Đề tài Lịch sử phát triển của hóa học

MỞ ĐẦU Lịch sử ngành hóa học có lẽ được hình thành cách đây khoảng 4000 năm khi người Ai Cập cổ đại lần đầu dùng kĩ thuật tổng hợp hóa học dạng "ướt".Đến thời kì 1000 năm trước Công nguyên một số nền văn minh đã dùng những kĩ thuật hóa học vẫn còn giá trị nền tảng cho đến tận ngày nay, như: luyện thép từ quặng sắt, làm đồ gốm, lên men rượu tạo ra màu để sơn và trang trí, chiết xuất tinh chất từ thực vật làm thuốc hay nước hoa, làm phô mai, nhuộm quần áo, thuộc da, chế biến mỡ thành xà bông, làm ra thủy tinh, Những thời kì lịch sử quan trọng của Hóa học: 1,Thời kì cổ đại:Từ thượng cổ đến hết thế kỉ thứ 3 sau công nguyên 2,Thời kì giả kim thuật:Thừ thế kỉ thứ 4 đến đầu thế kỉ 16 3,Thời kì hóa học độc lập trở thành môn khoa học:Từ đầu thế kỉ 16 đến cuối thế kỉ 18 4,Thời kì hóa học hiện đại:Từ đầu thế kỉ 19 đến nay

docx25 trang | Chia sẻ: thanhlinh222 | Lượt xem: 16864 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Lịch sử phát triển của hóa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
KHOA HÓA LÝ KỸ THUẬT BỘ MÔN CÔNG NGHỆ HÓA HỌC *****o0o***** THẢO LUẬN HÓA VÔ CƠ Chủ đề : Lịch sử phát triển của hóa học MỤC LỤC MỞ ĐẦU Lịch sử ngành hóa học có lẽ được hình thành cách đây khoảng 4000 năm khi người Ai Cập cổ đại lần đầu dùng kĩ thuật tổng hợp hóa học dạng "ướt".Đến thời kì 1000 năm trước Công nguyên một số nền văn minh đã dùng những kĩ thuật hóa học vẫn còn giá trị nền tảng cho đến tận ngày nay, như: luyện thép từ quặng sắt, làm đồ gốm, lên men rượu tạo ra màu để sơn và trang trí, chiết xuất tinh chất từ thực vật làm thuốc hay nước hoa, làm phô mai, nhuộm quần áo, thuộc da, chế biến mỡ thành xà bông, làm ra thủy tinh, Những thời kì lịch sử quan trọng của Hóa học: 1,Thời kì cổ đại:Từ thượng cổ đến hết thế kỉ thứ 3 sau công nguyên 2,Thời kì giả kim thuật:Thừ thế kỉ thứ 4 đến đầu thế kỉ 16 3,Thời kì hóa học độc lập trở thành môn khoa học:Từ đầu thế kỉ 16 đến cuối thế kỉ 18 4,Thời kì hóa học hiện đại:Từ đầu thế kỉ 19 đến nay 1. Thời kì cổ đại. 1.1. Những di vật và hiểu biết Hóa học thời kì cổ đại. Các giáo sĩ tôn giáo bí mật nghiên cứu điều chế nhân tạo ngọc quý,kim loại quý,vàng bac,thuốc nhuộm đẹp,thuốc thánh chữa bệnh,ướp xác ngườidung những kí hiệu tượng trưng,khinh thường sự quan sát thiên nhiên và sự tổ chưc làm thí nghiệm.Sau khi Ai Cập bị Hy Lạp xâm chiếm ( Năm 323 trược Công Nguyên) một phần “ Nghệ thuật thiêng liêng” bị lọt ra ngoài từ các đền thờ Phơta,Ozirit,Jzodovà được phổ biến rộng ra dần Trong thành phố thì có sự hoạt động hang ngày thiết thực phong phú của một đội ngũ đông đảo các thợ nghề thủ công.Họ lao động cần cù đi đến sang tạo ra nhiều sản phẩm đồ mỹ nghệ bằng ngọc quý,vàng,bạc,đồ gốm,đồ thủy tinh,vải vóc,thuốc nhuộmĐội ngũ thợ này tập hợp dần dần một vốn kiến thức