Đề tài Kiểm toán chất thải rắn sinh hoạt khu vực kí túc xá B3 Trường đại học Nông Nghiệp Hà Nội

Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường. Nhận thức về bảo vệ môi trường trong các cấp, các ngành và nhân dân đã được nâng lên; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Những kết quả đó đã tạo tiền đề tốt cho công tác bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Ngày 29/5/2008, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2008. Theo đó thành phố Hà Nội mở rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02ha (3.344,7002km2) và dân số là 6.232.940 người.Trong đó Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội là một trong số những trường có diện tích lớn nhất trong cả nước cụ thể là 200.3ha, với số lượng sinh viên là khoảng 25000 sinh viên. Hiện nay, trên địa bàn Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội có 1 khu kí túc sau đại học và 1 khu kí túc cho du học sinh và 8 khu kí túc cho sinh viên.Với số lượng khu kí túc xá tương đối lớn này đã giải quyết vấn đề nhà ở cho một số lượng lớn sinh viên nhưng nó cũng có những bất cập đặc biệt là vấn đề rác thải. Khu kí túc xá B3 thuộc Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội là khu kí túc dành cho nữ với thải lượng rác thải tương đối lớn mà chủ yếu là rác thải sinh hoạt.Xuất phát từ những thực tiễn của vấn đề trên chúng tôi tiến hành thực hiện “ Kiểm toán chất thải rắn sinh hoạt khu vực kí túc xá B3 Trường đại học Nông Nghiệp Hà Nội”

doc59 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 3503 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Kiểm toán chất thải rắn sinh hoạt khu vực kí túc xá B3 Trường đại học Nông Nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
I.ĐẶT VẤN ĐỀ. Tính cấp thiết của đề tài Trong tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nhiệm vụ bảo vệ môi trường luôn được Đảng và Nhà nước coi trọng. Thực hiện Luật Bảo vệ môi trường, Chỉ thị số 36-CT/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về tăng cường công tác bảo vệ môi trường trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, công tác bảo vệ môi trường ở nước ta trong thời gian qua đã có những chuyển biến tích cực. Hệ thống chính sách, thể chế từng bước được xây dựng và hoàn thiện, phục vụ ngày càng có hiệu quả cho công tác bảo vệ môi trường. Nhận thức về bảo vệ môi trường trong các cấp, các ngành và nhân dân đã được nâng lên; mức độ gia tăng ô nhiễm, suy thoái và sự cố môi trường đã từng bước được hạn chế; công tác bảo tồn thiên nhiên và bảo vệ đa dạng sinh học đã đạt được những tiến bộ rõ rệt. Những kết quả đó đã tạo tiền đề tốt cho công tác bảo vệ môi trường trong thời gian tới. Ngày 29/5/2008, kỳ họp thứ 3 Quốc hội khóa XII thông qua Nghị quyết về việc điều chỉnh địa giới hành chính thành phố Hà Nội và một số tỉnh liên quan. Nghị quyết có hiệu lực thi hành từ ngày 1/8/2008. Theo đó thành phố Hà Nội mở rộng có diện tích tự nhiên 334.470,02ha (3.344,7002km2) và dân số là 6.232.940 người.Trong đó Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội thuộc khu vực ngoại thành Hà Nội là một trong số những trường có diện tích lớn nhất trong cả nước cụ thể là 200.3ha, với số lượng