Đề tài Hoàn thiện công tác tạo động lực cho người lao động làm việc tại khối quản trị nhân lực - Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương -Techcombank

Trong nền kinh tế thị trường hiện này vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau ngày càng mạnh mẽ,đặc biệt là trong hệ thống các ngân hàng với nhau trong việc cạnh tranh giành giật khách hàng và thu hút các nguồn vốn cho đầu tư.Nếu mà không hoạt động tốt thì không thể nào có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác do vậy sẽ dẫn tới việc bị thụt lùi và mất vị thế trên thị trường. Để giải quyết vấn đề này chính là việc mà chúng ta tìm giải pháp để cho người nhân viên làm việc, sao cho mà nhân viên của chúng ta có năng lực tốt nhất để có thể có một năng suất lao đông là tốt nhất và hiệu quả công việc làm được cũng là tốt nhất.Bởi vì khi ta đi làm việc này thì nhân viên của chúng ta sẽ tích cực làm việc và cố gắng giải quyết việc của mình dù đó là một công việc khó,và họ sẽ nỗ lực học tập và nâng cao kiến thức để có thể đóng góp tối đa cho tổ chức.Nó không chỉ dừng lại ở việc là là có hiệu quả công việc cao mà ta còn có được một đội ngũ nhân viên có trình độ và luôn gắn bó với tổ chức. Đặc điểm của hệ thống ngân hàng của Techcombank là một hệ thống lớn do vậy mà công việc đảm trách không phải là nhỏ do vậy mà để có thể đạt được năng xuất và hiệu quả cáo cho nhân viên trong điều kiện mà có rất nhiều thách thức cho nhân viên:Như là áp lực công việc lớn và tính chất của công việc thì phức tạp do vậy mà để tạo động lực cho người lao động ở đây không phải là một điều đơn giản. Trên cơ sở thực tiễn như vậy tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương-Techcombank thì em đã đi chọn đề tài:”Hoàn thiện công tác tạo động lực cho người lao động làm việc tại khối quản trị nhân lực-Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương-Techcombank”. Để hoàn thành tốt đề tài này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của cô Vũ Thị Mai,và các anh chị tại phòng tiền lương và phúc lợi thuộc khối quản trị nhân lực-Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương-Techcombank. *Mục đích nghiên cứu: -Áp dụng các kiến thức được học tập vào thức tế và trong công tác làm sao để cho nhân viên có thể đạt được năng lực tốt nhất để làm việc. -Áp dụng lý thuyết vào thực tiễn. -Giúp cho nhà quản lý hiểu rõ vai trò quan trọng của đội ngũ nhân lực để có một công tác để tạo động lực cho người lao động hiệu quả. -Phân tích và đánh giá hoạt động tạo động lực cho người lao động tại khối quản trị nhân lực. -Đề ra các giải pháp để hoàn thiện công tác tạo động lực cho người lao động tại khối.

doc68 trang | Chia sẻ: lvbuiluyen | Lượt xem: 3034 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Hoàn thiện công tác tạo động lực cho người lao động làm việc tại khối quản trị nhân lực - Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương -Techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Trong nền kinh tế thị trường hiện này vấn đề cạnh tranh giữa các doanh nghiệp với nhau ngày càng mạnh mẽ,đặc biệt là trong hệ thống các ngân hàng với nhau trong việc cạnh tranh giành giật khách hàng và thu hút các nguồn vốn cho đầu tư.Nếu mà không hoạt động tốt thì không thể nào có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác do vậy sẽ dẫn tới việc bị thụt lùi và mất vị thế trên thị trường. Để giải quyết vấn đề này chính là việc mà chúng ta tìm giải pháp để cho người nhân viên làm việc, sao cho mà nhân viên của chúng ta có năng lực tốt nhất để có thể có một năng suất lao đông là tốt nhất và hiệu quả công việc làm được cũng là tốt nhất.Bởi vì khi ta đi làm việc này thì nhân viên của chúng ta sẽ tích cực làm việc và cố gắng giải quyết việc của mình dù đó là một công việc khó,và họ sẽ nỗ lực học tập và nâng cao kiến thức để có thể đóng góp tối đa cho tổ chức.Nó