về kỹ thuật hóa học thủ công phong phú và có giá trị.Chính họ đã để lại cho ngày nay những di vật quý như:đền đài,lăng mộ,kho báu,dụng cụ lao động,sinh hoạt Ngoài ra còn có những tư liệu ghi chép trên những tấm đá,tấm đất sét nung,thanh tre non,giấy lao sậy (papirut Ai Cập).Một papirut có tiếng nhất là papirut Ebe (Eber) còn lưu trữ tại trường đại học Lepzic viết khoảng 1600 năm trước công nguyên,phần chính nói về y học,thuốc chữa bệnh.Còn có kể thêm tác phẩm của một số tác giả,thi sĩ. Các di vật ở trên được tim thấy ở những nơi đã có một trình độ văn minh nào đó ở thời cổ đại,tại khu vực rộng lớn Á-Âu-Bắc Phi,đã xuất hiện dần dần trước sau nhau một ít các nền văn minh:Trung Quốc (sớm nhất), Ấn Độ,Lưỡng Hà,Ai Cập,Hy Lạp,Lã Mã ( muộn nhất) .Từ thời xa xưa người Trung Hoa đã biết sản xuất đồ gốm,một số kim loại,đúc tượng,chế thuốc nhuộm (inđigo),thuốc chữa bệnh,sản xuất đường,nấu rượu từ các hạt,ấn Độ cũng có nhiều những di vật tương tự mới được phát hiện gần đây,có những đồ gốm,những đồng tiền có niên đại khoảng 3000 năm trước công nguyên.Khu vực Lưỡng Hà có những tấm đất sét khắc chữ hình nêm từ 3000 năm trước công nguyên ghi lại cách sản xuất các kim loại đồng,bac,vàng,chì từ quặng,có những tượng múa tôn giáo từ 4000 năm trước công nguyên.Ở Việt Nam.thời các vua Hùng cũng biết sản xuất đồ gốm,luyện sắt,đúc chuông đồng,vũ khí Nền văn minh Ai Cập cổ đại được nghiên cứu và hiểu biết nhiều nhất.Trước khi bị đế quốc Hy Lạp xâm chiếm,Ai Cập độc lập có các triều đại được xây dựng nên từ 7000 năm trước công nguyên,là nước có kỹ thuật tiên tiến của thế giới ngày xưa,các nghề thủ công đạt tới trình độ cao do trong chế độ chiếm hưu nô lệ của Ai Cập có sự phân công lao động giữa các thợ thủ công và sự chuyên môn hóa sản xuất.Ai Cập cổ đại biết nung gạch từ 6000 năm trước công nguyên,biết tinh chế vàng bạc sản xuất đồ gốm,chế thuốc nhuộm (thuốc nhuộm thực vật inđigo,nghệ,quỳthuốc nhuộm vô cơ như hồng hoàng,minium..),chế rượu như rượu nho,..dấm,các loại thuốc chữa bệnh (thuốc viên,thuốc xoa,thuốc bổ,..),có ký thuật ướp xác người chu đáo tử 3000 năm trước Công nguyên,trong kim tự tháp Khuphu (Khufu) 2900 năm trước công nguyên đã tìm thấy dao trổ bằng thép được chôn theo. Từ xa xưa,con người trong quá trình tìm hiểu thế giới đã nhận thấy cần phải có một lý thuyết nào đó hướng dẫn mình tiến tới. 1.2 Những lý thuyết của các Triết gia cổ Hy Lạp-La Mã. Trong thời cổ đại,dân tộc Hy Lạp nổ bật lên ở khả năng tổng quát hóa.Họ có nhiều nhà triết học mạnh dạn xây dựng nên những lý thuyết tổng quát để giải thích các hiện tượng muôn hình muôn vẻ không ngừng diễn ra xung quanh mình,đáng chú ý nhất có thuyết các chất đầu hay nguyên tố của mọi vật,có thuyết nguyên tử về cấu tạo gián đoạn của vật chất.Thuyết các nguyên tố được hình thành như sau: Nhà triết học Talet (Thales) ở thành phố Milê (Milet) sống ở thế kỉ thứ 7 sang thế kỉ thứ 6 trước Công nguyên,đã suy nghĩ và kết luận rằng nước là một nguyên lý,là chất đầu,là nguyên tố của tất cả:”không có gì có thể xuất phát từ không có gi,tất cả xuất phát từ nước rồi lại trở lại về nước”.