Đề tài Kế thừa quốc gia trong luật quốc tế

Thế giới luôn vận động không ngừng. Cái cũ mất đi, cái mới xuất hiện. Tuy nhiên, cái mới không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có “sự kế thừa” những cái hay, cái tiến bộ của cái cũ để làm nấc thang bước lên (trong đó “ kế” nghĩa là kết nối; “thừa” là tiếp theo - Từ điển Từ và Ngữ Tiếng Việt của GS Nguyễn Lân). Với vai trò là hệ thống luật trên thế giới, luật quốc tế cũng có một chế định quy định về “ sự kế thừa”. Cụ thể tại kỳ họp XVI của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết về việc đưa vấn đề kế thừa vào danh mục những vấn đề trước mắt cần pháp điển hóa và ngày 22/8/1978 Công ước Viên về kế thừa, ngày 1/4/1978 Công ước Viên về kế thừa tài sản, hồ sơ lưu trữ và công nợ quốc gia được thông qua. Sở dĩ như vậy vì vấn đề kế thừa có vai trò ngày càng quan trọng trong sinh hoạt quốc tế, khi mà ngày càng có nhiều quốc gia giành lại được độc lập hay có thêm một số quốc gia được chia, tách, sáp nhập. Việc xác nhận một quốc gia có phải là quốc gia kế thừa của quốc gia trước đó hay không chẳng những ảnh hưởng đến riêng quốc gia mới đó mà còn có ý nghĩa quan trọng với nhiều quốc gia khác trên thế giới trong bối cảnh thế giới được coi là “phẳng” như hiện nay. Cho đến nay, kế thừa vẫn là một vấn đề phức tạp, còn nhiều cuộc tranh luận xung quanh nó. Nhìn chung trong các bộ phận của kế thừa có ba bộ phận cơ bản: kế thừa quốc gia, kế thừa chính phủ, kế thừa của các tổ chức quốc tế. Thứ nhất, kế thừa chính phủ là vấn đề phổ biến và có lẽ được các quốc gia nhất trí cao bởi hàng năm có rất nhiều chính phủ mới được bầu lên. Theo nguyên tắc đồng nhất và liên tục quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia, chính phủ mới hiển nhiên kế thừa quyền và nghĩa vụ của chính phủ trước đó (ngoại trừ trường hợp chính phủ mới được lập nên do cuộc cách mạng xã hội trong nội bộ quốc gia đó). Thứ hai, vấn đề kế thừa tổ chức quốc tế. Phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển cũng như mong muốn của các quốc gia trên thế giới đặc biệt từ sau Thế chiến Đệ nhị, các tổ chức quốc tế mới thật sự phát triển và phổ biến, phát huy được vai trò của mình. Kế thừa một tổ chức quốc tế tức là chấm dứt hoạt động của tổ chức đó và ra đời một tổ chức khác với chức năng tương tự. Vì các quốc gia thành viên là những “người” lập nên tổ chức đó, định ra vai trò, chức năng của tổ chức nên việc xem xét liệu tổ chức mới có kế thừa chức năng của tổ chức cũ hay không tùy thuộc vào các quốc gia thành viên. Do đó điều dễ hiểu là “ cho đến nay trong luật pháp quốc tế chưa có quy phạm chung quy định về sự kế thừa của các tổ chức quốc tế”. Thứ ba, vấn đề kế thừa quốc gia. Quốc gia được xem là chủ thể cơ bản của luật quốc tế, đóng vai trò là linh hồn trong luật quốc tế nên sự kế thừa quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quan hệ pháp luật quốc tế cũng như quan hệ giữa các quốc gia hiện nay. Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề về kế thừa quốc gia trong luật cũng như trong thực tiễn pháp lý quốc tế; đồng thời đề cập cụ thể về kế thừa quốc gia tại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay.