không chỉ dừng lại ở việc là là có hiệu quả công việc cao mà ta còn có được một đội ngũ nhân viên có trình độ và luôn gắn bó với tổ chức. Đặc điểm của hệ thống ngân hàng của Techcombank là một hệ thống lớn do vậy mà công việc đảm trách không phải là nhỏ do vậy mà để có thể đạt được năng xuất và hiệu quả cáo cho nhân viên trong điều kiện mà có rất nhiều thách thức cho nhân viên:Như là áp lực công việc lớn và tính chất của công việc thì phức tạp do vậy mà để tạo động lực cho người lao động ở đây không phải là một điều đơn giản. Trên cơ sở thực tiễn như vậy tại ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương-Techcombank thì em đã đi chọn đề tài:”Hoàn thiện công tác tạo động lực cho người lao động làm việc tại khối quản trị nhân lực-Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương-Techcombank”. Để hoàn thành tốt đề tài này em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ quý báu của cô Vũ Thị Mai,và các anh chị tại phòng tiền lương và phúc lợi thuộc khối quản trị nhân lực-Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương-Techcombank. *Mục đích nghiên cứu: -Áp dụng các kiến thức được học tập vào thức tế và trong công tác làm sao để cho nhân viên có thể đạt được năng lực tốt nhất để làm việc. -Áp dụng lý thuyết vào thực tiễn. -Giúp cho nhà quản lý hiểu rõ vai trò quan trọng của đội ngũ nhân lực để có một công tác để tạo động lực cho người lao động hiệu quả. -Phân tích và đánh giá hoạt động tạo động lực cho người lao động tại khối quản trị nhân lực. -Đề ra các giải pháp để hoàn thiện công tác tạo động lực cho người lao động tại khối. *Đối tượng nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu ở đây chính là nhân viên tại khối quản trị nhân lực,do ở một hệ thống lớn như vậy thì không thể nào mà để một hệ thống quản lý người lao động yếu kém được.Khi mà nó yếu kém thì không thể nào quản lý được một đội ngũ đông đảo các nhân viên một cách hiệu quả được. Phạm vi nghiên cứu chỉ là tại khối quản trị nhân lực,tạo động lực cho nhân viên tại khối quản trị nhân lực này. *Phương pháp nghiên cứu. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng là các phương pháp sau: Phương pháp phân tích và tổng hợp và đánh giá số liệu để có thông tin để giúp cho ta hiểu được về tổng thể thực trạng công tác tạo động lực cho người lao động tại đây. Phương pháp thu thập số liệu từ các nguồn qua báo cáo các bài nghiên cứu có trước đây.Để giúp ta có được thông tin thêm phần hoàn chỉnh. Phương pháp điều tra khảo sát:đây là cách mà nó đem lại cho ta nguồn thông tin và số liệu một cách khách quan nhất. *Nguồn số liệu Báo cáo thường niên của ngân hàng. Sách báo và tạp chí. Thông tin từ mạng internet. Kết quả thông qua điều tra khảo sát. Chương 1:Cơ sở lý luận về tạo động lực cho người lao động. 1.1.Động lực lao động và các yếu tố ảnh hưởng. 1.1.1.Một số khái niệm về động lực lao động. *Động cơ ,động cơ lao động: Động cơ là bộ phận quan trọng quyết định sự chuyển động hay hành động.Vì thế,động cơ lao động chính là yếu tố bên ngoài quyết định sự hoạt động,hay là làm việc của người lao động.Mà động cơ này là do các yếu tố bắt nguồn từ bản thân người lao động hoặc cũng có thể bắt nguồn từ sự thôi thúc của gia đình người lao động tạo áp lực lên vai người lao động phải làm việc để nuôi sống gia đình họ,mặt khác nó không chỉ là nhu cầu về thức ăn mà còn cả nhu cầu về giải trí. *Động cơ của người lao động có những đặc điểm sau: Thứ nhất: Là nó xuất phát từ bên trong bản thân của người lao động,và chính những yếu tố bên trong đó biến thành động cơ để người lao động có thể làm việc,nó thúc đẩy người lao động làm việc là ở chỗ là họ làm việc vì cuộc sống của bản thân họ,hoặc là do gia đình họ. Thứ hai: Động cơ của người lao động rất đa dạng,và thường xuyên biến đổi mà không phải là cố định.Nó luôn biến đổi sao cho phù hợp với cuộc sống của người đó và nó chịu