Đun nóng nước thấy nước biến thành không khí (hơi nước),cho bay hơi nước (nước biển) thu được đất (muối), Anaximen sống khoảng giữa thế kỉ thứ 6 trước Công nguyên cho không khí là chất đầu.Xenophan cùng thế kỉ cho đất và nước là chất đầu.Heraclit (540-480 trước công nguyên) coi lửa là chất đầu. Em-pê-đôc (Empedocle) (490-430 trước công nguyên) tổng hợ thành thuyết các nguyên tố nước,không khí,đất,lửa thành 4 chất đầu,là 4 nguyên tố tạo nên mọi vật.Mọi vật thể đều được tạo nên từ chúng theo những tỉ lệ khác nhau. Chúng ta lưu ý rằng,nguyên tố ở đây nghĩa là thứ đầu tiên,không kể là vật chất hay phi vật chất. Gần như đồng thời với thuyết các nguyên tố,ra đời thuyết nguyên tử.Một vấn đề to lớn đặt ra là xem vật chất có cấu tạo như thế nào,có thể chia nhỏ mãi vô cùng không giới hạn hay có giới hạn? Lơ-xip (Leucipe) ở thế kỉ thứ 5 trước công nguyên là tác giả của thuyết nguyên tử.Ông cho rằng vật chất có thể chia nhỏ dần đi đến những phần tử không thể chia nhỏ hơn được nữa,gọi chúng là các nguyên tử.Có các nguyên tử của đất,nước,không khí,lửa. Đê-mô-crit (Democrite) (460-390 trước Công Nguyên) học trò của Lơ-xip hoàn thiện lý thuyết của thầy,được coi là ông tổ thực sự của thuyết nguyên tử. Đê-mô-crit xuất phát từ nguyên lý:”không có gì thì không thể cho cái gi cả” và lý luận như sau để đi đến thừa nhận sự tồn tại của nguyên tử: “ Nếu bất kì vật nào có thể chia nhỏ mãi không cùng thì có 2 điều,hoặc không có gi cả hoặc còn lại cái gi đó.Trong trường hợp thứ nhất,vật chất chỉ có một sự tồn tại ảo tưởng mà thôi,trong trường hợp thứ 2 người ta đặt câu hỏi:còn lại gì vậy?.Câu trả lời logic nhất là có sự tồn tại của các nguyên tố thực sự.,không chia được,không chỉ được gọi là các nguyên tử”. Ông quan niệm rằng các nguyên tử của các nguyên tố có kích thước và hình dạng nhất định,giải thích được sự khác nhau về tính chất của các nguyên tố.Những chất thực tế ta thấy là liên kết của các nguyên tố đó,nếu có sự thay đổi liên kết thì có thể làm chất này biến đổi thành chất khác. Lơ-xip và Đê-mô-crit là 2 nhà duy vật hoàn toàn,không chấp nhận có sự tham gia của một vị thần thánh nào trong mọi hiện tượng của vũ trụ. Pla-tôn ( Platon ) (429-349 trước công nguyên) một triết gia có tên tuổi lớn,trong sách Timê của mình bác bỏ tính chất vật chất,bác bỏ thuyết nguyên tử,trình bày thuyết theo ý của mình:một thượng đế đã xây dựng trật tự của thế giới bằng nguyên tố nước,không khí,đất lửa đã tạo ra 4 loại sinh vật ứng với 4 nguyên tố đó là:loại thứ nhất gồm các thần tạo nên tia lửa,loại thứ 2 gồm các động vật có cánh sống trong không khí,loại thứ 3 gồm các động vật sống trong nước,loại thứ 4 gồm các động vật sống trên cạn. (Arixtot 384-322 trước công nguyên) học trò của Platon,không coi nặng như thầy vấn đề nghiền ngẫm các ý,mà chú ý nhiều đến việc nghiên cứu thiên nhiên,đến các con vật và các cây cỏ.