sinh viên là khoảng 25000 sinh viên. Hiện nay, trên địa bàn Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội có 1 khu kí túc sau đại học và 1 khu kí túc cho du học sinh và 8 khu kí túc cho sinh viên.Với số lượng khu kí túc xá tương đối lớn này đã giải quyết vấn đề nhà ở cho một số lượng lớn sinh viên nhưng nó cũng có những bất cập đặc biệt là vấn đề rác thải. Khu kí túc xá B3 thuộc Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội là khu kí túc dành cho nữ với thải lượng rác thải tương đối lớn mà chủ yếu là rác thải sinh hoạt.Xuất phát từ những thực tiễn của vấn đề trên chúng tôi tiến hành thực hiện “ Kiểm toán chất thải rắn sinh hoạt khu vực kí túc xá B3 Trường đại học Nông Nghiệp Hà Nội” II. Mục đích, yêu cầu của đề tài Mục đích Xác định tổng khối lượng chất thải rắn sinh hoạt khu ký túc xá B3 Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội Xác định thành phần chất thải rắn sinh hoạt khu ký túc xá B3 Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội Đưa ra các biện pháp nhằm cải thiện, cơ hội giảm thiểu chất thải rắn sinh hoạt khu ký túc xá B3 Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội. Yêu cầu Các số liệu thu thập được phải đảm bảo  độ chính xác và tin cậy. Chỉ ra được những điểm nổi bật trong hiện trạng các thành phần rác thải của khu kí túc xá b3 Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội Tính tổng lượng rác thải của khu kí túc xá b3 Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội Chỉ ra được những mặt hạn chế và tích cực của công tác quản lý rác thải trong khu kí túc xá b3 Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội Đưa ra được các giải pháp mang tính khả thi, phù  hợp với khu kí túc xá b3 Trường Đại Học Nông Nghiệp Hà Nội. II.TỔNG QUAN TÀI LIỆU II.1. Chất thải rắn và phát sinh chất thải rắn. Chất thải là toàn bộ các loại vật chất được con người trong các hoạt động kinh tế- xã hội, bao gồm các hoạt động sản xuất và hoạt dộng sống duy trì sự tồn tại của cộng đồng. Chất thải là sản phẩm được phát sinh trong quá trình sinh hoạt của con người, sản xuất công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp, thương mại dịch vụ, du lịch giao thông sinh hoạt tại các gia đình trường học… Lượng chất thải phát sinh do nhiều yếu tố như tăng trưởng và phát triển sản xuất, sự gia tăng dân số, quá tình đô thị hóa, công nghiệp, sự phát triển của điều kiện sống, trình độ dân trí. a/ Phát sinh rác thải trên thế giới: Nhìn chung lượng phát sinh rác thải ở mỗi nước trên thế giới là khác nhau, phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế, dân số, và thói quen tiêu dùng của nước đó. Tỷ lệ phát sinh rác thải tăng theo tỷ lệ thuận với mức tăng GDP tính theo đầu người. Bảng 1 : Lượng phát sinh rác thải ở một số nước trên thế giới Băng cốc( Thái Lan)| Singapo Hồng koong New York( mỹ) 1.6kg/người/ngày 2kg/người/ngày 2.2kg/người/ngày 2.65kg/người/ngày Tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt trong dòng chất thải rắn đô thị rất khác nhau giữa các nước. Theo ước tính, tỷ lệ này chiếm 60-70% ở Trung Quốc, chiếm 78% ở Hồng Kong, 48% ở philippin và 37% ở Nhật Bản, ở nước ta chiếm 80%. Theo đánh giá của ngân hành thé giới, các