doc51 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 6361 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kế thừa quốc gia trong luật quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Thế giới luôn vận động không ngừng. Cái cũ mất đi, cái mới xuất hiện. Tuy nhiên, cái mới không xóa bỏ hoàn toàn cái cũ mà có “sự kế thừa” những cái hay, cái tiến bộ của cái cũ để làm nấc thang bước lên (trong đó “ kế” nghĩa là kết nối; “thừa” là tiếp theo - Từ điển Từ và Ngữ Tiếng Việt của GS Nguyễn Lân). Với vai trò là hệ thống luật trên thế giới, luật quốc tế cũng có một chế định quy định về “ sự kế thừa”. Cụ thể tại kỳ họp XVI của Đại hội đồng Liên hợp quốc đã thông qua nghị quyết về việc đưa vấn đề kế thừa vào danh mục những vấn đề trước mắt cần pháp điển hóa và ngày 22/8/1978 Công ước Viên về kế thừa, ngày 1/4/1978 Công ước Viên về kế thừa tài sản, hồ sơ lưu trữ và công nợ quốc gia được thông qua. Sở dĩ như vậy vì vấn đề kế thừa có vai trò ngày càng quan trọng trong sinh hoạt quốc tế, khi mà ngày càng có nhiều quốc gia giành lại được độc lập hay có thêm một số quốc gia được chia, tách, sáp nhập. Việc xác nhận một quốc gia có phải là quốc gia kế thừa của quốc gia trước đó hay không chẳng những ảnh hưởng đến riêng quốc gia mới đó mà còn có ý nghĩa quan trọng với nhiều quốc gia khác trên thế giới trong bối cảnh thế giới được coi là “phẳng” như hiện nay. Cho đến nay, kế thừa vẫn là một vấn đề phức tạp, còn nhiều cuộc tranh luận xung quanh nó. Nhìn chung trong các bộ phận của kế thừa có ba bộ phận cơ bản: kế thừa quốc gia, kế thừa chính phủ, kế thừa của các tổ chức quốc tế. Thứ nhất, kế thừa chính phủ là vấn đề phổ biến và có lẽ được các quốc gia nhất trí cao bởi hàng năm có rất nhiều chính phủ mới được bầu lên. Theo nguyên tắc đồng nhất và liên tục quyền năng chủ thể luật quốc tế của quốc gia, chính phủ mới hiển nhiên kế thừa quyền và nghĩa vụ của chính phủ trước đó (ngoại trừ trường hợp chính phủ mới được lập nên do cuộc cách mạng xã hội trong nội bộ quốc gia đó). Thứ hai, vấn đề kế thừa tổ chức quốc tế. Phù hợp với yêu cầu khách quan của sự phát triển cũng như mong muốn của các quốc gia trên thế giới đặc biệt từ sau Thế chiến Đệ nhị, các tổ chức quốc tế mới thật sự phát triển và phổ biến, phát huy được vai trò của mình. Kế thừa một tổ chức quốc tế tức là chấm dứt hoạt động của tổ chức đó và ra đời một tổ chức khác với chức năng tương tự. Vì các quốc gia thành viên là những “người” lập nên tổ chức đó, định ra vai trò, chức năng của tổ chức nên việc xem xét liệu tổ chức mới có kế thừa chức năng của tổ chức cũ hay không tùy thuộc vào các quốc gia thành viên. Do đó điều dễ hiểu là “ cho đến nay trong luật pháp quốc tế chưa có quy phạm chung quy định về sự kế thừa của các tổ chức quốc tế”. Thứ ba, vấn đề kế thừa quốc gia. Quốc gia được xem là chủ thể cơ bản của luật quốc tế, đóng vai trò là linh hồn trong luật quốc tế nên sự kế thừa quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quan hệ pháp luật quốc tế cũng như quan hệ giữa các quốc gia hiện nay. Bài tiểu luận của nhóm chúng tôi sẽ trình bày những vấn đề về kế thừa quốc gia trong luật cũng như trong thực tiễn pháp lý quốc tế; đồng thời đề cập cụ thể về kế thừa quốc gia tại Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến nay. CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KẾ THỪA QUỐC GIA TRONG LUẬT QUỐC TẾ Khái niệm về kế thừa quốc gia: Trước hết cần hiểu khái niệm thế nào là quốc gia? Có ý kiến cho rằng, quốc gia là khái niệm địa lý và chính trị, trừu tượng về tinh thần, tình cảm và pháp lý, để chỉ về một lãnh thổ có chủ quyền, một chính quyền và những