Ông bác bỏ thuyết nguyên tử,thừa nhận vật chất có thể chia vô hạn,thừa nhận có 4 nguyên tố nước,không khí,đất lửa,tuy nhiên quan niệm nhau tưng cặp:khô-ẩm;nóng-lạnh,4 tính chất nguyên thủy ấy kết hợ từng cặp một tạo thành nước,không khí,đất,lửa theo sơ đồ này: Nóng+khô=lửa Nóng+ẩm=không khí Lạnh+khô=đất Lạnh+ẩm=nước Khi đun nóng nóng nước thiên nhiên,nước được biến thành không khí và để lại trong đĩa một bã là đất.Hiện tượng này được giải thích như sau:nước đã trả ẩm cho lửa,thu nóng của lửa tạo thành không khí,đồng thời nước trả lạnh cho lửa thu khô của lửa tạo thành đất. Từ đây Arixtot kết luận là:”Hoàn toàn có khả năng biến đổi chất này thành chất khác!” kết luận này đã thống trị tai hại hóa học trong 1 thời gian rất dài,gần 2000 năm với trào lưu giả kim thuật. Dân tộc La Mã có óc thực tế hơn là óc suy luận,cho nên họ chỉ tiếp thu các tử tưởng triết học của dân tộc Hy Lạp,không đóng góp được gì thêm giúp phát triển lý thuyết vừa trình bày *Vài nét về nhà trường Alexandrie Trong thời gian chuyển tiếp từ thời kì cổ đại sang thời kì trung cổ,từ thế kỉ thứ 2 đến thế kỉ thứ 6 sau công nguyên.Sự hoạt động mạnh mẽ của nhà trường Alexandrie,có ảnh hưởng khá quan trọng đến sự tiến hóa của các ngành khoa học trong đó có hóa học. Năm 323 trước Công Nguyên,Hoàng đế Hi Lạp,Alexxandrie vĩ đại sau khi chinh phục được BaTư,Tiểu Á,và các nước Á-Phi,tiến hành chiếm Ai Cập,cho xây dựng ở ngay cửa song Nin thành phố mới Alexandrie làm thủ đô cho nước Ai Cập thuộc Hi Lạp. Thành phố mới này trở thành một trung tâm thương mại và thủ công nghiệp lớn nhất thời bấy giờ,do chiếm vị trí đầu mối cho nhiều đường giao thông và biển đi khắp mọi nơi.Dòng vua Ptoleme trị vì Ai Cập từ thế kỉ 3 trước Công Nguyên với ý đồ chiến lược tán dương,củng cố và khuếch trương ảnh hưởng chính quyền của mình,tìm cách tập trung ở Alexandri tất cả những nhà thông thái Hi Lạp và cho xây dựng một viện hàn lâm khoa học,đó là thư viện công cộng đầu tiên trong lịch sử loài người (một thư viện khổng lồ chứa tới 700.000 sách viết bằng tay) và trường đại học Alexandrie cũng trở thành một trung tâm khoa học lớn nhất thời bấy giờ,thu hút mạnh mẽ nhiều thanh niên các nơi đến học tập,những nhà bác học được mời đến chỉ mới làm được công tác bồi dưỡng,nghiên cứu và giảng dạy,nhưng chưa đóng góp được nhiều cho sự tiến bộ của khoa học vì viện hàn lâm khoa học Alexandrie là một cơ quan cung đình lấy những thuyết duy tâm làm tư tưởng chủ đạo.Dẫu sao từ nhà trường Alexandrie này đã