nước có thu nhập cao chỉ có khoảng 25-35% chất thải sinh hoạt trong toàn bộ dòng chất thải đô thị. Các số liệu thống kê gần đây về tổng lượng chất thải ở Anh cho thấy hàng năm Liên Hiệp Anh tạo ra 307 triệu tấn chất thải, trong số đó, ước tính 46,6 triệu tấn rác thải sinh hoạt, chỉ có 60% số này được chôn lấp, 34% được tái chế, 6%được tthieeu đốt. Chỉ tính riêng chất thải thực phẩm, theo dự án khảo sát được thực hiện từ tháng 10/2006- 3/2008, chất thải thực phẩm được tạo ra từ hộ gia đình nhiều hơn tới hàng tấn so với chất thải bao bì, chiếm 19% chất thải đô thị. Tổng số hàng năm các hộ gia đình ở Anh phát sinh 6,7 triệu tấn chất thải thực phẩm, chỉ riêng ở England là 5,5 triệu tấn, trong đó 4,1 triệu tấn là thực phẩm vẫn có thể sử dụng được. Trung bình mỗi hộ gia đình thải ra 276 kg chất thải thực phẩm/năm hay 5,3kg/tuần. Trong đó có 3,2kg vẫn có thể sử dụng lại được. Theo thống kê mới đây của Bộ Môi Trường Nhật Bản, hàng năm nước này có khoảng 450 triệu tấn rác thải. Trong đó có 25% rác sinh hoạt, và có tơi 70% rác sinh hoạt được tái chế thành phân hữu cơ, góp phần giảm bớt nhập khẩu phân bón, cung cấp kịp thời và chủ động hơn cho sản xuất nông nghiệp. Mỗi ngày ở Singapo thải ra 16000 tấn rác. Ở đây, rác được phân loại tại nguồn, nhờ vậy 56% số rác thải ra mỗi ngày được quay lại các nhà máy để tái chế. Nhìn chung trên thế giới, việc thu gom và xử lý rác thải mang tinh chất quy mô và có kĩ thuật hơn rất nhiều, đặc biệt ở những nước phát triển. b/ Tình hình phát sinh chất thải rắn ở Việt Nam Theo Báo cáo diễn biến môi trường Việt Nam 2004, năm 2004, trên cả nước đã phát sinh 15 triệu tấn chất thải rắn (CTR) trong đó khoảng 250.000 tấn chất thải nguy hại. CTR sinh hoạt (đô thị và nông thôn) chiếm khối lượng lớn với số lượng khoảng 13 triệu tấn, CTR công nghiệp phát sinh vào khoảng 2,8 triệu tấn và CTR từ các làng nghề là 770.000 tấn. Do quá trình đô thị hoá diễn ra mạnh mẽ, tỷ lệ phát sinh CTR sinh hoạt đang tăng nhanh trung bình đạt 0,7-1,0 kg/người/ngày và có xu hướng tăng đều 10-16% mỗi năm. Theo nghiên cứu của Bộ Xây dựng năm 2009, tổng khối lượng CTR phát sinh cả nước năm 2008 vào khoảng 28 triệu tấn, trong đó lớn nhất là CTR đô thị chiếm gần 50%, CTR nông thôn chiếm 30%, lượng còn lại là CTR công nghiệp, y tế và làng nghề. Dự báo tổng lượng CTR cả nước có thể sẽ phát sinh khoảng 43 triệu tấn vào năm 2015, 67 triệu tấn vào năm 2020 và 91 triệu tấn vào năm 2025, tăng từ 1,6 đến 3,3 lần so với hiện nay. Biểu đồ 1: Tỉ lệ các chất thải rắn ở Việt Nam hiện nay Bảng 2: Thành phần rác thải sinh hoạt Thành phần chất thải % khối lượng Rau, thực phẩm thừa, chất hữu cơ dễ phân hủy 64.7 Cây gỗ 6.6 Giấy, bao bì giấy 2.1 Plastic khó tái chế 9.1 Cao su, đế giày dép 6.3 Vải sợi, vật liệu sợi 4.2 Đất đá, bê tông 1.6 Thành phần khác 5.4 Nguồn: HOWADICO, 06-2002. * Quản lý chất thải rắn ở Việt Nam Quản lý chất thải rắn bao gồm các hoạt động: phòng ngừa và giảm thiểu phát sinh CTR; phân loại tại nguồn; thu gom, vận chuyển; tăng cường tái sử dụng, tái chế; xử lý và tiêu huỷ. Công tác quản lý chất thải rắn ở Việt Nam hiện nay còn chưa tiếp cận được với phương thức quản lý tổng hợp trên quy mô lớn, chưa áp dụng đồng bộ các