con người của các dân tộc có trên lãnh thổ đó, họ gắn bó với nhau bằng luật pháp, quyền lợi, văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ, chữ viết qua quá trình lịch sử lập quốc và những con người chấp nhận nền văn hóa cũng như lịch sử lập quốc đó cũng chịu sự chi phối của chính quyền, cùng nhau chia sẻ quá khứ, hiện tại và cùng nhau xây dựng một tương lai chung trên vùng lãnh thổ có chủ quyền. Theo từ điển luật học, quốc gia là thực thể pháp lý - chính trị được cấu thành bởi ba yếu tố: lãnh thổ, dân cư, hệ thống chính quyền và chủ quyền. Còn thế nào là kế thừa quốc gia? Theo điểm b khoản 1 điều 2 Công ước Viên 1978 có định nghĩa: “Sự kế thừa của quốc gia là thuật ngữ dùng để chỉ sự thay thế của một quốc gia này cho một quốc gia khác trong việc gánh chịu trách nhiệm về quan hệ quốc tế đối với lãnh thổ nào đó”. Các trường hợp dẫn đến sự kế thừa quốc gia: Sự kế thừa của quốc gia mới do kết quả của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc. Sự kế thừa của quốc gia mới do kết quả của cuộc cách mạng xã hội. Sự kế thừa của quốc gia mới trong trường hợp các quốc gia hợp nhất hay sáp nhập. Sự kế thừa của quốc gia mới khi có sự chia, tách của một quốc gia. Các điều ước quốc tế điều chỉnh về kế thừa quốc gia: Ủy ban luật quốc tế (ILC) đã xem xét vấn đề một cách bao quát và 2 Công ước quốc tế về kế thừa quốc gia được thừa nhận. Ủy ban luật quốc tế thỏa thuận về kế thừa quốc gia theo bốn nhóm rõ ràng: Hiệp ước: Công ước Viên về kế thừa( Viên I). Tài sản, các khoản nợ và các tài liệu quốc gia: công ước Viên về kế thừa tài sản, hồ sơ lưu trữ và công nợ quốc gia( Viên II). Thành viên tổ chức quốc tế: Báo cáo viên của Ủy ban luật quốc tế kết luận rằng vấn đề này không thích hợp cho việc xây dựng luật. Các báo cáo viên đề nghị một bản báo cáo cung cấp những minh họa về việc giải quyết các loại khác nhau của vấn đề. Kế thừa quốc gia và ảnh hưởng của nó vế quốc tịch tự nhiên: các báo cáo viên cũng không tìm thấy bất cứ triển vọng nào về việc soạn thảo và đề nghị bản báo cáo hoặc dự thảo luật Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc tuyên bố thiết lập các tiêu chuẩn tối thiểu. Vấn đề kế thừa quốc gia có thể phát sinh trong một số trường hợp được xác định, khi mà phản ánh những cách thức trong đặc quyền chính trị có thể đạt được. Ví dụ như sự trao trả thuộc địa một phần hay toàn bộ lãnh thổ hiện tại, phân chia một nước hiện hữu, ly khai, sát nhập và hợp nhất. Trong mỗi trường hợp, vấn đề kế thừa quyền và nghĩa vụ lại được đặt ra. Tuy nhiên, câu hỏi về kế thừa quốc gia không xâm phạm quyền và nghĩa vụ thông thường nếu các quốc gia tuân theo luật quốc tế. Mục đích của kế thừa quốc gia: Vấn đề kế thừa quốc gia thường được đặt ra khi có sự thay đổi triệt để về chủ quyền của một quốc gia tại một lãnh thổ nhất định. Sự thay đổi triệt để về chủ quyền đó có thể là kết quả của việc xuất hiện hoặc chấm dứt sự tồn tại của một quốc gia. Kế thừa quốc gia là sự chuyển dịch quyền và nghĩa vụ quốc tế từ quốc gia này sang quốc gia khác có liên quan đến vùng lãnh thổ nhất định. Xác nhận một quốc gia có phải là quốc gia kế thừa của quốc gia trước đó hay không. Xác định quốc gia để lại quyền thừa kế và quốc gia có quyền kế thừa. Xác định quyền và nghĩa vụ pháp lý của quốc gia mới thành lập. Ý nghĩa của kế thừa quốc gia: Quốc gia được xem là chủ thể cơ bản của luật quốc tế, đóng vai trò là linh hồn trong