Đề tài Khái Quát Về Trí Nhớ

Trí nhớ là quá trình tâm lí phản ánh vốn kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bằng cách ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải qua. Cũng như cảm giác và tri giác, trí nhớ cũng là một quá trình tâm lí, song cảm giác và tri giác phản ánh những sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta, còn trí nhớ là sự phản ánh những sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Nói cách khác, trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người. Kinh nghiệm này có thể là những hình ảnh cụ thể, có thể là những trải nghiệm hay rung động, những cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng. Sản phẩm được tạo ra trong quá trình ghi nhớ là các biểu tượng. Biểu tượng của trí nhớ là hình ảnh của sự vật hiện tượng nảy sinh trong óc ta khi không có sự vật hiện tượng tác động trực tiếp vào các giác quan ta. Biểu tượng chính là kết quả của sự chế biến và khái quát hóa các hình ảnh của tri giác trước đây. Không có tri giác thì không thể có các biểu tượng được. Biểu tượng khác với hình tượng của tri giác ở chỗ: biểu tượng phản ánh sự vật một cách khái quát hơn. Nó phản ánh những dấu hiệu đặc trưng trực quan của sự vật hiện tượng. Như vậy biểu tượng vừa mang tính chất trực quan, vừa mang tính chất khái quát. Nó giống hình ảnh của cảm giác và tri giác ở tính trực quan, nhưng nó cao hơn ở tính khái quát. Mức độ đúng đắn, sâu sắc và bền vững của trí nhớ một phần phụ thuộc vào nội dung, tính chất của sự vật hiện tượng, tài liệu cần nhớ. Mặt khác còn phụ thuộc vào chủ thể của hoạt động nhớ. Những sự vật hiện tượng, tài liệu có liên quan nhiều đến nhu cầu, hứng thú, tình cảm của con người, được ghi lại, gìn giữ và nhớ lại sâu sắc, đầy đủ hơn.

docx29 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4491 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khái Quát Về Trí Nhớ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Khái niệm chung về trí nhớ Trí nhớ là quá trình tâm lí phản ánh vốn kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bằng cách ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại những điều mà con người đã trải qua. Cũng như cảm giác và tri giác, trí nhớ cũng là một quá trình tâm lí, song cảm giác và tri giác phản ánh những sự vật, hiện tượng đang trực tiếp tác động vào các giác quan của ta, còn trí nhớ là sự phản ánh những sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây mà không cần có sự tác động của bản thân chúng trong hiện tại. Nói cách khác, trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người. Kinh nghiệm này có thể là những hình ảnh cụ thể, có thể là những trải nghiệm hay rung động, những cảm xúc, ý nghĩ, tư tưởng. Sản phẩm được tạo ra trong quá trình ghi nhớ là các biểu tượng. Biểu tượng của trí nhớ là hình ảnh của sự vật hiện tượng nảy sinh trong óc ta khi không có sự vật hiện tượng tác động trực tiếp vào các giác quan ta. Biểu tượng chính là kết quả của sự chế biến và khái quát hóa các hình ảnh của tri giác trước đây. Không có tri giác thì không thể có các biểu tượng được. Biểu tượng khác với hình tượng của tri giác ở chỗ: biểu tượng phản ánh sự vật một cách khái quát