xuất hiện một số nhà khoa học lớn như:Ơclit (Euclide) về toán,lý;Acsimet về kỹ thuật,Herophin về y học,..do đã chú ý gắn liền nghiên cứu khoa học với các ứng dụng phục vụ nông nghiệp,hàng hải,quân sự,thương mại,đối với hóa học nó vẫn được coi như là một bộ phận của:”nghệ thuật bí mật thiêng liêng” của các giáo sĩ trong các đến thờ.Họ hoạt động dựa nhiều vào tà thuật,mê tín,tuy vậy cũng được tập hợ một số kiến thức về hóa kỹ thuật thủ công. Nhà trường Alexandrie tồn tại đến năm 641 và sau đó ngừng hoạt động hẳn do thành phố Alexandrie bị người Ả rập tàn phá trong một cuộc bao vây 14 tháng liền. Nhờ sự tỏa sang của nhà trường Alexandrie mà có nhiều thành tựu về triết học,văn học,khoa học,nghệ thuật của thế giới cổ đại được truyền lại cho đến ngày này trong đó có hóa học. 2. THỜI KÌ GIẢ KIM THUẬT. Giả kim thuật là danh từ dịch từ chữ “ alchimi”, mà người Ả Rập sau khi xâm chiếm Ai Cập giữa thế kỉ thứ 7, đặt ra bằng cách lắp tiền tố “al” của Ả Rập vào từ chimi để chỉ thứ “tiền hóa học” ngự trị trong thời kì trung cổ ở châu Âu (từ thế kỉ thứ 4 đến thế kỉ thứ 16) Mục đích chủ yếu của giả kim thuật là tìm hòn đá thần bí biến đổi các kim loại thường thành vàng. Do vậy có thể tạm định nghĩa hóa học ở thời kì này là “nghệ thuật biến đổi các kim loại thành vàng”, nhờ hồn đá “thần bí”. Sau đó người ta còn thêm yêu cầu tìm ra thuốc thần bí truyền cho con người sức khỏe, sự trẻ trung, tính bất tử. Tại sao lại có mục đích tha thiết viển vông, tìm cách biến các kim loại thành vàng? Nguyên nhân là do thời trung cổ, ở châu Âu có chế độ phong kiến phân tán, có sự buôn bán phát triển khá rộng rãi giữa châu Âu và phương Đông, nhưng vì giao thông khó khăn, đường xa đầy nguy hiểm nên cần vàng là vật liệu quý và nhỏ dễ mang theo để dùng làm vật trao đổi tương đương. Yêu cầu có nhiều vàng định hướng nghiên cứu cho các nhà giả kim thuật tìm “ngọc thần bí” có khả năng biến đổi một kim loại bất kì thành vàng. Cơ sở lý thuyết của giả kim thuật là quan niệm của Aritxtôt chuyển hóa dduojc chất này thành chất khác, kim loiaj này thành kim loại khác. Về nguồn gốc giả kim thuật còn có thể thêm lòng tham lam của con người muốn có ngiều vàng để tạo cho mình một cuộc sống đế vương về vật chất, tham vọng bản thân sống luôn luôn khỏe mạnh, luôn luôn trẻ trung, sống đời cùng người thân mà không bao giờ có cảnh biệt ly. Giả kim thuật có một số dặc điểm như sau: Hoạt động bí mật khép kín, có khuynh hướng tà thuật, không biết gì đến phương pháp khoa học. Sử dụng những kí hiệu thần bí và một ngôn ngữ rối rắm cố ý. Truyền các kinh nghiệm cho nhau theo một đường lối tin cậy mù quáng không cần cơ sở gì, có sự kiểm tra gì. Đọc quyền ngiên cứu, nắm trong tay đám giáo sĩ tôn giáo là những người nắm văn học, khoa học trong xã hội thời bấy giờ. Nhìn tổng quát, giả kim thuật có nguồn