luật quốc tế nên sự kế thừa quốc gia có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quan hệ pháp luật quốc tế cũng như quan hệ giữa các quốc gia hiện nay. Kế thừa có vai trò ngày càng quan trọng trong sinh hoạt quốc tế, khi mà ngày càng có nhiều quốc gia giành lại được độc lập hay có thêm một số quốc gia được chia, tách, sáp nhập. Kế thừa quốc gia đã trở nên ngày càng quan trọng vì hơn bao giờ hết nó ảnh hưởng đến nhiều nước và các quan hệ pháp lý. CHƯƠNG II: SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA ĐỐI VỚI CÁC QUỐC GIA GIẢI PHÓNG DÂN TỘC Vấn đề kế thừa quốc gia sau giải phóng dân tộc: Kế thừa quốc gia do kết quả của phong trào giải phóng dân tộc có những đặc điểm sau đây: Quốc gia mới thành lập, trước đây là thuộc địa hoặc lãnh thổ lệ thuộc vào nước khác. Quốc gia để lại kế thừa vẫn tồn tại và nó vẫn là chủ thể của luật quốc tế. Các quyền và nghĩa vụ quốc tế của quốc gia để lại kế thừa vẫn duy trì ở quốc gia kế thừa nếu không ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ quốc tế của quốc gia mới kế thừa. Quốc gia để lại kế thừa đã bóc lột và đàn áp nhân dân ở nước kế thừa trong nhiều năm nhưng cuối cùng nhân dân ở nước thuộc địa này đã giành được độc lập và thành lập một quốc gia độc lập, có chủ quyền và có địa vị pháp lý bình đẳng với quốc gia để lại kế thừa. Quốc gia mới thành lập có quyền không tôn trọng các điều ước quốc tế mà nước để lại kế thừa đã kí trừ các điều ước kí kết về biên giới, lãnh thổ. Ví dụ: Trong Tuyên Ngôn Độc Lập ngày 2/9/1945 của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có ghi: “Chúng tôi, lâm thời của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ tất cả những hiệp ước và Pháp đã kí về nước Việt Nam, xóa bỏ cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”… Cộng hòa Trung Phi khi giành được độc lập đã tuyên bố: “ Các hiệp ước do cường quốc thuộc địa trước đây đã kí kết nhân danh các lãnh thổ hải ngoại của mình có thể được coi như chỉ còn giữ được hiệu lực đối với những điều khoản không mâu thuẫn với nền độc lập của các quốc gia mới có chủ quyền.”… Về địa vị pháp lý: Trong trường hợp quốc gia mới thành lập muốn tham gia vào các điều ước quốc tế đa phương không giới hạn số lượng thành viên thì báo tin việc thiết lập quy chế quốc gia tham gia vào điều ước đó cho các quốc gia thành viên khác của điều ước biết. Còn nếu là điều ước quốc tế đa phương có giới hạn số lượng thành viên thì quốc gia mới thành lập được tham gia khi được sự đồng ý của tất cả các quốc gia thành viên đồng ý, kể cả quốc gia để lại kế thừa. Về kế thừa tài sản: Quốc gia mới thành lập có quyền kế thừa chính đáng tất cả những tài sản quốc gia có tại lãnh thổ mới giành được. Đồng thời việc kế thừa tài sản còn xem xét đến quá trình bóc lột thuộc địa của quốc gia để lại kế thừa và trách nhiệm bồi thường những tài sản do kết quả bóc lột lao động, tài nguyên của lãnh thổ thuộc địa. Vấn đề kế thừa quy chế thành viên tại các tổ chức quốc tế: Luật quốc tế hiện đại vẫn chưa có những quy phạm giải quyết vấn đề kế thừa quy chế thành viên của quốc gia mới thoát khỏi ách thực dân và lệ thuộc.Thực tiễn của Liên Hiệp Quốc đã kết nạp quốc gia mới giành được độc lập vào tổ chức của mình. Ví dụ điển hình của Xri Lanca và Iran: Kế thừa về lãnh thổ và quốc tịch: Sau hơn một ngàn năm dưới quyền cai trị của những quốc gia độc lập đến ngày 4/2/1948 Xri Lanca đã được trao trả độc