hơn. Nó phản ánh những dấu hiệu đặc trưng trực quan của sự vật hiện tượng. Như vậy biểu tượng vừa mang tính chất trực quan, vừa mang tính chất khái quát. Nó giống hình ảnh của cảm giác và tri giác ở tính trực quan, nhưng nó cao hơn ở tính khái quát. Mức độ đúng đắn, sâu sắc và bền vững của trí nhớ một phần phụ thuộc vào nội dung, tính chất của sự vật hiện tượng, tài liệu cần nhớ. Mặt khác còn phụ thuộc vào chủ thể của hoạt động nhớ. Những sự vật hiện tượng, tài liệu có liên quan nhiều đến nhu cầu, hứng thú, tình cảm… của con người, được ghi lại, gìn giữ và nhớ lại sâu sắc, đầy đủ hơn. Từ định nghĩa về trí nhớ cũng cho thấy trí nhớ là một hoạt động tâm lí phức tạp bao gồm nhiều hành động: ghi nhớ, gìn giữ, nhận lại và nhớ lại. Các hành động nói trên có quan hệ mật thiết với nhau trong một chỉnh thể, tạo nên kho tàng trí nhớ của con người. 2. Vai trò của trí nhớ Trong cuộc sống của con người trí nhớ có vai trò rất quan trọng. Trí nhớ là điều kiện không thể thiếu được để con người có đời sống tâm lí bình thường và ổn định. Nhờ có trí nhớ mà con người tích lũy vốn kinh nghiệm và đem những kinh nghiệm đó vận dụng vào cuộc sống. Như vậy không có trí nhớ thì không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không thể có bất cứ một hành động nào, không thể phát triển tâm lí, nhân cách con người. I.M. Xêtrenốp cho rằng: “Trí nhớ là điều kiện cơ bản của cuộc sống tâm lí” là “cơ sở của sự phát triển tâm lí”, “nếu không có trí nhớ thì con người mãi mãi ở tình trạng của một đứa trẻ sơ sinh”. Đối với hoạt động nhận thức của con người, trí nhớ có vai trò đặc biệt to lớn. Nó là công cụ để lưu giữ lại kết quả của các quá trình cảm giác và tri giác, nhờ đó nhận thức phân biệt được cái mới tác động lần đầu tiên và cái cũ đã tác động trước đây để có thể ứng xử thích hợp tức thì với hoàn cảnh sống. Trí nhớ là một điều kiện quan trọng để diễn ra quá trình nhận thức lí tính (tư duy và tưởng tượng) và làm cho quá trình này đạt kết quả hợp lí. Ở đậy trí nhớ đã cung cấp các tài liệu do nhận thức cảm tính thu nhận cho nhận thức lí tính một cách trung thành và đầy đủ. Như vậy trí nhớ phản ánh kinh nghiệm của con người trong mọi lĩnh vực: nhận thức, tình cảm và hành vi, do đó trí nhớ có tính chất quyết định đời sống tâm lí con người, quyết định sự hình thành và phát triển nhân cách con người. Ở những người bị bệnh hỏng trí nhớ, ta thấy cuộc sống hàng ngày của học bị rối loạn, không bình thường, họ không có khả nắng suy nghĩ, sáng tạo hay dự kiến tương lai trên cơ sở những hiểu biết và kinh nghiệm đã có. 3. Cơ sở sinh lí của trí nhớ Cơ sở sinh lí của trí nhớ là sự hình thành, giữ lại và gợi lại những đường liên hệ thần kinh tạm thời và sự diễn biến của các quá trình lí hóa trong vỏ não và dưới vỏ. Những đường liên hệ thần kinh tạm thời đó được củng cố tương đối vững chắc nhờ có sự lặp đi lặp lại nhiều lần và có thời gian nhất định để củng cố. Khi ta nhớ lại, nhận lại một sự vật, hiện tượng nào đó cũng có nghĩa là ta đã phục hồi những đường liên hệ thần kinh tạm thời đã được thành lập trước đây. Sự hình thành và giữ gìn các đường liên hệ tạm thời, sự dập tắt và làm sống lại chúng chính là cơ sở sinh lí của các liên