhận thức, làm chủ được hành vi của mình. Tất nhiên, những giao dịch được xác lập bởi những yếu tố kể trên tức là đã vi phạm vào nguyên tắc tự nguyện của chủ thể sẽ bị coi là vô hiệu. 2.4. Điều kiện về hình thức của giao dịch dân sự: Hình thức giao dịch dân sự là cách thức thể hiện ý chí ra bên ngoài dưới 1 hình thức nhất định của các bên tham gia giao dịch. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì “Hình thức giao dịch dân sự là điều kiện có hiệu lực của giao dịch trong trường hợp pháp luật có quy định”. Như vậy hình thức của giao dịch chỉ trở thành điều kiện có hiệu lực trong một số trường hợp được pháp luật quy định. Đây là điểm mới trong BLDS 2005 so với bộ luật cũ. Tại Điều 131 BLDS 1995 thì hình thức của giao dịch được quy định là một trong 4 điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự và bất cứ giao dịch nào vi phạm quy định về hình thức đều bị coi là vô hiệu chứ không chỉ trong một số trường hợp như pháp luật hiện hành. Đối với các giao dịch dân sự mà pháp luật không quy định hình thức bắt buộc thì giao dịch đó có thể được thể hiện dưới bất kỳ hình thức nào chẳng hạn như bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể: + Hình thức miệng (bằng lời nói) : đây được coi là hình thức phổ biến nhất trong xã hội hiện nay dù đó cũng là hình thức có độ xác thực thấp nhất. Hình thức này thường được áp dụng đối với các giao dịch được thực hiện ngay và chấm dứt ngay sau đó hoặc giữa các chủ thể có mối quan hệ thân tín, tin cậy. + Hình thức văn bản: thể theo sự thỏa thuận của các chủ thể tham gia giao dịch hoặc do pháp luật quy định, các bên xác lập giao dịch bằng hình thức văn bản, trên đó phải có chữ ký xác nhận của chủ thể nhằm xác minh sự tham gia giao dịch của các chủ thể. Ngoài ra, có một số trường hợp các bên thỏa thuận hoặc pháp luật quy định giao dịch bắt buộc phải lập thành văn bản có chứng nhận chứng thực, đăng ký hoặc xin phép mà thông thường là đối với các giao dịch dân sự có đối tượng Nhà nước cần phải kiểm soát trong lưu thông dân sự hoặc đối tượng của giao dịch dân sự có giá trị lớn ( đất đai, nhà cửa…). Trong các trương hợp đó, các chủ thể buộc phải tuân theo quy định của pháp luật về hình thức để có thể đảm bảo giao dịch dân sự phát sinh hiệu lực. + Hình thức bằng hành vi: chẳng hạn như rút tiền từ trạm ATM, gọi điện thoại ở bốt công cộng, mua nước bằng máy tự động... Đây cũng là hình thức giản tiện nhất của giao dịch do không cần thiết phải có sự hiện diện của tất cả các bên tham gia giao dịch. Giao dịch dân sự là một chế định rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn. Những quy định về giao dịch dân sự là sự cần thiết cấp bách không thể thiếu trong việc điều chỉnh mối quan hệ cơ bản của pháp luật dân sự. Tuy nhiên để có thể bảo đảm trọn vẹn quyền lợi của các chủ thể tham gia giao dịch, pháp luật cũng đề ra các điều kiện có hiệu lực của một giao dịch dân sự hợp pháp, từ đó xác định những giao dịch nào vi phạm các điều kiện đó sẽ bị coi là vô hiệu, sẽ phải chịu những hậu quả pháp lý phát sinh từ việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu đó. Vậy cụ thể, giao dịch dân sự vô hiệu là gì? Hậu quả pháp lý của nó ra sao? Nghiên cứu tìm hiểu vấn đề này sẽ giúp chúng ta có phương hướng để hoàn thiện thêm chế định giao dịch dân sự nói chung. II. Giao dịch dân sự vô hiệu và hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu: Giao dịch dân sự vô hiệu: . Khái niệm: Nhìn dưới góc độ nghiên cứu khoa học, dù thuật ngữ giao dịch dân sự vô hiệu được sử dụng khác rộng rãi nhưng lại chưa có tài liệu nào nêu ra khái niệm khoa học cụ thể. Trong BLDS nước ta, tại Điều 122 BLDS 2005 có quy định về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự, căn cứ vào các quy định này mà xây dựng nên quy định chung về giao dịch dân sự vô hiệu: “ Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại điều 122 của Bộ luật này thì vô hiệu”(Điều 127 BLDS 2005). Như vậy các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự làm cơ sở cho việc xác định giao dịch dân sự vô hiệu. Căn cứ vào các quy định trên, ta có thể khái quát: “Giao dịch dân sự vô hiệu là giao dịch dân sự không thỏa mãn một trong các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự do pháp luật quy định”. Bằng việc quy định các điều kiện và một số trường hợp cụ thể dẫn đến giao dịch dân sự vô hiệu, Nhà nước có thể kiểm soát các giao dịch dân sự nhất định để đảm bảo tính ônt định trong giao lưu dân sự. Nhìn chung các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu có một số ý nghĩa sau đây: Định hướng, tạo khuôn mẫu cho các chủ thể pháp luật dân sự khi tiến hành xác lập giao dịch dân sự phải tuân theo các quy định của pháp luật, không được thảo thuận hoặc thi hành trái pháp luật, trái đạo đức xã hội nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tự do, tự nguyện cho các chủ thể. Ngăn chặn các loại giao dịch dân sự mà pháp luật cấm hoặc trái đạo đức xã hội, bảo đảm cho các giao lưu dân sự hợp pháp được ổn định, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho công dân. Ngoài việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bên tham gia giao dịch còn bảo đảm quyền lợi cho người thứ 3 ngay tình, bảo đảm tính công bằng khi giải quyết hậu que của giao dịch dân sự vô hiệu. Là cơ sở pháp lý mang tính nguyên tắc cho các bên tự hòa giải với nhau khi xảy ra tranh chấp hoặc được tòa án áp dụng khi giải quyết các tranh chấp giao dịch dân sự vô hiệu. 1.2. Đặc điểm chung của giao dịch dân sự vô hiệu: Mục đích hay nói cách khác là những mong muốn, nguyện vọng mà bất kỳ chủ th