giải pháp giảm thiểu, tái sử dụng, tái chế (3R) để giảm tỷ lệ chất thải phải chôn lấp. Hoạt động giảm thiểu phát sinh CTR, một trong những giải pháp quan trọng và hiệu quả nhất trong quản lý chất thải, còn chưa được chú trọng. Chưa có các hoạt động giảm thiểu CTR sinh hoạt. Ở quy mô công nghiệp, số cơ sở áp dụng sản xuất còn rất ít, khoảng 300/400.000 doanh nghiệp. Hoạt động phân loại tại nguồn chưa được áp dụng rộng rãi, chỉ mới được thí điểm trên qui mô nhỏ ở một số thành phố lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh. Tỷ lệ thu gom chất thải ở các vùng đô thị trung bình đạt khoảng 80-82%, thấp nhất là đô thị loại IV (65%), ở Hà Nội cao hơn (90%); ở các điểm dân cư nông thôn ~ 40-55%. Khoảng 60% khu vực ở nông thôn chưa có dịch vụ thu gom chất thải, chủ yêu dựa vào tư nhân hoặc cộng đồng địa phương. Tỷ lệ thu gom, vận chuyển CTR tuy đã tăng dần song vẫn còn ở mức thấp, chủ yếu phục vụ cho các khu vực đô thị, chưa vươn tới các khu vực nông thôn. Xã hội hóa công tác thu gom, vận chuyển CTR tuy đã được phát triển nhưng chưa rộng và chưa sâu, chủ yếu được hình thành ở các đô thị lớn. Năng lực trang thiết bị thu gom, vận chuyển còn thiếu và yếu, dẫn tới tình trạng tại một số đô thị đã thực hiện phân loại CTR tại nguồn nhưng khi thu gom, vận chuyển lại đem đổ chung làm giảm hiệu quả của việc phân loại. Tái sử dụng và tái chế chất thải mới chỉ được thực hiện một cách phi chính thức, ở qui mô tiểu thủ công nghiệp, phát triển một cách tự phát, không đồng bộ, thiếu định hướng và chủ yếu là do khu vực tư nhân kiểm soát. Công nghệ xử lý CTR chủ yếu vẫn là chôn lấp ở các bãi lộ thiên không đạt tiêu chuẩn môi trường với 82/98 bãi chôn lấp trên toàn quốc không hợp vệ sinh. Các lò đốt rác chủ yếu dành cho ngành y tế và chỉ đáp ứng được 50% tổng lượng chất thải y tế nguy hại. Việc phục hồi môi trường đối với các cơ sở xử lý CTR còn nhiều hạn chế. Tình trạng đổ chất thải không đúng nơi quy định còn xảy ra, gây ô nhiễm môi trường ảnh hưởng đến sức khoẻ của cộng đồng. Vì vậy , vừa qua bộ xây dựng đã xây dựng chương trình xử lý chất thải rắn sinh hoạt áp dụng công nghệ hạn chế chôn lấp giai đoạn 2009-2020. với quan điểm két hợp đầu tư khuyến khích huy động các thành phần kinh tế tham gia đầu tư trong lĩnh vực xử lý chất thải rắn sinh hoạt, đảm bảo đến năm 2020 các địa phương đều được đầu tư xây dựng các nhà máy xử lý chất thải răn sinh hoạt áp dụng công nghệ, hạn chế chôn lấp. Giai đoạn 2009- 2015 sẽ có 85% tổng lượng chất thải rắn sinh hoạt phát sinh được thu gom, xử lý, đảm bảo môi trường ,trong đó có hơn 60% được tái chế, tái sử dụng, sản xuất phân hữu cơ, hoặc đốt rác thu năng lượng. Giai đoạn 2006- 2020 sẽ có 90% tổng lượng chất thải rắn được thu gom và xử lý đảm bảo môi trường, trong đó có 85% được tái chế, tái sử dụng, sản xuất phân hữu cơ và đốt thu hồi năng lượng. 