tưởng, của trí nhớ. I.P. Paplốp đã viết: “Đường liên hệ thần kinh tạm thời là một hiện tượng tâm lí phổ cập trong thế giới động vật và cả trong bản thân chúng ta. Đồng thời nó cũng là hiện tượng tâm lí cái mà các nhà tâm lí gọi là liên tưởng (I.P. Paplốp toàn tập - trang 325). Trí nhớ là một quá trình phức tạp, cho đến nay chưa có một lí thuyết thống nhất về cơ chế trí nhớ, trong đó thuyết tế bào thần kinh được nhiều nhà khoa học quan tâm. Thuyết này cho rằng các tế bào thần kinh tạo thành những chuỗi và theo những chuỗi đó các luồng điện sinh học chạy tuần hoàn. Do ảnh hưởng của các luồng điện sinh học này mà xảy ra những biến đổi trong các xináp (nơi tiếp giáp giữa các tế bào thần kinh), điều này làm dễ dàng cho sự đi qua tiếp theo của những luồng điện sinh học theo các con đường đó. Tính chất khác biệt của các chuỗi tế bào thần kinh (nơtron) tương ứng với các thông tin được củng cố. (Theo “Tâm lí học đại cương” _Nguyễn Xuân Thức) Để hiểu thêm về trí nhớ chúng ta sẽ đi sâu vào nó hơn I.KHÁI NIỆM TRÍ NHỚ Gồm các nội dung sau: 1. Trí nhớ, vai tró của trí nhớ và khả năng lưu giữ dấu vết 2. Phân loại trí nhớ 3. Cơ chế nhớ 4. Phát triển trí nhớ Trí nhớ là gì? Sự hình thành và tạo trí nhớ như thế nào? Khả năng lưu giữ trí nhớ của não bộ ra sao?  Tại sao con người lại có thể nhớ được? Quá trình cơ bản của trí nhớ? Làm sao để nhớ nhiều, nhớ lâu?  Đó là những vấn đề các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. 1. Trí nhớ, vai trò của trí nhớ và khả năng lưu giữ các dấu vết + Khái niệm: Trí nhớ là một quá trình tâm lý phản ánh những kinh nghiệm của cá nhân dưới hình thức biểu tượng, bao gồm sự ghi nhớ, giữ gìn và tái tạo sau đó ở trong óc cái mà con người đã cảm giác, tri giác, rung động, hành động hay suy nghĩ.  - Ghi nhớ có chủ định và không có chủ định. Nhớ không có chủ định là tự nhiên nhớ, không có chủ ý.  Ghi nhớ có chủ định là sự nhớ có mục đích, có nỗ lực ý chí, thủ thuật, phương pháp. - Ghi nhớ máy móc và ghi nhớ có ý nghĩa. Ghi nhớ có ý nghĩa là có sự thông hiểu nội dung của tài liệu, hiểu mối quan hệ lôgic giữa các bộ phận, cần đến tư duy. - Học thuộc lòng và thuật nhớ là sự kết hợp giữa ghi nhớ máy móc và và ghi nhớ có ý nghĩa, tức hiểu rồi mới lập lại nhiều lần cho in sâu. Thuật nhớ là việc tạo ra các mối quan hệ giả tạo bên ngoài giúp cho việc nhớ dễ dàng hơn. - Nhớ lại  là khi không tiếp xúc với nó trong hiện tại nhưng trong đầu của mình vẫn có đầy đủ hình ảnh. Trí nhớ có ba mức độ: Trí nhớ tái hiện: mức cao nhất, nhớ lại mà không cần “gặp” lại; Trí nhớ tái nhận: thấp hơn, có gặp lại thì mới nhớ! Trí nhớ khai thông: mức thấp nhất, “gặp” lại cũng không nhớ! + Vai tró của trí nhớ : Trí nhớ có vai trò rất to lớn. Không có nó, không có kinh nghiệm, không có kinh nghiệm thì không có bất cứ hoạt động nào, không hình thành được nhân cách. Trí nhớ phản ánh kinh nghiệm thuộc mọi lãnh vực: nhận thức, cảm xúc, hành vi; thế nên nó có vai trò rất quan trọng trong tâm lý và nhân cách con người. Nó bảo đảm sự thống nhất và toàn vẹn của nhân cách. Điều này được thấy rõ qua những người bị bệnh hỏng trí nhớ, họ không còn khả năng thống nhất bản thân, họ không xây dựng được nhân cách. Chính vì điều