Đề tài Khủng hoảng trên thị trường chứng khoán Việt Nam - Diễn biến và nguyên nhân

Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức kỷ niệm sinh nhật lần thức 11 ngày 20/7/2011. Với những nhà đầu tư đã trải qua quãng đường suốt 11 năm trời ròng rã cùng với thị trường, biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn đã đến và đi. Được đấy và cũng mất đấy, đồ thị dao động tâm trạng của nhà đầu tư cũng hệt như biến động hình sin của thị trường trong vòng 10 năm. Con sóng đầu tiên từ thuở "khai sinh lập địa" đã làm cho mỗi nhà giàu ở Hà Nội được cộng thêm một chiếc Mercedes vào tài sản cá nhân cứ sau một phiên thị trường tăng nóng. Nó đã mang lại lợi lộc cho không biết bao nhiêu người. Dĩ nhiên, lợi lộc của người này lại là mất mát của người nọ - quy luật bất biến và cũng là bài toán bù trừ trong TTCK. Song ít gì, trong 10 năm đầu, thị trường có xuống có lên, chủ thuyết đầu tư dài hạn ít ra còn có tác dụng đối với những người kiên nhẫn. Tài sản không đến nỗi đội nón ra đi không bao giờ trở lại. Hoàn toàn không giống với những gì đã bắt đầu từ ngày sinh nhật 20/7/2010. Đợt khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2007 và tình trạng đang suy thoái của thị trường hẳn làm không ít nhà đầu tư phải lo lắng, buồn phiền. Nhóm sinh viên Học viện ngân hàng đã chọn đề tài “Khủng hoảng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Diễn biến và nguyên nhân” với mong muốn đem đến một cái nhìn tổng quan nhất về diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng cũng như nguyên nhân khiến thị trường rơi vào tình trạng này.

doc24 trang | Chia sẻ: ducpro | Lượt xem: 4515 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Khủng hoảng trên thị trường chứng khoán Việt Nam - Diễn biến và nguyên nhân, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 3 I. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY 4 1. Kinh tế thế giới 4 2. Kinh tế Việt Nam 9 II. KHỦNG HOẢNG TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM TỪ 2008 ĐẾN NAY 14 1. Tổng quan thị trường chứng khoán Việt Nam 2008 – nay 14 2. Diễn biến khủng hoảng trên TTCK Việt Nam 2008 – nay 15 3. Nguyên nhân khủng hoảng 18 3.1. Nguyên nhân khách quan 18 3.2. Nguyên nhân chủ quan 19 III. HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 22 TÀI LIỆU THAM KHẢO 24 DANH SÁCH NHÓM VÀ ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊN 24 LỜI NÓI ĐẦU Thị trường chứng khoán Việt Nam đã chính thức kỷ niệm sinh nhật lần thức 11 ngày 20/7/2011. Với những nhà đầu tư đã trải qua quãng đường suốt 11 năm trời ròng rã cùng với thị trường, biết bao nhiêu kỷ niệm vui buồn đã đến và đi. Được đấy và cũng mất đấy, đồ thị dao động tâm trạng của nhà đầu tư cũng hệt như biến động hình sin của thị trường trong vòng 10 năm. Con sóng đầu tiên từ thuở "khai sinh lập địa" đã làm cho mỗi nhà giàu ở Hà Nội được cộng thêm một chiếc Mercedes vào tài sản cá nhân cứ sau một phiên thị trường tăng nóng. Nó đã mang lại lợi lộc cho không biết bao nhiêu người. Dĩ nhiên, lợi lộc của người này lại là mất mát của người nọ - quy luật bất biến và cũng là bài toán bù trừ trong TTCK. Song ít