Đề tài Lãi suất thỏa thuận và tác động của nó tới doanh nghiệp

Ngày 26/2/2010 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 07/2010/TT-NHNN quy định việc cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận của các TCTD đối với khách hàng. Việc ban hành Thông tư 07 giúp lãi suất dẫn được trả về cho thị trường, qua đó khơi thông được nguồn vốn tín dụng trung – dài hạn, mang lại nhiều lợi ích cho các TCTD (doanh thu, cơ hội kinh doanh.), cho doanh nghiệp (tiếp cận vốn dễ dàng, sử dụng vốn một cách hợp lý hơn ) và cho nền kinh tế. Điều đặc biệt hơn là Thông tư 07 là tín hiệu chính sách cho những bước tiến thận trọng dần đạt đến mục tiêu tự do hóa lãi suất. Điểm lại lịch sử cơ chế điều hành lãi suất của NHNN, tiến trình tự do hóa lãi suất được đánh dấu bằng những mốc quan trọng: - Tháng 06/ 2001: trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, mức lãi suất cho vay và huy động ngoại tệ do các NHTM tự quyết định theo cung – cầu vốn trên thị trường trong từng thời kỳ. Riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp tại NHTM và tiền gửi ngoại tệ của NHTM tại NHNN chưa được tự do hóa mà vẫn do NHNN quy định, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM và các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài. - Ngày 30 tháng 5 năm 2002, NHNN đưa ra Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó, các TCTD xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Như vậy, cùng với việc trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ và việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với VNĐ thì lãi suất đã được tự do hóa hoàn toàn. Lãi suất cơ bản NHNN công bố làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường.

doc14 trang | Chia sẻ: tuandn | Lượt xem: 1596 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lãi suất thỏa thuận và tác động của nó tới doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NỘI DUNG I. TÌNH HÌNH KINH TẾ QUÝ I 2010: 2 1. Thế Giới: 2 2. Việt Nam: 3 II. LÃI SUẤT THỎA THUẬN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI DOANH NGHIỆP: 4 1. Thông tư 07 ngày 26/2/2010 của NHNN: 4 2. Diễn biến tình hình tăng lãi suất của các ngân hàng: 7 3. Tác động đến các doanh nghiệp: 9 3.1 Lãi suất tăng cao, doanh nghiệp khó khăn trong kinh doanh: 9 3.2 Doanh nghiệp sử dụng nhiều kênh huy động vốn hơn: 10 3.3 Khó khăn trong vay ngắn hạn: 10 3.4 Hợp pháp hóa hình thức lách luật của doanh nghiệp và ngân hàng: 11 3.5 Mỗi doanh nghiệp sẽ vay với lãi suất khác nhau: 12 3.6 Để vay được vốn với lãi suất ưu đãi, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng các dịch vụ của ngân hàng: 12 3.7 Gây khó khăn cho việc thành lập các dự án cần nguồn vốn vay: 12 3.8 Tạo ra thế cạnh tranh về thị trường vốn giữa các ngân hàng thương mại: 13 III. KẾT LUẬN: 14 I. TÌNH HÌNH KINH TẾ QUÝ I 2010: 1. Thế Giới: Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2009 được coi là một cuộc “Đại Suy thoái” - một năm mà kinh tế thế giới phải chịu đựng sự sụt giảm sâu nhất kể từ Thế chiến thứ hai. Mười hai tháng trước, nỗi kinh hoàng sinh ra từ vụ phá sản Ngân hàng Lehman Brothers bên Mỹ đã đẩy các thị trường tài chính tới bờ vực sụp đổ. Hoạt động kinh tế toàn cầu, từ sản