này mà trí nhớ không chỉ có vai trò trong việc tích luỹ tri thức mà còn trong việc hình hành nhân cách nữa. Vậy làm thế nào để có thể nhớ nhiều, nhớ lâu? - Đối tượng cần nhớ phải có ấn tượng. Chẳng hạn, trong việc đọc sách, phải biết ngạc nhiên khi nhìn cuốn sách, ngạc nhiên khi thấy cách trình bày của tác giả, ngạc nhiên trước suy nghĩ của họ. Khi ngạc nhiên là khi có ấn tượng! - Phải có tình cảm với đối tượng. Chẳng hạn học mà không yêu cái mình học, làm việc mà không yêu cái mình làm, thì chẳng có gì để chờ mong và sẽ không thể nhớ lâu. - Phải tạo ra tính hệ thống và logic. Chẳng hạn việc cố gắng sắp xếp những gì đã học cho có hệ thống và tập suy tư để ra vào hệ thống đó cách thường xuyên là điều rất cần thiết. - Để có trí nhớ tốt phải rèn luyện, học tập chăm chỉ, không có thuốc nào làm tăng trí nhớ cả. + Các thí nghiệm tìm lại dấu vết xưa Trong cuộc sống hành ngày, rất nhiều kỉ niệm, sự kiện mà chúng ta đã gặp bị đẩy vào dĩ vãng và lâu dần các kỉ niệm  đó không còn tái hiện nữa. Song về mặt sinh lý học thì các dấu vết về các hiện tượng  và sự vật đã được não ghi nhận lại sẽ không bao giờ biến mất. Vậy làm thế nào để tái hiện lại các dấu vết đó? Penfield đã sử dụng các điện cực cấy vào các phần khác nhau của não bộ hay sử dụng biện pháp thôi miên để tái hiện lại các ký ức của bệnh nhân. Kết quả họ đã nhớ lại được các hình ảnh thời thơ ấu rất rõ nét đến từng chi tiết một. Như vậy kích thích điện đã tái hiện lại các hình ảnh mà trong cuộc sống bình thường hàng ngày người ta không để ý tới nó và tưởng chừng như không bao giờ nhớ tới nó. + Những đặc điểm của các hiện tượng xuất hiện dưới tác động của kích thích điện : - Thể hiện rất rõ nét, hoàn toàn khác với lúc ta nhớ lại và cũng không giống như ta hồi tưởng lại quá khứ. - Quá khứ do kích thích điện tạo ra không giống như những hình ảnh ta nhớ lại. Đó là những “băng” ghi hình. Do đó khi điện cực chạm vào một băng nào đó thì quá khứ sẽ tái hiện lại một cách tuần tự về mặt không gian và thời gian, với tốc độ nhất định đúng như nó đã xảy ra trong quá khứ. - Trong một thời điểm nhất định kích thích điện chỉ có thể rút ra từ não bộ một ký ức nhất định nào đó mà hoàn toàn không chạm tới các ký ức nằm ngay cạnh nó. Các thông tin lưu giữ trong não sẽ được điều động dần theo trình tự nhất định. - Việc tái tạo lại hình ảnh của quá khứ có thể lặp đi lặp lại nhiều lần bằng cách ngừng tác động của kích thích sau đó tác động trở lại điểm cũ. Kết quả, sau mỗi lần kích thích trở lại, các hiện tượng lại diễn ra từ đầu theo trình tự về mặt thời gian từ quá khứ đến hiện tại. Nói tóm lại, dòng điện không tạo ra các hiện tượng mới, nó chỉ làm tái hiện lại các hiện tượng đã xảy ra trong quá khứ theo một trình tự nhất định về mặt thời gian và không gian. 2. Phân loại trí nhớ Toàn bộ các cách nhớ được chia làm 2 nhóm chính:  trí nhớ bền vững (trí nhớ dài hạn) và  trí nhớ thay đổi (trí nhớ ngắn hạn) Theo Beritov và cộng sự thì tồn tại 5 loại trí nhớ khác nhau: - Trí nhớ ngắn hạn: chỉ tồn tại trong vòng một phút sau khi tiếp nhận một sự kiện hay hiện tượng nào đó. - Trí nhớ dài hạn: có khả năng lưu giữ hình ảnh trong vòng nhiều ngày, nhiều tháng, nhiều năm - Trí nhớ hình