tác động của ngoại cảnh.Khi mà ngoại cảnh thay đổi thì động cơ cũng thay đổi theo. Thứ ba: Không lúc nào động cơ của người lao động cũng có một mục đích cụ thể,nhiều khi nó hoàn toàn vô thức.Chính vì thế mà khi nhìn vào động cơ của người lao động thì nhiều lúc là không chính xác,vì thế mà chúng ta phải xem xét kỹ lương để không bị nhầm lẫn. Qua những đặc điểm trên của động cơ của người lao động ta thấy rằng là khó có thể nhận biết được động cơ nhưng mà việc nhận biết ra nó và đánh giá nó thật chính xác là một việc rất quan trọng,bởi một lẽ khi mà ta đánh giá động cơ của người lao động một cách chính xác thì mới có thể tìm được cách để tạo động lực cho người lao động làm việc hiệu quả được. * Động lực trong lao động: Về tạo động lực trong lao động thì có rất nhiều khái niệm khác nhau viết về nó mỗi một khái niệm lại có một cách đề cập riêng nhưng mà hầu như là chúng đều nói lên được bản chất của động lực lao động. Theo giáo trình quản trị nhân lực thì: “Động lực lao động là sự khao khát và tự nguyện của người lao động để tăng cường nỗ lực nhằm hướng tới việc đạt các mục tiêu của tổ chức.” (PGS.TS Nguyễn Ngọc Quân và Th.s Nguyễn Vân Điềm-Giáo trình quản trị nhân lực) Theo giáo trình hành vi tổ chức thì: “Động lực của người lao động là những nhân tố bên trong kích thích con người nỗ lực làm việc trong điều kiện cho phép tạo ra năng suất, hiệu quả cao. Biểu hiện của động lực lao động là sự sẵn sàng nỗ lực, say mê làm việc nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức, cũng như của bản thân người lao động.”(Th.s Bùi Anh Tuấn-Giáo trình hành vi tổ chức). Như vậy ta có thể thấy rằng là động lực của người lao động là yếu tố bên trong và nó là hoàn toàn tự nguyện từ phía người lao động,nó làm cho người lao động hăng say làm việc hơn và tạo ra việc làm có năng suất lao động và hiệu quả cao.Và nó không chỉ chịu tác động của yêu tố bản thân người lao động mà nó còn phải chịu ảnh hưởng của yếu tố của nhà quản lý,xem nhà quản lý có cho người lao động có thể tự do thoải mái làm việc,và đem hết khả năng của mình ra phục vụ cho công việc của mình hay không. *Động lực lao động có những đặc điểm sau: Động lực lao động của người lao động luôn gắn liền với một công việc cụ thể,hay là bên trong một tổ chức. Không có động lực lao động một cách chung chung không gắn với một công việc hay là một tổ chức cụ thể.Nó cũng thể hiện cho ta thấy được đó chính là biểu hiện của người lao động đối với công việc của họ Động lực lao động không phải là yếu tố bẩm sinh mà nó chịu tác động của nhiều yếu tố và nó thường xuyên biến đổi theo thời gian.Đối với mỗi người lao động có thể trong thời gian này thì họ có động lực lao động nhưng mà trong thời gian khác thì lại không có động lực lao động.Nó thường xuyên biến đổi Động lực lao động làm cho người lao động hăng say làm việc và có hiệu quả cao hơn,như vậy thì người lao động thông qua việc có động lực làm việc cao thì dẫn đến việc tăng cao năng suất lao động.Nhưng mà nó cũng không phải là yếu tố duy nhất dẫn đến tăng năng suất lao động nó chỉ là một phần của việc tăng năng suất lao động khi mà các yếu tố về điều kiện lao động không đổi.Nếu mà ta coi nó là yếu tố duy nhất thì thực sự là thấy nó thật sai lầm,vì ngoài ra còn có nhiều yếu tố khác như:trình độ năng lực,khả năng của người lao động,và các yếu tố khác nữa… *Mối quan hệ giữa động cơ ,động cơ lao động và động lực lao động. Mối quan hệ giữa động cơ và động lực là tại điểm nó đều tạo ra hoạt động,động cơ lao động là bộ phận của động lực lao động.Tạo động lực là tạo những cái tác động vào động lực giúp nó hoạt động nhanh hơn và đạt được hiệu quả hơn. Động cơ và động cơ lao động là hai khái niệm một cái có một phạm trù rộng hơn và một cái có phạm trù hẹp hơn,động cơ mang nghĩa rộng.