xuất công nghiệp đến ngoại thương, đã xuống dốc nhanh hơn thời kỳ Đại Khủng hoảng năm 1930. Tuy nhiên lần này, đà xuống dốc đã bị ngăn chặn chỉ sau vài tháng. Các nền kinh tế đang phát triển cỡ lớn đã tăng tốc trước nhất và nhanh nhất. Sản lượng của Trung Quốc, bị đình trệ nhưng không sụt giảm, đã tăng trở lại ở mức 17%/năm kể từ quý II/2009. Sang giữa năm, các nền kinh tế lớn và giàu có nhất thế giới (ngoại trừ Anh và Tây Ban Nha) đã bắt đầu tăng trở lại, chỉ còn vài nước bị tụt hậu, chẳng hạn như Latvia và Ireland, có vẻ như hiện vẫn còn trong tình trạng suy thoái. Theo dự báo của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) thì kinh tế thế giới 2010 tăng trưởng 3,1%, cao hơn so với mức giảm 1,1% của năm 2009, song vẫn thấp hơn nhiều so với mức trên 5% của 2 năm 2006, 2007 và các mức 4,9 và 4,5% của các năm 2004, 2005. Với sự phục hồi của tăng trưởng kinh tế, thương mại thế giới cũng sẽ sôi động hơn hơn. IMF dự báo thương mại thế giới sẽ tăng 2,5% (năm 2009 giảm 11,9%). Tuy nhiên, cầu tiêu dùng vẫn còn yếu do thu nhập tăng chậm và thất nghiệp vẫn còn cao. Những sản phẩm tiêu dùng phổ thông và cần thiết hàng ngày sẽ tăng nhanh hơn những sản phẩm cao cấp. 2. Việt Nam: Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá 12 đã đề ra Nghị quyết số 36/2009/QH12 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2010 với mục tiêu tổng quát là:“Nỗ lực phấn đấu phục hồi tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt mức cao hơn năm 2009, tăng tính ổn định kinh tế vĩ mô; nâng cao chất lượng tăng trưởng; ngăn chặn lạm phát cao trở lại; tăng khả năng đảm bảo an sinh xã hội; chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế; giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội; bảo đảm yêu cầu quốc phòng, an ninh; phấn đấu đạt mức cao nhất các chỉ tiêu của Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2006-2010”. Ngày 15/01/2010 Chính phủ ban hành Nghị quyết số 03/NQ-CP về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 với 6 nhiệm vụ và 8 nhóm giải pháp chủ yếu gồm trên 130 giải pháp cụ thể nhằm thực hiện mục tiêu tổng quát nêu trên. Theo đà suy giảm kinh tế những tháng cuối năm 2008, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I/2009 chỉ đạt 3,14%, là quý có tốc độ tăng thấp nhất trong nhiều năm gần đây; nhưng quý II, quý III và quý IV của năm 2009, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước đã nâng dần lên lần lượt là 4,46%; 6,04% và 6,9%. Tính chung cả năm 2009, tổng sản phẩm trong nước tăng 5,32%, bao gồm: khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 1,83%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,52%; khu vực dịch vụ tăng 6,63%. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) quý I/2010 ước tính tăng 5,83% so với cùng kỳ năm 2009, bao gồm khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản tăng 3,45%; khu vực công nghiệp và xây dựng tăng 5,65%; khu vực dịch vụ tăng 6,64%. Trong tốc độ tăng trưởng chung của toàn nền kinh tế, khu vực nông, lâm nghiệp và thuỷ sản đóng góp 0,42 điểm phần trăm; khu vực công nghiệp và xây dựng đóng góp 2,44 điểm phần trăm; khu vực dịch vụ đóng góp 2,97 điểm phần trăm. Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước quý I tuy chưa bằng mục tiêu tăng 6,5% đề ra cho cả năm nhưng cao hơn nhiều so với quý I/2009, chứng tỏ nền kinh tế nước ta đang tiếp tục phục hồi và tăng trưởng nhanh dần. II. LÃI SUẤT THỎA THUẬN VÀ TÁC ĐỘNG CỦA NÓ TỚI DOANH NGHIỆP: 1. Thông tư 07 ngày 26/2/2010 của NHNN: Ngày 26/2/2010 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã ban hành Thông tư số 07/2010/TT-NHNN quy định việc cho vay bằng VND theo lãi suất thỏa thuận của các TCTD đối với khách hàng. Việc ban hành Thông tư 07 giúp lãi suất dẫn được trả về cho thị trường, qua đó khơi thông được nguồn vốn tín dụng trung – dài hạn, mang lại nhiều lợi ích cho các TCTD (doanh thu, cơ hội kinh doanh...), cho doanh nghiệp (tiếp cận vốn dễ dàng, sử dụng vốn một cách hợp lý hơn…) và cho nền kinh tế. Điều đặc biệt hơn là Thông tư 07 là tín hiệu chính sách cho những bước tiến thận trọng dần đạt đến mục tiêu tự do hóa lãi suất. Điểm lại lịch sử cơ chế điều hành lãi suất của NHNN, tiến trình tự do hóa lãi suất được đánh dấu bằng những mốc quan trọng: - Tháng 06/ 2001: trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ, mức lãi suất cho vay và huy động ngoại tệ do các NHTM tự quyết định theo cung – cầu vốn trên thị trường trong từng thời kỳ. Riêng lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ của các doanh nghiệp tại NHTM và tiền gửi ngoại tệ của NHTM tại NHNN chưa được tự do hóa mà vẫn do NHNN quy định, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp bán ngoại tệ cho các NHTM và các NHTM không gửi ngoại tệ ra nước ngoài. - Ngày 30 tháng 5 năm 2002, NHNN đưa ra Quyết định số 546/2002/QĐ-NHNN về việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận trong hoạt động tín dụng thương mại bằng đồng Việt Nam của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó, các TCTD xác định lãi suất cho vay bằng VND trên cơ sở cung cầu vốn thị trường và mức độ tín nhiệm của khách hàng. NHNN không quy định biên độ lãi suất cho vay so với lãi suất cơ bản nhưng vẫn tiếp tục công bố lãi suất cơ bản để làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Như vậy, cùng với việc trần lãi suất cho vay ngoại tệ được xóa bỏ và việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đối với VNĐ thì lãi suất đã được tự do hóa hoàn toàn. Lãi suất cơ bản NHNN công bố làm tham khảo và định hướng lãi suất thị trường. Đồ thị 1: Diễn biến của sự thay đổi chính sách điều hành lãi suất 2000-2002 Nguồn: Ngân hàng nhà nước Việt Nam Với việc thực hiện cơ chế lãi suất thỏa thuận đã giúp tạo thuận lợi cho các TCTD mở rộng huy động và cho vay đối với nền kinh tế, qua đó góp phần giúp kinh tế đạt được sự tăng trưởng cao qua nhiều năm. Tuy nhiên, cùng với tốc độ tăng trưởng cao của nền kinh tế qua các năm thì áp lực lạm phát đã gia tăng từ những tháng đầu năm 2008. Cùng với đó là dấu hiệu của cuộc đại suy thoái kinh tế thế giới mà khởi nguồn từ cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ. Vì vậy, chính sách tiền tệ thắt chặt đã được NHNN thực thi từ đầu năm 2008. Việc thắt chặt chính sách tiền tệ là quyết định tất yếu để ngăn chặn đà lạm phát đang gia tăng mạnh. Tuy nhiên, hiệu ứng ngắn hạn của nó là tác động đến tính thanh khoản của các TCTD, đẩy lãi suất huy động của