tượng: là hiện tượng lưu giữ và tái hiện các hình ảnh về một sự việc hay hiện tượng quan trọng nào đó. -  Trí nhớ phản xạ:  là trí nhớ biểu hiện của các phản xạ sau một thời gian dài. - Trí nhớ cảm xúc:  lưu giữ và tái hiện lại các cảm xúc dưới tác động của các hiện tượng có ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống. 3. Cơ chế nhớ Theo Haiden khi một kích thích nào đó tác động nhiều lần vào nơron sẽ là xuất hiện điện thế động đặc trưng cho nó và làm thay đổi sự cân bằng ion trong sinh chất của tế bào thần kinh liên hợp. Nó sẽ hoạt hóa ADN trong nhân tế bào, làm ADN thay đổi cấu trúc, từ đó tạo ra ARN. ARN trung gian đặc biệt sẽ tham gia vào quá trình hình thành protein trong sinh chất, đặc trưng cho từng cá thể. Protein này có thể tồn tại trong thời gian dài và có thể được tái hiện lại. Việc cải tổ ARN và hình thành protein đặc trưng xảy ra từ lần kích thích đầu tiên và tồn tại rất lâu. Việc lưu giữ hình ảnh do thay đổi ion khi có kích thích sẽ ảnh hưởng tới ADN, làm tăng cường tổng hợp ARN trung gian. ARN trung gian di chuyển tới các điểm xináp đã được hoạt hóa. Phân tử protein được hoạt hóa nhờ riboxom sẽ tồn tại trong một thời gian dài trước khi chuyển sang dạng bất động. Trong trạng thái hoạt hóa, các protein sẽ giữ cho tính thấm của màng luôn ở trạng thái cao. Nhờ vậy mà khả năng thay đổi hưng tính của tế bào đối với tác động của các xung tiếp theo sẽ xảy ra dễ dàng hơn. Theo Beritov, mỗi lần tế bào bị hoạt hóa lại xuất hiện ARN trung gian và một protein hoạt hóa. Chúng không đặc trưng cho từng trường hợp cụ thể. Chúng chỉ khác nhau về nồng độ và cách phân bố bên trong tế bào, tùy thuộc vào vùng sau xinap bị hoạt hóa. Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu về hoá sinh não bộ và giả thuyết về cơ sở hoá học của trí nhớ P.K.Anokhin cho rằng những biến đổi diễn ra trong tế bào thần kinh dưới tác động của các luồng hưng phấn có điều kiện và không điều kiện, đã làm biến đổi mã của ARN và tổng hợp các protein mới. Các protein mới này duy trì đường lên hệ giữa hai luồng hưng phấn nói trên. Như vậy, các protein được tổng hợp trong quá trình hình thành các phản xạ là chất giữ trí nhớ hay cơ chất của phản xạ có điều kiện. Tóm lại, việc tái hiện lại các hình ảnh hay còn gọi là trí nhớ hình tượng trong các thời điểm khác nhau có nguồn gốc phát sinh không giống nhau. Trong giai đoạn đầu, việc tái hiện lại hình ảnh thực hiện được nhờ lưu thông hưng phấn trong các vòng nơron. Sau đó, trong vòng vài phút, việc tái hiện lại các hình ảnh thực hiện nhờ tăng tính thấm của các ion tại các vùng xinap do tăng bài xuất các chất môi giới thần kinh vào khe xinap sau khi ngừng kích thích. Việc tái hiện lại các hình ảnh sau vài ngày, vài tuần, hoặc lâu hơn nữa là do xuất hiện protein hoạt hóa bền vững có khả năng làm tăng tính thấm của màng sau xinap đối với các ion nên việc chuyển sang trạng thái hưng phấn thực hiện được một cách dễ dàng hơn, hình ảnh dễ dàng được tái hiện lại. 4. Phát triển trí nhớ Não có khả năng giữ lại các thông tin từ môi trường xung quanh trong một thời gian ngắn. Đó là bước đầu mã hóa các tín hiệu hướng tâm dưới dạng các xung thần kinh. Nếu không được chọn lọc và củng