gì, trong 10 năm đầu, thị trường có xuống có lên, chủ thuyết đầu tư dài hạn ít ra còn có tác dụng đối với những người kiên nhẫn. Tài sản không đến nỗi đội nón ra đi không bao giờ trở lại. Hoàn toàn không giống với những gì đã bắt đầu từ ngày sinh nhật 20/7/2010... Đợt khủng hoảng bắt đầu từ cuối năm 2007 và tình trạng đang suy thoái của thị trường hẳn làm không ít nhà đầu tư phải lo lắng, buồn phiền. Nhóm sinh viên Học viện ngân hàng đã chọn đề tài “Khủng hoảng trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Diễn biến và nguyên nhân” với mong muốn đem đến một cái nhìn tổng quan nhất về diễn biến thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời kỳ khủng hoảng cũng như nguyên nhân khiến thị trường rơi vào tình trạng này. TỔNG QUAN VỀ KINH TẾ THẾ GIỚI VÀ KINH TẾ VIỆT NAM TỪ 2008 – NAY Kinh tế thế giới Năm 2008 Năm 2008 đã đi vào lịch sử của những biến động kinh tế và cũng là năm mà giới đầu tư trên thế giới nhận ra rằng hệ thống tài chính có lớn và vững mạnh đến đâu cũng có những hạn chế và rủi ro nhất định của nó. Cục diện thế giới tài chính có thể sẽ thay đổi nhiều sau năm 2008 kể từ cuộc đại khủng khoảng năm 1929-1933, trong đó khủng hoảng hệ thống tài chính, nợ dưới chuẩn và khủng hoảng trong lĩnh vực bất động sản được nhắc tới như là những chủ đề trọng tâm nhất của năm. Cuộc khủng hoảng tài chính được “châm ngòi” bằng hoạt động cho vay thế chấp dưới chuẩn dễ dãi và thiếu kiểm soát ở Mỹ. Số lượng các khoản vay loại này phát triển bùng nổ trong thời kỳ hình thành bong bóng trên thị trường địa ốc ở Mỹ, do người đi vay đặt nhiều hy vọng vào việc mua nhà để bán kiếm lời, còn các ngân hàng thì nhận thấy những khoản lợi nhuận quá béo bở.Cuộc khủng hoảng tài chính đã đẩy đồng loạt cả ba nền kinh tế lớn nhất thế giới là Mỹ, Nhật Bản và khu vực sử dụng đồng tiền chung châu Âu vào suy thoái.Suy thoái tại các nền kinh tế lớn - đồng thời là thị trường xuất khẩu chủ chốt của các nền kinh tế đang nổi lên - kéo tốc độ tăng trưởng sụt giảm trên phạm vi toàn cầu. Trong quý 3, kinh tế Trung Quốc tăng trưởng với tốc độ 9%, thấp nhất trong vòng 5 năm trở lại. Bối cảnh thị trường dầu thô liên tiếp lập kỷ lục và thiếu chút nữa chinh phục mốc 150 USD/thùng, lạm phát là nỗi lo canh cánh của cả thế giới. Tuy nhiên, càng về cuối năm, nỗi lo này càng giảm bớt cùng với sự đi xuống nhanh chưa từng có của giá nhiên liệu.Thế giới lại phải đương đầu với một mối đe dọa mới là giảm phát,giá cả lương thực giảm, dẫn tới hạn chế đầu tư phát triển diện tích trồng trọt, dẫn tới nguồn cung eo hẹp,đe dọa nghiêm trọng cuộc sống của tầng lớp dân nghèo. Chính sách tiền tệ: Từ chủ trương thắt chặt tiền tệ để chống khủng hoảng, thế giới đã chuyển sang nới lỏng mạnh mẽ chính sách này để chống khủng hoảng và hỗ trợ tăng trưởng.Cùng với việc hạ lãi suất, các nước cũng liên tục bơm tiền với khối lượng lớn vào hệ thống tài chính và nền kinh tế để tăng cường tính thanh khoản cho thị trường. Hai mặt hàng được quan tâm nhiều là vàng và dầu thô đều cùng đạt đỉnh cao lịch sử trong năm nay, với mức trên 1.030 USD/oz đối với giá vàng vào thời điểm tháng 3, và mức trên 147 USD/thùng đối