Động cơ lao động nó chỉ nói về phạm trù lao động. Động cơ lao động là bộ phận của động lực lao động,nó chỉ là một phần trong việc tạo động lực cho người lao động.Và động cơ lao động là một bộ phận của động cơ. 1.1.2.Các nhân tố ảnh hưởng đến động lực lao động. Động lực của người lao động chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố nhưng mà ta có thể thấy được nó gồm ba yếu tố sau:yếu tố thuộc về người lao động,yếu tố thuộc về công việc,yếu tố thuộc về tổ chức. *Yếu tố về người lao động:Xét về yếu tố của người lao động thì ta thấy được rằng là nó là một yếu tố quan trọng nhất đối với người lao động trong tạo động lực làm việc cho người lao động.Ta có thể hiểu là khi mà người lao động không muốn làm việc mà tất cả các yếu tố khác đều tốt thì ta cũng không thể có kết quả lao động tốt được.Nó phụ thuộc vào mục đích và nhu cầu về cuộc sống của người lao động,nếu mà một người không có một mục đích sống rõ ràng thì cũng không thể nào mà họ có thể có được một động lực làm việc tốt được,hai là một người nếu mà không có nhu cầu về cuộc sống cao thì động lực để thôi thúc họ làm việc thì cũng nhỏ, do đó mà cần phải căn cứ và bên trong bản thân người lao động thì ta mới có thể nắm được động lực làm việc của người lao động. Điều này nó còn phụ thuộc vào yếu tố về thái độ của người lao động đối với công việc của tổ chức khi mà người lao động muốn gắn bó với tổ chức thì người lao động mới có thể hăng say làm việc được và đạt được kết quả cao. Trình độ,năng lực của người lao động cũng có một ảnh hưởng lớn tới động lực.Vì khi mà người lao động có đầy đủ năng lực và tự tin thì họ mới có thể hoàn thành tốt công việc được giao phó,cái thứ hai là khi mà họ không đủ năng lực thì họ không thể nào có thể làm được công việc được giao.Hoặc nếu mà có hoàn thành thì cũng rất vất vả không có thể thuận lợi hoàn thành được. Một điều nữa cần phải nhắc tới chính là việc đối với mỗi người lao động khác nhau thì có một động lực làm việc riêng,không phải là người lao động nào cũng giống với người lao động nào,vì mỗi người có một nhu cầu về cuộc sống là không giống nhau do đó nó ảnh hưởng tới động lực làm việc của môi người cũng là khác nhau,những người mà có nhu cầu cao thì động lực làm việc của họ là rất lớn để đáp ứng nhu cầu của bản thân và ngược lại. *Yếu tố về công việc: đây cũng là một yếu tố cơ bản để có thể làm cho động lực của người lao động biến đổi,nếu mà người lao động được đặt vào một công việc phù hợp,người lao động yêu thích thì mới có thể làm cho người lao động nỗ lực hết mình để có thể hoàn thành được công việc được giao phó,và nó đạt được một kết quả tốt nhất.Chúng ta thấy rằng khi mà người lao động cảm thấy chán nản với công việc thì chắc chắn một điều rằng là công việc mà họ đang làm không thể nào có được một kết quả tốt được.Do đó người quản lý cần phải xem xét xem mức độ phù hợp của người lao động với công việc và người lao động có hứng thú với công việc này hay không. *Yếu tố thuộc về tổ chức: Người lao động nằm bên trong một tổ chức,do đó khi mà giữa người lao động và tổ chức không có được một sự thống nhất thì họ không thể nào có thể nỗ lực hết mình được.Vì khi đó nó có xảy ra mâu thuẫn lợi ích giữa người lao động với tổ chức.Hai là môi trường làm việc bên trong tổ chức có thật sự tốt và kích thích người lao động làm việc hay không hay là nó có sự kìm hãm ức chế người lao động làm việc.Mối quan hệ giữa lãnh đạo và nhân viên cũng là một yếu tố rất quan trọng,nếu mà trong một tổ chức mà người lãnh đạo thân thiện với người lao động thì ta có thể thấy rằng người lao động thấy được rằng mình được coi trọng và họ nỗ lực làm việc đây nó chính là sự hưng phấn trong làm việc của người lao động.Hội tụ của nhiều yếu tố tốt để có thể kích thích người lao động làm việc tốt nhất. Điều kiện làm việc nó ảnh hưởng rất lớn đến người lao động khi mà điều kiện làm việc không đảm bảo về mặt:không khí ,nhiệt độ,tiếng ồn,và mức độ ô nhiễm…Ảnh hưởng rất lớn đến người lao