cố thì các thông tin ban đầu sẽ biến mất một cách nhanh chóng trong vài giây. Ngược lại, nếu não ưu tiên dành cho các xung hướng tâm một sự tập trung nhất định và tuyển chọn chúng, sẽ xảy ra các hiện tượng tiếp theo, chúng được lưu lại thêm vài phút nữa để thử thách dưới dạng trí nhớ trung gian. Sau khi xem xét và so sánh kỹ  lưỡng, não sẽ dựa vào mức độ cần thiết và quan trọng của kích thích mà cố định nó dưới dạng trí nhớ dài một cách chắc chắn. Nếu không, các kích thích ban đầu sẽ mờ dần không thể tái hiện lại được. Vì vậy muốn trí nhớ tốt phải rèn luyện khả năng tập trung chú ý để chuyển trí nhớ ngắn thành trí nhớ dài. Việc mã hóa các tín hiệu hướng tâm dưới dạng trí nhớ dài là quá trình tích lũy và bổ sung kinh nghiệm cho con người. Nó đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của tất cả các phần thuộc vỏ bán cầu đại não và cấu trúc dưới vỏ. II.Phân loại trí nhớ Trí nhớ được chia làm rất nhiều loại theo các tiêu chí khác nhau, trong đó có năm cách phân chia phổ biến như sau: 1. Dựa vào nguồn gốc hình thành trí nhớ Trí nhớ giống loài là loại trí nhớ được hình thành trong quá trình phát triển chủng loại, mang tính chung cho cả giống loài và được biểu hiện dưới hình thức những bản năng, những phản xã không điều kiện. Trí nhớ cá thể là loại trí nhớ được hình thành trong quá trình phát triển cá thể, không mang tính chất giống loài, mà mang tính chất cá thể. Ở động vật loại trí nhớ này được biểu hiện ở những kĩ xảo, những phản xạ có điều kiện. Ở con người, trí nhớ cá thể được biểu hiện trong kho tang kinh nghiệm cá nhân phong phú của mỗi chúng ta. 2. Căn cứ vào nội dung phản ánh của trí nhớ Trí nhớ vận động: phản ánh những cử động và những hệ thống cử động. Ý nghĩa to lớn của loại trí nhớ này là nó là cơ sở để hình thành những kĩ xảo thực hành và lao động khác nhau: đi đứng, viết lách… sự “khéo chân khéo tay”, hay “bàn tay vàng” là những dấu hiệu của trí nhớ vận động tốt. Trí nhớ cảm xúc: phản ánh những rung cảm, trải nghiệm của con người. Những rung cảm, trải nghiệm được trực lại trong trí nhớ bộc lộ như là những tín hiệu hoặc kích thích hành động, hoặc kìm hãm hành động mà trước đây đã gây nên những rung cảm dương tính hoặc âm tính. Khả năng đồng cảm với người khác, với các nhân vật trong sách… đều được dựa trên cơ sở của trí nhớ cảm xúc. Trí nhớ hình ảnh: đây là loại trí nhớ phản ánh những hình ảnh, biểu tượng thị giác, thính giác, khứu giác, vị giác của các sự vật, hiện tượng đã tác động vào ta trước đây. Loại trí nhớ này có thể đạt đến trình độ phát triển cáo một cách lạ thường trong điều kiện nó phải bù trừ hoặc thay thế cho những loại trí nhớ đã bị mất, chẳng hạn như những người mù, điếc…Nó phát triển rất mạnh ở người làm nghề “nghệ thuật”. Đôi khi ta gặp những người gọi là trí nhớ thị giác, nghĩa là loại trí nhớ mà biểu tượng của nó nảy sinh trong óc một cách sống động, tựa như sự vật, hiện tượng không có trước mặt, “nghe thấy” những vật trong hiện tại- đó là loại biểu tượng đặc biệt, rất chi tiết, đầy đủ như là hình ảnh của tri giác vậy. Trí nhớ từ ngữ - logic: loại trí nhớ này phản ánh những ý nghĩ, tư tưởng của con người. Ý nghĩ, tư tưởng không thể tồn tại bên ngoài ngôn