với giá dầu vào giữa tháng 7. Sau đó, giá cả hai mặt hàng này cùng trượt dốc dài. Năm 2009 Nền kinh tế thế giới đã dần sáng trở lại sau cơn bão tài chính. Cuộc khủng hoảng đã khép lại khi các trung tâm kinh tế tài chính lớn phát đi những tín hiệu phục hồi. Những biện pháp quyết liệt trong chính sách tiền tệ nới lỏng và tài khóa mở rộng của các chính phủ được nhận định là nguyên nhân chính đem lại sự phục hồi nhanh chóng của kinh tế thế giới. Các nước trên thế giới đã có sự liên kết hợp tác trong hành động ứng cứu nền kinh tế, mà đặc biệt quan trọng là chương trình hành động của các quốc gia nhóm G20. Theo số liệu của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) những nước nhóm G20 đã chi tổng cộng khoảng 10 nghìn tỉ USD để kìm hãm đà suy giảm. Trong đó, Anh là nước chi nhiều nhất, đến 94% GDP, kế đến là Mỹ, 25% GDP. Cục dữ trữ liên bang Mỹ đã duy trì lãi suất FED ở mức thấp gần 0% để kích thích tiêu dùng và sản xuất nhằm vực dậy nền kinh tế. Kinh tế toàn cầu đã bắt đầu có dấu hiệu phục hồi từ trong quý II/2009. Hầu hết các quốc gia trên thế giới đã có tốc độ tăng trưởng GDP dương trong quý III và quý IV/2009. Chỉ số giá tiêu dùng CPI của nhiều quốc gia cũng bắt đầu tăng trưởng dương cho thấy dấu hiệu phục hồi trở lại của nhu cầu tiêu dùng. Nhiều chỉ báo kinh tế khác như chỉ số lòng tin người tiêu dùng, tăng trưởng công nghiệp,doanh số bán nhà, số đơn đặt hàng cũng được cải thiện khá tích cực. Các nền kinh tế mới nổi, đặc biệt là Trung Quốc, cũng khôi phục được đà tăng trưởng, thậm chí còn nhanh hơn mong đợi. Tại Mỹ, hai chỉ số quan trọng hàng đầu là chỉ số sản xuất công nghiệp và chỉ số “leading” (chỉ số lãnh đạo) đã có sự bứt phá mạnh mẽ từ mức đáy tại quý I/2009. Tình trạng thất nghiệp của nhiều nước vẫn còn ở mức rất cao: Tại Mỹ lên tới 10% là mức cao nhất trong nhiều năm qua, còn tỷ lệ này của Liên minh châu Âu đang ở mức 9.8% và mức cao nhất trong hơn 20 năm qua. Bên cạnh đó,chính phủ các nước phải chi mạnh tay cho các khoản kích thích kinh tế do vậy thâm hụt ngân sách của các quốc gia lớn đặc biệt tại Mỹ và Châu Âu đã tăng cao lên mức kỷ lục. Điều này cho thấy sự phục hồi kinh tế thế giới chưa thực sự vững chắc và phía trước sẽ còn nhiều khó khăn. Chính vì vậy, nhiều quốc gia vẫn cam kết tiếp tục duy trì chính sách tiền tệ mở rộng và giữ lãi suất ở mức thấp để hỗ trợ cho nền kinh tế bất chấp cảnh báo về những hệ lụy lâu dài và nguy cơ lạm phát có thể bùng phát. Đến cuối năm 2009, hầu hết các chỉ số chứng khoán chính trên thế giới đều đã tăng cao hơn so với trước cuộc khủng hoảng tài chính nổ ra hồi tháng 10 năm ngoái. Cụ thể, so với cuối năm 2008, các chỉ số này đều tăng 25-30%, còn so với mức đáy được thiết lập trong năm nay thì mức tăng khoảng 50%.Nhìn chung, các chỉ số chứng khoán Châu Á có mức hồi phục mạnh hơn các Châu lục khác.