2. Kiểm toán chất thải (KTCT) Thời gian qua, mặc dù đã tích cực thực hiện nhiều biện pháp, nhưng xu hướng ô nhiễm môi trường ở nước ta vẫn tiếp tục gia tăng. Nguyên nhân là do các giải pháp phòng ngừa và kiếm soát ô nhiễm chưa được thực hiện một cách hiệu quả và đồng bộ. Công tác quản lý chất thải ở các cơ sở sản xuất mới chỉ tập trung vào xử lý ở "cuối đường ống", mà chưa chủ trọng đến các giải pháp phòng ngừa, ngăn chặn tại nguồn. Một trong những công cụ để kiểm soát, giảm thiểu phát sinh chất thải gây ô nhiêm môi trường trong các cơ sở sản xuất là kiểm toán chất thải (KTCT). Cùng với sản xuất sạch hơn, KTCT là công cụ quản lý môi trường nhằm giảm thiểu và ngăn ngừa ô nhiễm ngay từ quá trình sản xuất tại cơ sở công nghiệp. KTCT bao gồm việc rà soát, kiểm tra các quá trình sản xuất, xác định nguồn thải và khối lượng chất thải, tính toán cân bằng vật chất, xác định các vấn đề trong vận hành sản xuất, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm giảm thiểu phát sinh chất thải ra môi trường. Có thể nói, KTCT là một lĩnh vực chuyên sâu của kiểm toán môi trường (KTMT), được tiêu chuẩn hóa bằng ISO 14010 và ISO 14011:1996. Mặc dù, được thể hiện khác nhau ở nhiều nước, song một quy trình KTCT thường được thực hiện với các bước: Khảo sát quá trình, thu thập số liệu về đầu vào, đầu ra của các công đoạn sản xuất (nguyên liệu, năng lượng, nước và sản phẩm); Xác định loại hình, nguồn, khối lượng chất thải; Nghiên cứu tính toán cân bằng vật chất; Xác định các nguyên nhân gia tăng chất thải; Nghiên cứu, đề xuất và xác định hiệu quả kinh tế của các giải pháp giảm thiểu chất thải; Thực hiện các giải pháp giảm thiểu phát sinh chất thải. KTCT có thể do một nhóm kiểm toán độc lập, hoặc cũng có thể do chính bản thân doanh nghiệp thực hiện, với sự tham gia của một đơn vị quan trắc, phân tích môi trường. Các yếu tố cần thiết cho việc thực hiện thành công KTCT tại cơ sở công nghiệp bao gồm: Sự cam kết hợp tác, quyết tâm cải thiện ô nhiễm môi trường của doanh nghiệp; Xác định quy mô, trọng tâm của kiểm toán; Đề xuất các giải pháp khả thi, đảm bảo tính kinh tế khi thực hiện. Nếu thực hiện KTCT tốt thì không chỉ giảm thiểu việc phát sinh chất thải ra môi trường, giảm thiểu ô nhiễm mà còn tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, nước, giảm sự lãng phí tài nguyên, đem lại giá trị kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất và năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp. Đặc biệt, thực hiện KTCT còn góp phần giảm phát thải khí nhà kính, hạn chế biến đổi khí hậu hiện là vấn đề nóng trên thế giới. Áp dụng KTCT ở một số nước trên thế giới Từ năm 1980, trên thế giới đã có nhiều nghiên cứu và ứng dụng về KTCT. Quy trình KTCT đối với từng ngành đã được lập, nhiều tài liệu, sách về KTCT đã được xuất bản. Ở Ôxtrâylia, KTCT trong các ngành công nghiệp đã được giới thiệu như là một công cụ hỗ trợ cho việc quản lý chất thải, bên cạnh các công cụ khác như sản xuất sạch hơn và đánh giá vòng đời sản phẩm. Cục Các ngành công nghiệp cơ bản, Công viên, Nước và Môi trường của bang Tasmania, Ôxtrâylia đã khuyến cáo các doanh nghiệp nên sử dụng KTCT, với các nội dung như xác định các nguồn thải, số lượng và các loại chất thải được tạo ra; Xác định nguyên nhân làm gia tăng chất thải; Thiết lập các mục tiêu/giải pháp và thứ tự ưu tiên cho việc giảm phát sinh chất thải. Một số ngành công nghiệp đặc thù gây tổn hại tới môi trường như khai thác mỏ, sản xuất hóa chất thì được khuyến khích tuân thủ theo các Quy chế về Thực hành quản lý môi trường