các TCTD lên cao. Do vậy, có thể gây mất an toàn hệ thống tài chính – ngân hàng. Trước tình hình đó, NHNN đã ban hành Quyết định số 16/2008/QĐ- NHNN về việc điều hành lãi suất được thắt chặt trên cơ sở thực hiện nghiêm túc khoản 1 điều 476 bộ luật dân sự, điều 9 và điều 18 luật NHNN. Theo quyết định này, lãi suất cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng không được vượt quá 150% lãi suất cơ bản do NHNN công bố. Cơ chế lãi suất đã có tác động tích cực bình ổn thị trường trong thời kỳ khủng hoảng, và các cú sốc bởi những thay đổi chính sách để chống lạm phát và suy giảm kinh tế. Tuy nhiên, vai trò lịch sử đó đã đến lúc phải dừng lại cho phù hợp với những diễn biến mới của tình hình thị trường khi mà những tác động tích cực đã giảm dần và những tác động bất lợi đã xuất hiện: lãi suất đã không phản ánh được quan hệ cung – cầu trên thị trường; các TCTD đã lách “trần cho vay” bằng các khoản phí... Mặt khác, những bất cập trong cơ chế “lãi suất trần” đã làm thay đổi cơ cấu nguồn vốn huy động của các TCTD: nguồn vốn huy động ngắn hạn tăng lên, trong khi nhu cầu vốn vay trung – dài hạn là rất lớn, điều này có thể làm rủi ro mất cân đối kỳ hạn vốn tăng lên. Chính vì vậy, ngày 26/2/2010 NHNN đã ban hành Thông tư số 07/2010/TT-NHNN cho phép các ngân hàng được phép áp dụng cơ chế lãi suất thỏa thuận với các khách hàng vay trung và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và đầu tư phát triển. Cơ chế này cũng áp dụng với các khoản vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn để trực tiếp phục vụ đời sống của cá nhân và hộ gia đình của khách hàng vay; các hoạt động cho vay tiêu dùng thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. 2. Diễn biến tình hình tăng lãi suất của các ngân hàng: Đồ thị 2: Diễn biến tình hình thay đổi lãi suất của ngân hàng thương mại trong 4 tháng đầu năm 2010  Nguồn: Báo cáo tuần NHNNVN Trước khi có thông tư 07 năm 2010 của ngân hàng nhà nước thì lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại là 12%/năm và lãi suất huy động là 10.499%/năm, tuy nhiên sau khi chính sách lãi suất thỏa thuận được ban hành thì với lãi suất huy động được giữ nguyên, lãi suất cho vay trung và dài hạn đã tăng lên nhanh chóng. Cụ thể là theo báo cáo của NHNN, nhóm ngân hàng thương mại cổ phần cho vay với lãi suất 15%-17% một năm và nhóm ngân hàng thương mại nhà nước cho vay với lãi suất 14%-15% một năm, cá biệt có một số ngân hàng thương mại cho vay với lãi suất 18%-20%. Nhìn vào đồ thị 2 ta có thể thấy rõ điều này, với cơ chế thả nổi lãi suất cho vay trung và dài hạn, các ngân hàng thương mại có thể tự do quy định lãi suất cho vay của mình, tùy theo nhu cầu thị trường và khả năng đáp ứng. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, vào năm 2009, lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại là 10%, và được nhà nước hỗ trợ 4%, doanh nghiệp chỉ chịu mức lãi suất 6% thì vào năm 2010, lãi suất cho vay đã tăng lên 12%. Tuy nhiên doanh nghiệp không được tiếp cận mức lãi suất 12% mà để được tiếp cận nguồn vốn vay, các doanh nghiệp phải chịu các khoản lệ phí, các chi phí phát sinh phụ khác như: Phí quản lý hạn mức 1,2% năm x số hạn mức; phí quản lý tài sản trước 31.12.2009 thu 