Điển hình là sự hồi phục mạnh của Chứng khoán Trung Quốc và Ấn Độ. Đã có lúc thị trường chứng khoán Bombay khi phải đóng cửa giao dịch, vì các chỉ số tăng điểm quá mạnh, vượt biên độ cho phép. Tuy nhiên, nếu so với đầu năm 2008 thì phần lớn các chỉ số chứng khoán trên thế giới vẫn còn giảm từ khoảng 15-25%.Ngày 15/7/2009, lần đầu tiên trong 1 năm rưỡi, Trung Quốc vượt Nhật Bản để trở thành thị trường chứng khoán lớn thứ hai Thế giới nhờ tác dụng của gói kích thích kinh tế trị giá 585 tỷ USD. Vào giai đoạn tháng 8/2009, đã có thời điểm chỉ số Shanghai Composite Index sụt giảm mạnh do tác dụng của chính sách thắt chặt tiền tệ. Năm 2010 Tăng trưởng phục hồi nhưng không đồng đều giữa phương Tây và phương Đông: Nền kinh tế toàn cầu bước vào 2010 với tốc độ tăng trưởng hai quý đầu năm khá ngoạn mục, tăng trưởng trung bình năm đạt 5,25%. Tuy nhiên, tốc độ này giảm xuống chỉ còn 3,75% vào hai quý cuối năm (IMF, 2011). Trong sự phục hồi chung của nền kinh tế toàn cầu, có sự tương phản rõ rệt giữa sự tăng trưởng mạnh của các nước đang phát triển (thậm chí tăng trưởng nóng tại một số nước châu Á như Trung Quốc) với sự chững lại của các nước phát triển (Mỹ, EU và Nhật). Tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao ở hầu hết các nước: Khoảng 27,6 triệu người đã mất việc từ khi cuộc Đại Suy thoái xảy ra, nâng tổng số người thất nghiệp trên toàn thế giới lên tới 205 triệu người. Ở các nền kinh tế chủ chốt, dù kinh tế đang phục hồi nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn chưa được cải thiện nhiều. Ngân sách thâm hụt trầm trọng và nợ công gia tăng: Thâm hụt ngân sách lớn hạn chế Chính phủ thực thi chính sách tài khóa và đẩy một số nước vào nguy cơ khủng hoảng nợ công, làm tăng chi phí vay vốn và là mầm mống cho bất ổn trong thị trường tài chính. Thâm hụt ngân sách cũng tạo ra nguy cơ tăng tỷ lệ thất nghiệp khi Chính phủ phải thắt lưng buộc bụng và sa thải lao động trong khu vực công. Lạm phát và lãi suất ở mức thấp ở các nước phát triển, ở mức trung bình ở các nước đang phát triển nhưng tăng mạnh trở lại từ cuối năm 2010: NHTW nhiều nước cùng với chính sách “nới lỏng định lượng” khẩn cấp đã tiến hành phối hợp cắt giảm mạnh lãi suất chính sách,và cam kết duy trì lãi suất thấp.Trong suốt năm 2010, lạm phát ở mức thấp tại các nước phát triển. Theo như ước tính của IMF, tỷ lệ lạm phát toàn phần trung bình cả năm 2010 ở các nước phát triển là 1,5%. Do ảnh hưởng của sự tăng giá của hàng hóa trên thế giới, kinh tế đang trên đà phục hồi mạnh, cùng với tác động của các dòng vốn và nguồn tiền nóng, lạm phát toàn phần tại các nước đang phát triển đã trở lại mức trung bình cao (6,3% theo IMF 2011) và đang có xu hướng tăng lên ở mức đáng ngại từ cuối năm 2010. NHTW một số nước đang phát triển đã bắt đầu tiến hành nâng lãi suất và thắt chặt tiền tệ để kiềm chế lạm phát. Thương mại toàn cầu năm 2010 phục hồi nhưng chưa như mong đợi: Sau khi sụt giảm trầm trọng hơn 11% vào năm 2009, thương mại toàn cầu năm 2010 đã phục hồi với mức tăng ước tính khoảng 10,5%. Thương mại toàn cầu đang có xu hướng dịch chuyển trọng tâm sang các nước đang phát triển đặc biệt là Trung Quốc WTO và đàm phán thương mại đa phương vẫn bế tắc, đàm phán thương mại khu vực gia tăng. Trong năm 2010, đặc biệt phải kể đến sự trở lại và phát triển lên một tầm mới của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương. Giá cả hàng hóa biến động và tăng mạnh trở lại từ cuối