lập.Sau khi giành được độc lập họ đã kế thừa toàn bộ lãnh thổ và kế thừa về quốc tịch. Kế thừa về điều ước quốc tế: Về điều ước quốc tế thì hiệp đinh ngày 11/11/1947 giữa Anh và Xri Lanca có viết: “ Tất cả những nghĩa vụ trách nhiệm từ trước đến nay nằm ở chính phủ Vương quốc liên hiệp, phát sinh từ bất kỳ điều ước quốc tế hiện hành nào, từ nay trở đi sẽ chuyển cho chính phủ Xri Lanca.Những quyền và ưu đãi tương trợ nhau từ trước tới nay đã được chính phủ Vương quốc liên hiệp sử dụng được chính phủ Xri Lanca sử dụng từ nay trở đi nhờ có sự áp dụng bất cứ điều ước quốc tế nào nói trên”. Quốc gia Xri Lanca đã ký kết điều ước đặc biệt (Devolution treaty, inheritance agreement) để giải quyết những vấn đề cụ thể về kế thừa. Về quy chế thành viên: Về quy chế thành viên Xri Lanca trở thành thành viên liên hiệp quốc ngày 14/12/1955. Còn Iran sau khi giành được độc lập Hoàng đế Iran đã hủy bỏ hiệp định nhượng quyền bán thuốc lá cho người châu Âu, đồng thời ban hành luật quốc hữu hóa dầu lửa, trưng thu công ty của Anh và tạo ra một công ty mới của Iran để thế chỗ. CHƯƠNG III: KẾ THỪA QUỐC GIA SAU CÁCH MẠNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Vấn đề về kế thừa quốc gia sau Cách mạng Xã hội chủ nghĩa: Quốc gia dưới góc độ chủ thể của luật quốc tế là một đơn vị lãnh thổ - dân cư kết hợp với một cơ cấu chính trị - giai cấp nhất định. Cách mạng xã hội là đỉnh cao của đấu giai cấp, là bước nhảy vọt trong sự phát triển của xã hội mà kết quả là sự thay thế một hình thái kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội mới cao hơn. Đặc trưng của cách mạng là sự thay đổi chính quyền Nhà nước từ tay giai cấp thống trị lỗi thời sang tay giai cấp cách mạng, là sự thay đổi phương thức sản xuất cũ bằng phương thức sản xuất mới. Cách mạng xã hội là phương thức thay thế hình thái kinh tế xã hội này bằng hình thái kinh tế xã hội khác cao hơn, tiến bộ hơn. Kết quả của cách mạng xã hội là sự ra đời của nhà nước mới. Có thể nói đây là bước nhảy vọt vĩ đại trong quá trình phát triển của xã hội loài người: + Cách mạng xã hội đã giải quyết được mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất tức là nó đã làm cho phương thức sản xuất mới ra đời thay thế phương thức sản xuất cũ lạc hậu; trong đó lực lượng sản xuất phát triển, quan hệ sản xuất cũng phải thay đổi cho phù hợp với lực lượng sản xuất. Nhờ cách mạng xã hội đã làm cho đời sống kinh tế của xã hội phát triển (qua đấu tranh giai cấp giữa giai cấp bị trị và giai cấp thống trị). + Cách mạng cũng làm thay đổi đời sống chính trị và văn hóa xã hội (cách mạng xã hội là sự thay chính quyền Nhà nước...) như vậy có thể nói qua cách mạng xã hội, xã hội cũ bị xóa bỏ, xã hội mới ra đời. Đó là bước phát triển nhảy vọt về vật chất của xã hội trong đó mọi mặt của đời sống xã hội đều thay đổi và phát triển như kinh tế, chính trị, văn hóa và tư tưởng. + Nếu trong hình thành kinh tế xã hội mới có chế độ tư hữu, vấn có đối kháng giai cấp thì sự phát triển của các mâu thuẫn nói trên (mâu thuẫn kinh tế, mâu thuẫn giai cấp) sớm hay muộn cũng dẫn đến cách mạng xã hội để chuyển lên hình thái kinh tế xã hội cao hơn, tiến bộ hơn. + Cách mạng xã hội làm xuất hiện chế độ xã hội mới với sự lãnh đạo của giai cấp cách mạng. Như vậy xét về mặt lãnh thổ, tài sản quốc gia mới kế thừa toàn bộ của quốc gia cũ, quốc tịch của công dân không thay đổi. Còn lại điều ước quốc tế và quy chế