3,2% năm, từ ngày 1.1.2010 đến nay thu 7,2% năm (phí này bắt buộc phải ký hợp đồng với khách hàng trước khi giải ngân). Theo đó, lãi suất vay vốn lên tới 19,2%/năm. Vì vậy thực tế đây là hình thức lách luật của các ngân hàng thương mại trước quy định của NHNN về lãi suất cơ bản 8%/năm. Hành vi lách luật trên không chỉ ở việc cho vay của các ngân hàng mà còn ở việc huy động vốn. Để huy động vốn, với quy định của NHNN là lãi suất huy động tối đa là 10.499%/năm. Điều này tạo ra mặt bằng chung về lãi suất huy động giữa các ngân hàng với mức lãi suất huy động tối đa 10,499%. Tuy nhiên để cạnh tranh trên kênh huy động vốn, các ngân hàng thương mại khuyến khích người gửi tiền bằng các chương trình khuyến mãi, ưu đãi khách hàng, tặng thêm tiền gửi khiến lãi suất huy động tăng lên đên 12% mỗi năm. Từ đầu tháng 1.2010, NHNN đã có các văn bản yêu cầu NHNN các chi nhánh Hà Nội và TPHCM thực hiện kiểm tra, giám sát và thanh tra xử lý đối với các trường hợp thu phí sai. Thông báo của cơ quan này cho biết: Để đảm bảo hài hoà lợi ích giữa tổ chức tín dụng và khách hàng vay và thực hiện nghiêm túc cơ chế điều hành lãi suất cơ bản theo Quyết định số 16/2008 ngày 16.5.2008 của NHNN. Ngày 10.6.2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành văn bản số 5158, yêu cầu các tổ chức tín dụng không được thu phí liên quan đến hoạt động cho vay. Ngoài các quy định, Thống đốc cũng đã giao nhiệm vụ cho NHNN chi nhánh tỉnh, thành phố theo dõi, kiểm tra và giám sát việc chấp hành quy định của các tổ chức tín dụng trên địa bàn; xử lý và báo cáo kịp thời NHNN về các trường hợp vi phạm. Thế nhưng, qua theo dõi thị trường tín dụng hiện nay, NHNN thừa nhận có một số tổ chức tín dụng có thu phí liên quan đến hoạt động cho vay đối với khách hàng. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước đã đề nghị Ngân hàng Nhà nước chi nhánh TP.Hà Nội và TP.HCM vào cuộc kiểm tra. Thông tư 07 có hiệu lực sẽ hình thành mặt bằng lãi suất cho vay minh bạch, rõ ràng và phản ánh đúng tín hiệu của thị trường. Cho phép áp dụng lãi suất thỏa thuận vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp vay được vốn với giá thỏa thuận minh bạch, vừa chấm dứt tình trạng phí “ngầm” trong bản thân mỗi tổ chức tín dụng mà Ngân hàng Nhà nước cũng khó kiểm soát. Với việc vận hành theo cơ chế của thị trường thì các NHTM sẽ thay đổi mức lãi suất cho vay dựa trên các yếu tố: chi phí vốn đầu vào của ngân hàng; mức độ rủi ro của từng khách hàng; lĩnh vực, ngành nghề kinh doanh của họ và một số yếu tố liên quan khác. Vậy việc tiếp cận vốn của các doanh nghiệp chủ yếu sẽ phụ thuộc chính bản thân doanh nghiệp. Do đó, để tiếp cận vốn dễ dàng hơn thì các doanh nghiệp sẽ phải hoạt động, sử vốn có hiệu quả và phải bỏ ra chi phí hợp lý cho các khoản vay của mình. Việc điều chỉnh chính sách nói trên cũng không có nhiều bất ngờ, bởi có những thông tin “tín hiệu” trước đó nên doanh nghiệp cũng đã lường tính khi xét đến các kế hoạch vay vốn. Việc tăng lãi suất của các ngân hàng tính đến thời điểm tháng 4 năm 2010 chỉ là phản ứng ngắn hạn của các ngân hàng thương mại đối với thông tư 07. Tùy theo nhu cầu của thị trường tín dụng và quy định của nhà nước trong các chính sách bình ổn giá, tăng