năm: Việc tăng giá trở lại mạnh này là do cầu lớn từ phía các nước đang phát triển lớn có tốc độ tăng trưởng cao như Trung Quốc, Ấn Độ và Brazil; ảnh hưởng của thiên tai và bất ổn trong nguồn cung; NHTW nhiều nước phát triển đặc biệt là Mỹ vẫn duy trì chính sách nới lỏng định lượng khiến USD mất giá cùng với sự tham gia của giới đầu cơ tài chính. Dòng vốn quay lại các nước đang phát triển - Dự trữ ngoại hối các nước này tăng: Dòng vốn ròng khu vực tư nhân vào nhóm các nước mới nổi khôi phục khá mạnh so với năm 2009. Theo ước tính của World Bank thì dòng vốn này tăng gần 50% từ mức 521,5 tỷ USD lên tới 753,2 tỷ USD. Trong đó, vốn đầu tư trực tiếp(FDI) vẫn chiếm phần lớn là 409,6 tỷ USD nhưng không có biến động nhiều (tăng 15%). Vốn đầu tư gián tiếp tăng 100% từ 167,4 tỷ lên tới 343,9 tỷ USD do : (i) lãi suất thấp (gần bằng 0) tại các nước phát triển, (ii) phục hồi và tăng trưởng ngoạn mục của các nước mới nổi.Cùng với thặng dư thương mại, sự quay lại của dòng vốn đã giúp cho dự trữ ngoại hối tại các nước đang phát triển tăng thêm 475 tỷ USD (World Bank, 2011). Đến quý 3 năm 2010, tổng dự trữ ngoại hối tại các nước đang phát triển đã đạt gần 6000 tỷ USD, gấp đôi so với nguồn dự trữ tại các nước phát triển. Nỗ lực cải cách hệ thống Ngân hàng và giám sát Tài chính: Khi kinh tế đã tạm thời phục hồi và ổn định, một trong những việc đầu tiên Chính phủ và các tổ chức quốc tế phải “ra tay” hành động là cải cách hệ thống ngân hàng và giám sát tài chính nhằm phòng ngừa khủng hoảng và ổn định thị trường tài chính. 6 tháng đầu năm 2011 Kinh tế thế giới 6 tháng đầu năm nay vẫn tiếp tục đà phục hồi nhưng không đồng đều giữa các khu vực và các quốc gia. Tại nhiều nền kinh tế phát triển tăng trưởng vẫn còn yếu trong khi các quốc gia đang phát triển và mới nổi tiếp tục đà phục hồi kinh tế mạnh mẽ, đóng vai trò là động lực tăng trưởng toàn cầu. Tuy nhiên, những rủi ro đang ngày càng tăng lên cùng với những nguy cơ, thách thức mới phát sinh có thể làm chậm quá trình phục hồi của các quốc gia. Kinh tế vĩ mô bất ổn: kinh tế thế giới tăng trưởng 4,3% trong quí I-2011, giảm nhẹ trong quí II-2011 và có khả năng tăng nhanh hơn trong 6 tháng cuối năm.Các rủi ro chính đe dọa tiến trình phục hồi tăng trưởng kinh tế cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mô toàn cầu năm 2011 bao gồm: sự mất cân bằng kéo dài trong khu vực tài chính và khu vực tài khóa tại các nền kinh tế phát triển gây ra những bất ổn về kinh tế vĩ mô và hoạt động tài chính-ngân hàng toàn cầu; giá dầu tăng cao làm tăng chi phí đầu vào và tình trạng thất nghiệp tại các nước phát triển vẫn chưa được cải thiện nhiều; nguy cơ khủng hoảng nợ công lan rộng sang nhiều nước tại khu vực châu Âu gây rủi ro đối với hệ thống tài chính khu vực và toàn cầu; trong khi đó nhiều quốc gia đang phát triển và mới nổi lại đang bước vào giai đoạn tăng trưởng kinh tế nóng với áp lực lạm phát cao là dấu hiệu của việc kinh tế có thể tăng trưởng chậm lại. Lạm phát: đã tăng lên mức cao và đe dọa cản trở tốc độ phục hồi kinh tế thế giới cũng như sự ổn định kinh tế vĩ mô của các nước. Lạm phát ở các quốc gia phát triển