thành viên, có hai quan điểm. Cuộc cách mạng xã hội cho ra đời quốc gia mới sẽ là chủ thể của luật quốc tế khác về chất so với chủ thể cũ, do đó sẽ có kế thừa quốc gia, vì quốc gia mới với thiết chế chính trị mới lên cầm quyền khác với thiết chế chính trị cũ về đường lối, chính sách đối nội - đối ngoại và mong muốn làm cho quốc gia mình sẽ phát triển, tiến bộ nên quốc gia đó không có nghĩa vụ phải công nhận những quyền và nghĩa vụ của quốc gia cũ gây cản trở cho sự phát triển của quốc gia của mình , đồng thời có quyền quyết định việc quốc gia đó có tiếp tục là thành viên của tổ chức quốc tế nào đó nữa hay không, hoặc có tiếp tục tham gia điều ước hay không mà không phải chịu sự ràng buộc của các chủ thể còn lại khi không ảnh hưởng lớn đến lợi ích các chủ thể đó. Tuy nhiên cái mới này không tuyệt đối mà còn có cả sự kế thừa những cái tốt và thành quả của nhà nước cũ. Sau cuộc cách mạng xã hội chỉ có cơ cấu giai cấp và thiết chế chính trị cầm quyền thay đổi. Vì vậy, quốc gia hình thành sau cách mạng xã hội cũng có nhiều mặt không đồng nhất với quốc gia trước đây. Ví dụ cụ thể: + Trường hợp nước Nga sau cách mạng tháng 10,kế thừa toàn bộ lãnh thổ và giữ quốc tịch cũ, kế thừa toàn bộ tài sản trong phạm vi lãnh thổ và ngoài lãnh thổ nếu chứng minh được tài sản đó có nguồn gốc từ quốc gia kế thừa. Vào đêm 26/10 (tức 8/11) Đại hội Xô viết toàn Nga đã thông qua hai văn kiện đầu tiên của Chính quyền Xô viết: Sắc lệnh hòa bình và Sắc lệnh ruộng đất. Sắc lệnh ruộng đất tuyên bố thủ tiêu không bồi thường ruộng đất của giai cấp địa chủ quý tộc và của các sở hữu lớn khác, quốc hữu hóa toàn bộ ruộng đất. Sắc lệnh ruộng đất đã thể hiện quyền sở hữu của quốc gia mới đối với tài sản lớn nhất của quốc gia: ruộng đất. + Một ví dụ khác sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười, tháng 8 năm 1919, Chính phủ Xô viết đã gửi cho nhân dân Mông Cổ và Chính phủ Ngoại Mông một bức công hàm với nội dung: "Chính phủ Xô viết một lần nữa trịnh trọng tuyên bố rằng: “Nhân dân Nga từ bỏ mọi hiệp ước mà Nga hoàng trước đây đã ký kết với chính phủ Nhật và Trung Hoa về Mông Cổ. Mông Cổ ngày nay là một nước độc lập. Đối với bọn cố vấn, bọn lãnh sự của Nga hoàng, bọn tài phiệt Nga, phải đuổi cổ chúng ra khỏi đất Mông Cổ. Mọi quyền bính ở Mông Cổ đều phải thuộc về tay nhân dân Mông Cổ. Không một nước ngoài nào được can thiệp vào nội trị của Mông Cổ. Hiệp ước Nga - Mông năm 1913 đã bị thủ tiêu. Mông Cổ, một quốc gia độc lập, có quyền ngoại giao trực tiếp với tất cả các nước khác, không cần có sự đỡ đầu hay trung gian nào của Bắc Kinh hay Pêtơrơgrát." CHƯƠNG IV: SỰ KẾ THỪA QUỐC GIA TRONG TRƯỜNG HỢP NHIỀU QUỐC GIA THÀNH MỘT QUỐC GIA 1. Lý thuyết chung về sự kế thừa quốc gia trong trương hợp nhiều quốc gia thành một quốc gia Kế thừa khi một quốc gia thành nhiều quốc gia bao gồm có hai trường hợp đó là hợp nhất và sáp nhập. Chúng ta thường gặp rắc rồi trong việc phân biệt giữa hợp nhất và sáp nhập.. Có thề hiều hai khái niệm này thông qua hình vẽ dưới đây: C Hợp nhất: B A Hợp nhất B Sáp nhập: B Sáp nhập A Vậy hợp nhất là sự kết hợp giữa hai quốc gia có địa vị pháp lý ngang nhau dẫn đến hình thành một quốc gia mới, còn sáp nhập là sự kết hợp của một quốc gia nhỏ vào một quốc gia lớn hơn, không hình thành nên quốc gia mới. + Lãnh thổ: Quốc gia kế thừa kế thừa toàn bộ lãnh thổ của quốc gia để lại kế thừa. Do vật dù hợp nhất hay sáp