ngữ được, vì vậy người ta gọi loại trí nhớ này là trí nhớ từ ngữ - logic. Hệ thống tín hiệu thứ hai có vai trò chính trong loại trí nhớ này. Đây là loại trí nhớ đặc trưng cho con người, ở con vật không có. Trên cơ sở phát triển của các loại trí nhớ kể trên, trí nhớ từ ngữ - logic trở thành loại trí nhớ chủ đạo ở con người, nó giữ vai trò chính trong sự lĩnh hội tri thức của học sinh trong quá trình dạy học. 3. Dựa vào tính mục đích của trí nhớ Trí nhớ không chủ định là loại trí nhớ mà trong đó việc ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện một cái gì đó được thực hiện mà không theo mục đích định trước. Trí nhớ có chủ định được diễn ra the những mục đích xác định. 4. Dựa vào thời gian củng cố và gìn giữ tài liệu Muốn cho một tài liệu nào đó được củng cố trong trí nhớ, thì nó cần được chủ thể chế biến một cách thích hợp. Việc chế biến đó đòi hỏi một thời gian nhất định, gọi là thời gian củng cố các dấu vết. Nếu thời gian này diễn ra ngắn ngủi chốc lát và do đó dấu vết được giữ lại cũng chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, thì đó gọi là trí nhớ ngắn hạn. Trí nhớ ngắn hạn được con người sử dụng trong trường hợp phải thực hiện những hành động, những thao tác cấp bách, nhất thời. Sau khi hành động hay thao tác được thực hiện thì trí nhớ trở nên không cần thiết nữa. Vì vậy người ta còn gọi trí nhớ ngắn hạn là trí nhớ tác nghiệp. Nếu thời gian củng cố các dấu vết được kéo dài sau nhiều lần lặp lại và tái hiện nó, và do đó, những dấu vết ấy được gìn giữ lâu dài, thì gọi đó là trí nhớ dài hạn. Tùy theo nhiệm vụ và yêu cầu cụ thể trong từng hoạt động của con người mà cả hai loại trí nhớ này đều có vai trò quan trọng trong đời sống và trong công tác của chúng ta. 5. Dựa theo giác quan chủ đạo trong trí nhớ Mỗi người chúng ta thường thiên về sử dụng một loại giác quan nào đó là chính trong quá trình ghi nhớ, gìn giữ và tái hiện (bằng mắt, bằng tay, bằng tai…). Đó là một đặc điểm cá nhân của trí nhớ mỗi người mà khi rèn luyện trí nhớ ta cần phải tính đến. Tóm lại, tất cả các loại trí nhớ trên đây đều liên hệ qua lại với nhau, bởi vì các tiêu chuẩn phân loại trí nhớ trên đây đều liên quan đến các mặt khác nhay trong hoạt động của con người, các mặt này được biểu hiện không phải một cách riêng lẻ, mà thành một thể thống nhất. Ngoài ra, giữa các loại trí nhớ trong cùng một tiêu chuẩn phân loại cũng có mối quan hệ mật thiết với nhau. (Theo “Tâm lí học đại cương” _ Nguyễn Xuân Thức) III.8 Quy Luật Của Trí Nhớ 1. Quy luật nhận biết: Một quy luật tưởng chừng như đơn giản nhất nhưng lại rất quan trọng. Trí nhớ càng sâu sắc khi con người nắm chắc những gì đã biệt, dễ dàng nhớ đến mức chi tiết về những điều còn đọng lại trong đầu. 2. Quy luật hứng thú: Sự hứng thú về khẩu vị giúp trí thức bột phát tái hiện trên màn ảnh trí tuệ như thể các nhân vật kịch xuất hiện trên sân khấu mà không cần đền một nỗ lực đặc biệt nào. 3. Quy luật tích luỹ: Càng hiểu biết uề một vấn đề cụ thể thì con người càng dễ dàng nhớ lại tất cả những thông tin mới phù hợp với vấn đề ấy. Cần lưu ý là: khi mở một quyển sách ra để đọc phải coi như mới đọc lần đầu. Bởi lẽ khi ta đọc lần đầu, ta chưa có đ
Luận văn liên quan