có dấu hiệu tăng nhanh hơn các quốc gia đang phát triển. Mức tăng của chỉ số giá tiêu dùng (CPI) so với cùng kỳ năm trước tính đến cuối tháng 5-2011 tại Mỹ là 3,6%, cao nhất kể từ tháng 7/2008, tại Anh là 4,5%, Singapore là 4,48%, Canada là 3,7%; tính đến cuối tháng 6-2011 tại khu vực Eurozone là 2,7% và tại Hàn Quốc là 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trung Quốc bất chấp rất nhiều các biện pháp thắt chặt tiền tệ như liên tiếp tăng các mức lãi suất chính sách, tăng tỉ lệ dự trữ bắt buộc nhưng CPI của nước này tính đến cuối tháng 6-2011 vẫn tăng ở mức kỷ lục 6,4%. Các nước đang phát triển khác như Nga, Ấn Độ, cũng có tốc độ tăng CPI tính đến cuối tháng 5 ở mức cao, lần lượt là 9,6%, 8,9% so với cùng kỳ năm ngoái. Đô la Mỹ liên tục giảm giá so với hầu hết các đồng tiền chủ chốt trên thế giới ngoại trừ đợt phục hồi nhẹ trong tháng 5-2011. Tăng lãi suất để ứng phó: NHTƯ nhiều nước trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, đều đang điều chỉnh lãi suất chính sách theo chiều hướng tăng dần nhằm đối phó với áp lực lạm phát. Kinh tế Việt Nam Tăng trưởng GDP  2000  2001  2002  2003  2004  2005  2006  2007  2008  2009  2010   Tổng sản phẩm quốc nội GDP danh nghĩa (tính theo tỷ USD, làm tròn)  31  32  35  39  45  52  60  70  89  91  101   GDP-PPP/đầu người (tính theo USD)  402  416  441  492  561  642  730  843  1052  1064  1168   Tỉ lệ tăng trưởng GDP thực (thay đổi % so với năm trước)  6,8  6,9  7,1  7,3  7,8  8,4  8,2  8,5  6,2  5,3  6,7   Quy mô GDP ngày càng tăng và đã đạt trên 100 tỷ năm 2010. Tốc độ tăng trưởng đã sụt giảm mạnh từ mức 8,5% năm 2007 xuống 6,2% năm 2008 và 5.2% năm 2009. GDP bình quân đầu người tuy có sự tiến bộ đã đạt mức trên 1000 đôla, nhưng so với các nước cùng trình độ phát triển thì không đạt chỉ tiêu; đóng góp của TFP (năng suất các yếu tố tổng hợp) vào tăng trưởng vẫn còn thấp, trong khi vẫn cần rất nhiều vốn; hệ số ICOR kém hiệu quả so với nhiều nước; hiệu quả kinh tế và năng suất lao động cũng rất thấp; năng lực cạnh tranh còn nhiều yếu kém... Tăng trưởng kinh tế của Việt Nam phần lớn phụ thuộc vào tăng vốn đầu tư và tăng số lượng lao động. Chất lượng tăng trưởng kinh tế của Việt Nam còn thấp và chưa đạt được độ bền vững. Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp thể hiện ở sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm, tính hiệu quả của kinh tế thấp, đồng thời, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn yếu.  Chất lượng tăng trưởng thấp kéo dài là tiền đề gây nên lạm phát, khủng hoảng và suy thoái kinh tế.  Chất lượng tăng trưởng thấp đang đe dọa đến tính ổn định và sự bền vững phát triển kinh tế trong tương lai.  