gốc Hi Lạp – Ai Cập, nó được Ả Rập tiếp thu khi đến xâm chiếm Ai Cập giữa thế kỉ thứ 7 rồi đem truyền bá dần sang Tây Âu khi xâm chiếm Tây Ba Nha đầu thế kỉ thứ 8(năm 711). Giả kim thuật đã phát triển theo 3 giai đoạn là: Giả kim thuật ở Ai Cập thuộc Hi Lạp, từ thế kỉ thứ 4 đến giữa thế kỉ thứ 7. Giả kim thuật trong giới Ả Rập, từ giữa thế kỉ thứ 7 đến đầu thế kỉ 13. Giả kim thuật trong thiên chúa giáo Tây Âu, từ đầu thế kỉ 13 đến đầu thế kỉ 16. 2.1.Giả kim thuật ở Ai Cập thuộc Hi Lạp (từ giữa thế kỉ thứ 4 đến giữa thế kỉ thứ 7) Các nhà giả kim thuật có tên tuổi trong thời kì này là: Zôsime: đã trình bày cách “cố định thủy ngân” (hóa rắn thủy ngân) cách chế nước thánh cho nghệ thuật điều chế vàng Hecmet ba lần vĩ đại (Hermès Trismégiste) sống vào khoảng đầu công nguyên, nhiều tài liệu viết “đóng kín” mang tên ông và số lượng quá nhiều, mấy thế kỉ sau công nguyên còn xuất hiện. Người ta nghi ngờ, tìm hiểu kĩ, nhận ra trong đó còn có cóp nhặt giả tạo. Ai Cập thuộc Hi Lạp, không có kiến thức gì khác mới đáng chú ý. 2.2 Giả kim thuật trong giới Ả Rập (từ giữa thế kỉ thứ 7 đến đầu thế kỉ thứ 13) Các quốc vương Ả Rập có đặc điểm nắm cả chính quyền lẫn thần quyền. Sau khi xâm chiếm Ai Cập, họ theo gương chính quyền trước ở Ai Cập tích cực bảo trợ khoa học và nghệ thuật, thu hút tập trung các nhà bác học, khi đến Tây Ba Nha, người Ả Rập xây dựng vương quốc Coocđu (Cordoue) độc lập làm thành một trung tâm văn minh Ixlam, thành lập trường đại học Coocđu có thư viện lớn nhất thời bấy giờ chứa 250.000 sách, giảng dạy các môn triết học, toán, thiên văn, chiêm tinh, y học, giả kim thuật, tổ chức dịch nhiều tài liệu cổ điển Hi Lạp sang tiếng Ả Rập. Người Ả Rập chú trọng nhiều nghiên cứu y học, dược học, tìm và chế biến nhiều thuốc chữa bệnh. Các nhà giả kim thuật có tên tuổi nhất trong giai đoạn này là Ghebe (Geber), 750-840, sống vào thời kì thịnh vượng nhất của đế quốc Ả Rập. Ông được coi là ông tổ của giả kim thuật Ả Rập. Các công trình chính của ông nói về toán học, y học, giả kim thuật. Geber thêm vào Thuyết nguyên tố của Aritxtôt 2 nguyên tố mới là thủy ngân và lưu huỳnh để giải thích sự cấu tạo nên kim loại. Theo ông, các kim loại được cấu tạo từ sự kết hợp của thủy ngân và lưu huỳnh theo những tỉ lệ khác nhau; vàng là kim loại hoàn thiện nhất, có tỉ lệ kết hợp giữa thủy ngân và lưu huỳnh là tốt nhất. Đây là đóng góp thêm của giả kim thuật về mặt lý thuyết cho hóa học thời bấy giờ. Trong các công trình của ông lần đầu tiên xuất hiện các danh từ alcati, vitriol, alcohol, alembic, sự mô tả rõ ràng các lò, các thiết bị dùng trong các phòng nghiên cứu, cách chế biến chưng cất, kết tinh, thăng hoa, Cách điều chế và tinh chế các kim loại, cách điều chế axit từ dấm Số tài liệu được coi là của ông viết để lại quá nhiều, được xuất bản trong nhiều