động.Khi mà điều kiện lao động không đảm bảo thì nó dẫn đến việc là gây ức chế thần kinh của người lao động làm giảm năng suất và hiệu quả lao động.Chính vì thế mà các nhà quản lý phải tạo ra một môi trường làm việc tốt để người lao động có thể hết mình làm việc và có năng suất và hiệu quả là cao nhất. Qua đây ta thấy động lực của người lao động chịu tác động của hàng loạt các yếu tố khác nhau do vậy mà khi đi tạo động lực cho người lao động chúng ta cần phải quan tâm và theo sát các yếu tố đó thì ta mới có thể đạt được mục đích là tạo được động lực cho người lao động. 1.1.3.Tạo động lực trong lao động. Cách thức mà nhà quản lý đưa ra để tác động đến người lao động kích thích họ làm việc,và thu được hiệu quả là tốt nhất.Theo như giáo trình hành vi tổ chức thì tạo động lực cho người lao động là:” Tạo động lực được hiểu là hệ thống các chính sách, biện pháp, thủ thuật quản lý tác động đến người lao động nhằm làm cho người lao động có động lực trong công việc.”Đây nó cũng chính là các cách để làm nâng cao hiệu quả và năng suất lao động cho người lao động và gắn người lao động với lại tổ chức như thế để đạt được mục đích tối đa là kích thích người lao động làm việc,hơn nũa là nó còn có thể thu được hiệu quả cao. Quá trình tạo động lực Qua sơ đồ trên ta thấy rằng là quá trình tạo động lực ban đầu là xuất phát từ người lao động,khi mà nhu cầu của họ không được đảm bảo thì nó gây ra ức chế thần kinh làm cho người lao động căng thẳng cần phải làm gì đó để đáp ứng nhu cầu của bản thân.Và cũng chính từ đây động lực của người lao động được hình thành nó thôi thúc người lao động làm việc để có thể đáp ứng nhu cầu của bản thân,những động cơ này biến thành hành động để ngươi lao động làm việc để thỏa mãn nhu cầu của bản thân rồi những căng thẳng về tâm lý được giảm bớt. 1.2.Các học thuyết về tạo động lực trong lao động. Có rất nhiều học thuyết về tạo động lực trong lao động,mỗi học thuyết lại đề cập đến một cách nhìn và cách tác động khác nhau đến người lao động,khai thác trên một mặt nào đó trong tâm lý của người lao động để đưa ra giải pháp tạo động lực trong lao động.Và những học thuyết này được áp dụng trong những trường hợp cụ thể có thể trong trường hợp này thì là phù hợp nhưng mà trường hợp kia lại không phù hợp do đó mà người quản lý phải lựa chọn xem cách tạo động lực nào phù hợp với tổ chức của mình. 1.2.1.Học thuyết nhu cầu của Maslow. Theo học thuyết của Maslow thì con người có rất nhiều nhu cầu khác nhau,nhưng mà ông sắp xếp chúng thành năm nhóm khác nhau là: nhu cầu sinh lý - nhu cầu an toàn - nhu cầu xã hội - nhu cầu được tôn trọng và nhu cầu tự hoàn thiện. Ta cũng có thể thấy đây cũng chính là những nhu cầu cơ bản của con người và được sắp xếp từ thấp đến cao.Ở bên dưới là các nhu cầu cơ bản của con người cái này luôn được giải quyết trước rồi mới đến nhu cầu ở mức độ cao hơn.Do đó mà người lãnh đạo cần phải xem xét xem người lao động của mình đang ở mức nào để có thể đưa gia các chính sách khuyến khích hợp lý để có thể tác động đến người lao động làm việc.Khi mà chính sách khuyến khích đưa ra không phù hợp thì người lao động không có động lực làm việc,là do cái chính sách đó có tác động đến phần nhu cầu mà người lao động đã được thỏa mãn. 1.2.2. Học thuyết tăng cường tích cực của B.F.Skinner. Học thuyết này có quan điểm cho rằng là những hoạt động mà người lao động được thưởng hay là khen ngợi thì có xu hướng là được lặp lại,và những hành vi mà bị phạt hay là chỉ trích thì người lao động có xu hướng là không lặp lại những hành động này.Như vậy thì những hành động hay thói quen tốt thì được duy trì những gì bị phạt thì không được lặp lại,và những điều này giúp điều chỉnh hành vi của người lao động tốt hơn.Nhưng mà cũng cần phải quan tâm đến người lao động không để xẩy ra tình trạng chống đối của người lao động,khi đó các chính sách khuyến khích đưa ra