tốt nhất (BPEM), được chính quyền Ôxtrâylia thiết kế riêng cho mỗi ngành. Ví dụ, đối với ngành khai thác mỏ đã được Cục Bảo vệ môi trường Úc ban hành quy chế năm 1995, trong đó bao gồm quy định về KTCT và nộp báo cáo kiểm toán hàng năm. Bỉ, là thành viên của Cộng đồng châu Âu (EU) nên phải tuân theo những quy định về môi trường do EU ban hành, trong đó có Quy trình kiếm toán quản lý sinh thải (EMAS), năm 2001. Đến năm 2004 đã có 150 doanh nghiệp ở các tỉnh thuộc vùng Flanders của Bỉ tham gia thực hiện EMAS và sau đó là 22 doanh nghiệp khác. Đặc biệt, nhiều doanh nghiệp tự nguyện áp dụng các quy trình này không chỉ với mục đích nhằm đạt được các chứng chỉ môi trường. Một trong những công ty đầu tiên của Bỉ thực hiện KTCT là Công ty Shred it Belgium. Công ty này, năm 2007, đã tái chế 1.650 tấn chất thải và thực hiện tính toán "Dấu chân các-bon", làm giảm lượng cacbon từ hoạt động vận tải, trở thành Công ty đầu tiên của Bỉ đạt C02 trung tính. Tại Canada, theo quy định Ontario 102/94 của Bộ Môi trường và Năng lượng, các cơ sở sản xuất bắt buộc thực hiện KTCT. Quy định này nêu rõ, các cơ sở giáo dục, bệnh viện, nhà nghỉ, khách sạn, cơ sở sản xuất, các tòa nhà công sở, nhà hàng và các cơ sở kinh doanh phải thực hiện chương trình giảm thiểu chất thải, bao gồm 4 bước trong đó có thực hiện KTCT. Thời gian một báo cáo KTCT phải được lưu trữ dưới dạng file ít nhất 5 năm và phải chỉ ra được loại vật liệu hoặc sản phẩm nào được doanh nghiệp sử dụng là vật liệu hoặc sản phẩm tái chế. Bên cạnh đó, Canada rất chú trọng tới việc xem xét quy trình sản xuất của doanh nghiệp như là một thông tin đầu vào để thực hiện kiểm toán, từ đó đề xuất các khâu giảm thiểu chất thải cũng như nguyên liệu sản xuất. Ở Ấn Độ, khái niệm KTMT trong ngành công nghiệp chính thức được giới thiệu từ tháng 3/1992 với mục đích chung là giảm sự lãng phí tài nguyên và thúc đẩy sử dụng công nghệ sạch nhằm giảm thiểu phát thải. Bộ Môi trường và Rừng đã ban hành thông tư số GSR 329(E) vào tháng 3/1992, đưa ra yêu cầu bắt buộc nộp Báo cáo KTMT hàng năm đối với các cơ sở công nghiệp, trong đó phải thể hiện các thông tin về quản lý từng nguồn thải. Để thúc đẩy hoạt động KTMT, Ban Kiểm soát ô nhiễm quốc gia (CPCB) đã tổ chức tập huấn, đào tạo, thực hiện các mô hình trình diễn và xây dựng hướng dẫn KTMT cho các ngành công nghiệp ô nhiễm cao như thuốc bảo vệ thực vật, giấy và bột giấy, đồ uống, dệt nhuộm. Đối với Thái Lan, hoạt động KTCT đã nhận được sự quan tâm của nhiều tổ chức và doanh nghiệp. Viện Công nghệ châu Á (AIT) đã đưa nội dung này vào đào tạo từ những năm đầu thập kỷ 90. Các dự án KTCT cũng được thực hiện ở nhiều nhà máy công nghiệp thuộc các lĩnh vực khác nhau như sản xuất bánh kẹo, tinh bột, giấy, cao su... Ở Singapo, KTCT được cụ thể hóa như là một chiến lược tối thiểu hóa phát sinh chất thải, bao gồm 8 bước: Cam kết của lãnh đạo; Lựa chọn nhóm/bộ phận làm việc về tối thiểu hóa phát sinh chất thải; Thực hiện kiểm toán chất thải; Xác định chi phí của việc giảm phát sinh chất thải; Phát triển, xây dựng các phương án giảm thiểu chất thải; Đánh giá khả năng tiết kiệm và sắp xếp ưu tiên các lựa chọn/giải pháp; Xây dựng kế hoạch giảm thiểu chất thải; Thực thi và cải tiến kế hoạch. Hiện nay, có nhiều doanh nghiệp đã thực hiện chiến lược tối thiểu hóa chất thải như: Công ty TNHH Baxter Healthcare Pte, Công ty TNHH Chevron Oronite, Công ty TNHH IMM Singapo Pte, Công ty TNHH Kyoei Engineering Singapo Pte, Công ty TNHH Sony Display Device Pte, Công ty TNHH Tetra Pak Jurong Pte.... Ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ba Lan và nhiều nước khác, các hoạt động KTCT được lồng ghép trong các công cụ kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm như sản xuất sạch hơn, KTMT, đánh giá vòng đời sản phẩm. Mục tiêu chính của các công cụ này là nhằm hướng đến việc giảm thiểu phát sinh, kiểm soát ô nhiễm do chất thải gây ra. Tình hình nghiên cứu và áp dụng KTCT ở ViệtNam Ở Việt Nam hiện nay, KTMT và KTCT đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường đại học và cao đẳng trong cả nước, song chưa nhiều và mới chỉ dừng ở các vấn đề tổng quát mà chưa đi sâu vào các lĩnh vực cụ thể. Việc áp dụng KTCT trong các cơ sở sản xuất cũng mới dừng ở một vài dự án thí điểm như "Kiểm soát ô nhiễm môi trường" của UNDP năm 1995 ở một số nhà máy tại Việt Trì và Biên Hòa; đề tài "Điều tra, đánh giá đề xuất việc KTCT công nghiệp tại 5 khu công nghiệp, khu chế xuất" của Cục Bảo vệ môi trường năm 2005; đề tài "Nghiên cứu áp dụng KTCT trong công nghiệp quốc phòng" của Trung tâm Khoa học, Kỳ thuật và Công nghệ Quân sự (Bộ Quốc phòng) năm 2004; đề tài "KTCT tại các làng nghề tái chế kim loại và đề xuất một số biện pháp giảm thiểu ô nhiễm" của Viện Khoa học Công nghệ Môi trường -Đại học Bách khoa Hà Nội năm 2005; Nghiên cứu và áp dụng thí điểm về KTCT cho Nhà máy giầy Thượng Đình, Hà Nội và Công ty TNHH Thuộc da Đông Hải do Tổng cục Môi trường thực hiện năm 2008. Nguyên nhân của tình trạng số lượng doanh nghiệp áp dụng KTCT cũng như sản xuất sạch hơn (ISO 14000) còn thấp là do Nhà nước chưa có những chính sách cụ thể để trực tiếp hoặc gián tiếp bắt buộc các doanh nghiệp phải thực hiện. Ngoài ra, nhận thức và hiểu biết về KTCT và các lợi ích mà nó mang lại cũng chưa cao. Các quy trình KTCT chưa được nghiên cứu, xây dựng cho các ngành công nghiệp như ở một số nước trên thế giới. Các sổ tay hướng dẫn kỳ thuật về KTCT chưa được ban hành và phổ biến rộng rãi trong cộng đồng doanh nghiệp. Bên cạnh đó, ở nước ta cũng chưa có các nghiên cứu đề xuất chính sách khuyến khích áp dụng KTCT trong quản lý môi trường. Một số công cụ giảm thiểu Trong bổi cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các nguồn tài nguyên đang bị khai thác, sử dụng không bền vững, biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp, trên thế giới đã hình thành trào lưu tăng trưởng xanh với mục tiêu tăng trưởng kinh tế gắn với bảo vệ môi trường và giảm nhẹ biến đổi khí hậu. ơ nước ta, với chủ trương đẩy mạnh công nghiệp hóa, đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 2020, ô nhiễm môi trường do chất thải đã và đang ngày càng gia tăng. Vì vậy, việc áp dụng các công cụ phòng ngừa và kiểm soát ô nhiễm, trong đó có KTCT đang là một yêu cầu cấp thiết. Để đẩy mạnh việc triển khai áp dụng KTCT, về phía các cơ quan quản lý Nhà nước cần thực hiện một số giải pháp sau: Xây dựn