trưởng kinh tế, việc làm và các chính sách khác sẽ có sự điều chỉnh lãi suất của các ngân hàng đi vào ổn định hơn và phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế. Nhưng trước mắt, chính sách thả nổi lãi suất đã có tác động không nhỏ đến các doanh nghiệp trong nền kinh tế. 3. Tác động đến các doanh nghiệp: 3.1 Lãi suất tăng cao, doanh nghiệp khó khăn trong kinh doanh: Trong quan hệ tín dụng giữa DN và Ngân hàng, lãi suất cho vay phản ánh giá cả của đồng vốn mà người sử dụng vốn là các DN phải trả cho người cho vay là các NHTM. Đối với các DN, lãi suất cho vay hình thành nên chi phí vốn và là chi phí đầu vào của quá trình SXKD. Do đó, mọi sự biến động về lãi suất cho vay trên thị trường cũng đều ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả SXKD hay nói cách khác là tác động trực tiếp đến lợi nhuận của DN và qua đó điều chỉnh các hành vi của họ các hoạt động kinh tế. Khi lãi suất cho vay của NHTM tăng sẽ đẩy chi phí đầu vào và giá thành sản phẩm tăng lên, làm suy giảm lợi nhuận cũng như khả năng cạnh tranh của DN, gây ra tình trạng thua lỗ, phá sản trong hoạt động SXKD. Xu hướng tăng lãi suất Ngân hàng sẽ luôn đi liền với xu hướng cắt giảm, thu hẹp quy mô và phạm vi của các hoạt động SXKD trong nền kinh tế. Trong cuộc đua tăng lãi suất của các NHTM thì lãi suất đã lên đến 18%-20%/năm, bình quân là 14%-17%/năm, lãi suất cao ngất ngưởng đó, nhiều DN không thể kinh doanh có lãi. Việc Ngân hàng Nhà nước quy định cho vay với lãi suất thỏa thuận, DN chưa kịp mừng đã phải đối diện với những cú sốc lớn. Vì trước đó, lãi suất đang ở mức 6,5% rồi tăng bất ngờ lên 12%/năm, quá cao. Trong khi đó, các DN không còn được hưởng gói hỗ trợ lãi suất 4%/năm của Nhà nước nữa. Đây sẽ là khó khăn lớn cho nhiều DN trong năm 2010. Sẽ có nhiều doanh nghiệp không thể tiếp tục sản xuất kinh doanh nếu chịu lãi suất cao 20%. Trong khi Chính phủ chỉ đạo kìm giá hàng loạt mặt hàng thì lãi suất vay tăng vọt tới 18-20% khiến giá sản phẩm, dịch vụ của các doanh nghiệp không thể không tăng.  3.2 Doanh nghiệp sử dụng nhiều kênh huy động vốn hơn: Trước mức lãi suất cao như hiện nay, để giảm bớt chi phí lãi vay một số doanh nghiệp có niêm yết trên thị trường chứng khoán đã sử dụng việc phát hành cổ phiếu ra thị trường như một cách thức để huy động vốn. Một số doanh nghiệp xuất khẩu, hoặc có mối quan hệ kinh doanh với các doanh nghiệp nước ngoài sử dụng vay vốn bằng ngoại tệ với lãi suất từ 6%-7%/năm. 3.3 Khó khăn trong vay ngắn hạn: Như ta đã biết, doanh nghiệp  cần vốn trung, dài hạn để cho tăng trưởng quy mô, vốn này lấy từ nguồn đi vay hoặc cổ phiếu… nhưng để kinh doanh và chớp cơ hội đầu tư thì lại cần khoản ngắn hạn, mà vốn này hầu hết phải đi vay. Như vậy lãi suất thoả thuận lại không "thoả mãn” hết được cái mà doanh nghiệp cần. Mặc dù lãi suất cho vay ngắn hạn chỉ là 12%/năm, nhưng việc tiếp cận với khoản vay này không phải là dễ dàng đối với doanh nghiệp. Vì mức lãi suất huy động vốn của các ngân hàng đã lên tới gần 12%/năm. Vì vậy ngoài hình thức quy định thêm các khoản phí để tăng lãi suất cho vay, các ngân hàng có thể “gợi ý” cho các doanh nghiệp chọn hình thức vay trung hạn với hình thức cam kết để có thể vay được vốn. Biến các hợp đồng