không còn đạt được hiệu quả nữa mà lại có ảnh hưởng ngược chiều lại. Nói tóm lại các nhà quản lý cần phải có chính sách thưởng phạt hợp lý và công bằng,làm sao mà chỉ là có một chiều kích thích tốt nhất đến người lao động chứ không gây ra tình trạng là người lao động có một sự ức chế gây tác động ngược chiều không được như là mong muốn. 1.2.3. Học thuyết về sự kỳ vọng của Victor Vroom. Học thuyết này cho ta thấy rằng cường độ của xu hướng hành động nó phụ thuộc vào xu hướng của hành động đó xem kết quả của hành động này đem lại kết quả như thế nào?và tính hấp dẫn của kết quả này đối với mỗi cá nhân người lao động.Kỳ vọng này đã làm cho người lao động hăng say làm việc và đạt được hiệu quả và năng suất lao động cao.Như vậy cần làm cho người lao động hiểu được mối quan hệ giữa nỗ lực – thành tích,thành tích – và kết quả, phần thưởng.Không chỉ có như vậy mà ta còn cần tạo ra sự hấp dẫn giữa thành quả và phần thưởng đối với người lao động. 1.2.4. Học thuyết hai nhóm yếu tố của Frederic Herzberg. Học thuyết của Herzberg cho rằng yếu tố dẫn đến thỏa mãn trong công việc là riêng lẻ và nó không liên qua gì đến việc dẫn đến sự bất mãn trong công việc.Trong học thuyết của Herberg được chia ra làm hai nhóm Nhóm 1:bao gồm những yếu tố tạo động lực cho người lao động và sự thỏa mãn trong cuộc sống như:sự thừa nhận thành tích,sự thành đạt,bản chất bên trong của công việc và sự thăng tiến của người lao động. Nhóm 2 : Nó là các yếu tố về tổ chức môi trường làm việc bên trong doanh nghiệp đó là các chính sách về quản trị,chính sách về tiền lương thưởng và chế độ đãi ngộ mà công ty tạo cho nhân viên của mình,sự giám sát công và coi trọng con người,và các điều kiện làm việc.Nó có tác dụng duy trì và ngăn ngừa sự không thỏa mãn trong công việc.Tuy vậy những yếu tố này không đủ để tạo động lực cho người lao động làm việc được Do đó mà Herzberg cho rằng nếu chúng ta muốn tạo động lực cho người lao động trong công việc thì phải nhấn mạnh đến những yếu tố như thành tích, sự công nhận, bản thân công việc, trách nhiệm và sự thăng tiến. Nó là đặc điểm mà người lao động cảm thấy có “sự tưởng thưởng” bên trong. 1.2.5. Học thuyết về sự công bằng của Stacy Adams. Học thuyết này cho rằng mọi người luôn muốn được đối sử công bằng và luôn so sánh những gì mà mình đóng góp và những thứ mà mình nhận được,và cũng có xu hướng là so sánh những gì mà mình nhận được với những gì mà người khác nhận được so với cùng mức công việc được hoàn thành.Ta cũng có thể hiểu điều này là người lao động so sánh những gì mà mình bỏ vào công việc với những gì mà mình nhận được từ công việc đó và sau đó đối chiếu đầu vào - đầu ra của họ với đầu vào - đầu ra của người khác. Nếu mà những gì mà nó là ngang bằng với những người khác thì họ cho rằng công bằng và ngược lại họ cho là bất công. Người lao động cảm nhận được sự công bằng khi: Các quyền lợi của cá nhân = Các quyền lợi của những người khác Sự đóng góp của cá nhân = Sự đóng góp của những người khác Có một sự bằng nhau giữa việc đóng góp của người lao động và với I những gì mà họ nhận được như vậy mới có tác dụng là kích thích người lao động,nếu mà trọng thái cân bằng không được đảm bảo thì người lao động lâu dần sẽ sinh ra bất mãn cho người lao động,lúc này năng suất và hiệu quả không được đảm bảo,do họ thấy những gì mình bỏ ra không được nhận lại thích đáng lên có tâm lý là không muốn phấn đấu. Chính vì thế mà nhà quản lý phải làm sao cho có thể phân phối một cách công bằng nhất cho người lao động,nó không chỉ công bằng trong phân phối lợi ích mà còn phải tạo ra được sự công bằng trong mối quan hệ giữa con người với nhau.Khi những yếu tố này được đản bảo thì người lao động có được sự thoải mái và hăng say làm việc. Như vậy, Ta thấy rằng các học thuyết trên thì mỗi học thuyết đều có mặt tích cực của nó và cũng có mặt tiêu cực của nó do
Luận văn liên quan