Hoạt động xuất nhập khẩu  2000  2001  2002  2003  2004  2005  2006  2007  2008  2009  2010   Xuất khẩu (tính theo tỷ USD, làm tròn)  14  15  16  20  26  32  39  48  62  57  71   Nhập khẩu (tính theo tỷ USD, làm tròn)  15  16  19  25  31  36  44  62  80  69  84   Chênh lệch–nhập siêu (tính theo tỷ USD, làm tròn)  -1  -1  -3  -5  -5  -4  -5  -14  -18  -12  -13   Sau khi gia nhập WTO, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu Việt Nam đã không ngừng gia tăng. Việt Nam đã tận dụng được lợi thế và thời cơ trong việc gia tăng giá trị xuất khẩu từ mức 48 tỷ đô năm 2007 lên 71 tỷ đô năm 2010. Tuy nhiên, tình trạng nhập siêu vẫn hết sức căng thẳng với các con số hết sức đáng lo ngại với trước khi giai nhập WTO do nhu cầu nhập khẩu máy móc và nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất tăng cao. Hoạt động đầu tư Chất lượng tăng trưởng thấp thể hiện qua chỉ số ICOR cao cơ cấu trong nền kinh tế thiếu tính bền vững. Tỷ lệ đầu tư trên GDP của Việt Nam luôn ở mức cao so với các nước trong khu vực. ICOR càng cao đồng nghĩa với hiệu quả đầu tư trong nền kinh tế càng thấp. Cơ cấu kinh tế Việt Nam không hợp lý thể hiện ở cơ cấu sở hữu (tài sản và đầu tư tập trung quá lớn vào khối doanh nghiệp nhà nước, trong khi khối này hoạt động không hiệu quả). Sự bất cập trong cơ cấu nền kinh tế còn được thể hiện qua việc lựa chọn ngành trong chiến lược phát triển công nghiệp chưa tận dụng được lợi thế cạnh tranh của Việt Nam đang có. Vấn đề chuyển dịch cơ cấu kinh tế cho tới chưa đạt, khối dịch vụ mới chỉ chiếm 40% GDP.  2000  2001  2002  2003  2004  2005  2006  2007  2008  2009  2010   Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI-thực hiện (tính theo tỷ USD, làm tròn)  2.4  2.4  2.5  2.6  2.8  3.3  4.1  8.0  11.5  10  11   Chênh lệch đăng ký-thực hiện FDI (tính theo tỷ USD, làm tròn)  -0.4  -0.7  -0.4  -0.5  -1.7  -3.5  -7.9  -13.3  -60.2  -13.1  -7.6   Đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng góp ngày càng tích cực vào tăng trưởng kinh tế của Việt Nam. Tuy nhiên, giá trị đầu tư thực tế và giá trị giải ngân thấp hơn nhiều so với giá trị đăng ký. Tính theo giá trị lũy kế từ năm 1988 đến hết năm 2007, công nghiệp và xây dựng là lĩnh vực thu hút được nhiều FDI nhất – 67% số dự án và 60% tổng giá trị FDI đăng ký. Sau đó đến khu vực dịch vụ - 22,3% về số dự án và 34,3% về giá trị. Trong 82 quốc gia và lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam, các nước đầu tư nhiều nhất tính theo giá trị FDI đăng ký lần lượt là Hàn Quốc, Singapore, Đài Loan và Nhật Bản. Còn theo giá trị FDI thực hiện thì Nhật Bản giữ vị trí số một. Các tỉnh, thành thu hút được nhiều FDI (đăng ký) nhất lần lượt là thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu. Riêng năm 2008, số FDI mới đăng ký (nghĩa là không tính số xin phép tăng vốn phát sinh trong năm) đạt 32,62 tỷ dollar.]Việt Nam cũng đầu tư ra nước ngoài tới 37 quốc gia và lãnh thổ, nhiều nhất là đầu tư vào Lào Tình hình lạm phát  2000  2001  2002  2003  2004  2005  2006  2007  2008  2009  2010   Chỉ số giá tiêu dùng CPI (tăng giảm % so với năm trước)  -0.6  0.8  4.0  3.0  9.5  8.4  6.6  12.6  19.9  6.5  11.7   Lạm phát liên tục gia tăng ở mức hai con sô từ năm 2007 – 2010, ước tính có thể trên 20% năm 2011. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định và bền vững của nền kinh tế. Trong vòng 5 năm (2006-2010), tính cộng dồn đơn giản, lạm phát đã tăng gần 60% trong khi tổng tăng trưởng GDP chỉ đạt 35,1%. Chính sách tài chính tiền tệ Việt Nam bị mắc phải ba vấn đề liên quan: thâm hụt ngân sá
Luận văn liên quan