vay ngắn hạn thành hợp đồng vay trung- dài hạn thì ngân hàng sẽ được áp dụng lãi suất thỏa thuận 15- 18%/năm thay vì phải theo trần lãi suất chỉ có 12%/năm. Vì theo giải thích một số ngân hàng, cho vay theo trần lãi suất 12%/năm chỉ ngang với mức lãi suất mà ngân hàng trả cho người gửi tiền (gồm 10,499% cộng với các khoản khuyến mãi, thưởng...), xem như ngân hàng lỗ phần chi phí, khoảng 3%. Chính vì vậy, đối với người vay vốn ngắn hạn, những tưởng sẽ được vay theo trần lãi suất 12%/năm nhưng thực tế, họ phải trả thêm phí, cộng lại tới trên 16%/năm. 3.4 Hợp pháp hóa hình thức lách luật của doanh nghiệp và ngân hàng: Trước đây, vào thời điểm cuối năm 2009, đầu năm 2010 trước khi có chính sách lãi suất thỏa thuận. Để vay được vốn, các doanh nghiệp phải chấp nhận những khoản phí vô lý lên tới 5%-7% mỗi năm trên vốn vay, dẫn đến mặc dù ký hợp đồng với lãi vay là 12%/năm nhưng thực tế lãi vay có thể lên tới 18%/năm. Đây là những khoản chi phí ngầm của ngân hàng đối với doanh nghiệp. Là một hành vi lách luật, tạo sự không minh bạch trong thị trường vay vốn. Vì vậy thông tư 07 như là một văn bản hợp pháp hóa hành vi lách luật này, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn một cách dễ dàng hơn, loại bỏ những thủ tục, hợp pháp hóa những khoản chi không đáng có của doanh nghiệp trong việc tiếp cận vốn. Bới vốn dĩ, trước khi thông tư 07 được ban hành, mặc dù doanh nghiệp chấp nhận những khoản phí “vô lý” của các NHTM thì vẫn không được vay vốn vì các NHTM cũng dè dặt trong việc lách luật. Như vậy chính sách lãi suất thỏa thuận đã mở đường cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn dễ dàng hơn. 3.5 Mỗi doanh nghiệp sẽ vay với lãi suất khác nhau: Điều này dễ dàng nhận thấy khi chính sách có tên là lãi suất thỏa thuận. Tùy theo khả năng sinh lời của dự án, mức độ rủi ro, thời gian hoàn vốn, thời gian vay, lượng vốn quan hệ của doanh nghiệp đối với ngân hàng cùng với yếu tố đầu vào của ngân hàng mà quy định mức lãi suất cho mỗi vốn vay dành cho dự án. Tác dụng phụ có thể nhìn thấy trước mắt của Thông tư 07 là việc doanh nghiệp có thể phải vay với lãi suất cao và mỗi doanh nghiệp lại vay một mức lãi suất khác nhau. Mức lãi suất này đương nhiên sẽ phụ thuộc vào “quan hệ” của ngân hàng và doanh nghiệp ấy đến đâu, tiềm năng phát triển và hiệu quả dự án kinh doanh. Điều này sẽ làm xảy ra hiện tượng các “ông lớn” bắt tay với ngân hàng để có được lãi suất mềm hơn, làm mất khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp nhỏ. 3.6 Để vay được vốn với lãi suất ưu đãi, doanh nghiệp sẽ phải sử dụng các dịch vụ của ngân hàng: Vốn vay chiếm phần lớn trong cơ cấu nguồn vốn của doanh nghiệp, để tiếp tục đầu tư cho sản xuất và hoạt động sản xuất được liên tục thì nguồn vốn vay như một dòng chảy trong hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy để có thể tiếp cận nguồn vốn vay từ ngân hàng. Doanh nghiệp sẽ phải chấp nhận một số ràng buộc từ phía ngân hàng như sử dụng dịch vụ gửi tiền của ngân hàng, trả lương cho nhân viên qua ngân hàng hay các dịch vụ thanh toán khác. Đây là một hình thức tạo mối quan hệ giữa doanh nghiệp với ngân hàng. 3.7 Gây khó khăn cho việc thành lập các dự án cần nguồn vốn vay:
Luận văn liên quan