nhập lãnh thổ đều dẫn tới hệ quả là quốc gia kế thừa có lãnh thổ lớn hơn các quốc gia ban đầu. + Điều ước quốc tế: Đối với trường hợp hợp nhất quốc gia (hình thành liên bang hay liên minh) nếu việc áp dụng điều ước đang có hiệu lực không trái với mục đích của quốc gia mới, hoặc việc thành lập quốc gia mới không trái với đối tượng và mục đích của điều ước, không làm thay đổi cơ bản đối tượng của điều ước thì điều ước quốc tế đó vẫn có hiệu lực tại quốc gia kế thừa. Điểu ước quốc tế không đáp ứng được các điều kiện trên có thể chỉ được áp dụng trên phần lãnh thổ của quốc gia để lại kế thừa. Đặc biệt, nếu điều ước quốc tế đã kí kết mà chưa có hiệu lực pháp luật và quốc gia mới thấy phù hợp có thể tiến hành thỏa thuận kí kết lại. Trường hợp sáp nhập hai quốc gia, quốc gia để lại kế thừa phải tuân theo tất cà các điều ước mà quốc gia nhận kế thừa là thành viên, trừ trường hợp điều ước đó có điều kiện ràng buộc liên quan đến lãnh thổ của quốc gia nhận kế thừa. Lưu ý: Điều 13 Công ước Viên 1978 có quy định những điều ước quốc tế đối với quốc gia thứ ba có liên quan đến biên giới giữa các nước vẫn có hiệu lực. + Tài sản và quốc tịch: Là tổng tài sản của các quốc gia hợp nhất hay sáp nhập. Về quốc tịch, công dân của quốc gia hợp nhất có hai quốc tịch: quốc tịch liên bang và quốc tịch bang. Còn công dân của quốc gia bị sáp nhập sẽ có quốc tịch của quốc gia sáp nhập. + Quy chế thành viên: Tư cách thành viên trong các tổ chức quốc tế của quốc gia bị hợp nhất hay bị sáp nhập sẽ xóa bỏ. Thay vào đó chỉ có quốc gia mới tiếp tục có tư cách thành viên trong tổ chức quốc tế. 2. Hợp nhất và sáp nhập trong lịch sử thế giới: 2.1 Hợp nhất: Điển hình cho trường hợp hợp nhất là Hợp chủng quốc Hoa kỳ, một Cộng hòa lập hiến liên bang gồm 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang. Quốc gia này được thành lập ban đầu với 13 thuộc địa của vương quốc Anh nằm dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Sau khi tự tuyên bố trở thành các “tiểu quốc”, cả 13 cựu thuộc địa đã đưa ra tuyên ngôn độc lập vào ngày 4/7/1776 và sau đó là sự chấp thuận “Những điều khoản liên hiệp với điều khoản đầu tiên được phát biểu “Tên gọi Liên bang này sẽ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.. Hội nghị liên bang quyết định sử dụng bản hiến pháp Hoa Kỳ hiện tại vào 17/9/1789. Việc thông qua bản hiến pháp một năm sau đó đã biến các cựu thuộc địa trở thành một phần của một nước cộng hòa duy nhất. Điển hình cho trường hợp hợp nhất là Hợp chủng quốc Hoa kỳ, một Cộng hòa lập hiến liên bang gồm 50 tiểu bang và một đặc khu liên bang. Quốc gia này được thành lập ban đầu với 13 thuộc địa của vương quốc Anh nằm dọc theo bờ biển Đại Tây Dương. Sau khi tự tuyên bố trở thành các “tiểu quốc”, cả 13 cựu thuộc địa đã đưa ra tuyên ngôn độc lập vào ngày 4/7/1776 và sau đó là sự chấp thuận “Những điều khoản liên hiệp với điều khoản đầu tiên được phát biểu “Tên gọi Liên bang này sẽ là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ”.. Hội nghị liên bang quyết định sử dụng bản hiến pháp Hoa Kỳ hiện tại vào 17/9/1787. Việc thông qua bản hiến pháp một năm sau đó đã biến các cựu thuộc địa trở thành một phần của một nước cộng hòa duy nhất. + Về lãnh thổ : Lãnh thổ của Hoa Kỳ là do kế thừa lại toàn bộ lãnh thổ của 13 cựu thuộc địa trước đây và các tiểu bang còn lại. Đa số các tiểu bang còn lại đã được thành lập từ n
Luận văn liên quan