thế kỉ sau nhưng thực ra có nhiều tác giả không phải là của ông. Razet (Rhasès), 860-940. Ông có 2 quyển sách nổi tiếng nhất: “ Sách về những bí mật”, “Sách về bí mật của những bí mật”. Ông thêm nguyên tố muối làm thành phần thứ 3 trong cấu tạo kim loại. Ông nói đến nhiều kĩ thuật chế biến, nhiều dụng cụ thí nghiệm ( lò nung, bình cổ cong, bình kết tinh,), nhiều hóa chất. Ông đã mô tả phương pháp dùng vôi sống để loại nước ra khỏi cồn, thứ cồn đầu tiên được chế bằng chưng cất rượu nho. Avixen (Avicenne), 980-1036, là nhà khoa học Ả Rập lớn cuối cùng, nghiên cứu triết học, toán, thiên văn, y học, giả kim thuật nhưng hoạt động nhiều trong lĩnh vực y học. Công trình chính là sách “Quy tắc của khoa y học” – có đề cập đến nhiều chất vô cơ, hữu cơ, và chiếm vị trí độc tôn về y học của châu Âu suốt thời kì trung cổ. 2.3 Giả kim thuật ở Tây Âu Thiên Chúa giáo (từ đầu thế kỉ 13 đến đầu thế kỉ 16) Văn hóa Ả Rập từ Tây Ba Nha và Italia xâm nhập ngày càng nhiều và mật thiết vào văn hóa thiên chúa giáo châu Âu. Bắt đầu từ thế kỉ 12, giả kim thuật xâm nhập vào các nước Pháp, Đức, Anh qua các bản dịch tài liệu giả kim thuật từ tiếng Ả Rập sang tiếng La tinh và được phổ biến rộng rãi tới mức chẳng bao lâu giả kim thuật lan truyền khắp châu Âu, như một bệnh truyền nhiễm! Thời bấy giờ châu Âu có một thuận lợi lớn về tổ chức xã hội: nhiều thành phố ít lệ thuộc vào các chúa phong kiến đã được tự trị nên tự do hơn. Đã suốt hiện những hội buôn lớn , ở các thành phố lớn đã thành lập các trường đại học dân sự khác với các trường tu viện, các trường đại học kiểu mới này dạy nhiều nghề khác nhauvà có quyền tự trị như các công xưởng thủ công, Do quyền lợi về chính trị và kinh tế ở thành phố nhiều hơn, hoạt đọng về tinh thần trở nên sôi nổi hơn và nhu cầu về học tập của thanh niên thuộc giới thợ thủ công và giới thương nhân cũng tăng lên. Có thể kể đến đại học Bôlônha ở Italia(1119), đại học Pari ở Pháp(1200), Thời thịnh vượng nhất của giả kim thuật ở châu Âu là vào các thế kỉ thứ 13 và 14. Lúc này nhà thờ thiên chúa giáo chiếm độc quyền văn hóa và nghiên cứu khoa học, trực tiếp là các tăng lữ, trong các phòng kín đọc sách, ghi chép, nghiên cứu, viết về các khoa học tự nhiên, đặc biệt chú ý đến môn giả kim thuật. Từ thế kỉ 15 tuy số môn đồ giả kim thuật ở châu Âu vẫn tăng nhưng họ chỉ nhằm điều chế vàng nên giả kim thuật suy tàn dần không còn hi vọng gì tồn tại Những nhà giả kim thuật có tên tuổi nhất trong giai đoạn này là: Anbe Lơgrăng (Albert Legrand),1193-1280, là nhà giả kim thuật người Đức có ảnh hưởng lớn nhất. Sách của ông trình bày các thuyết, phần lớn lấy của Aritxtôt, phần thì lấy của người Ả Rập, ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm ái lực hóa học, nêu ra những thuận lợi của phương pháp tách (chưng cất, chưng cách thủy, thăng hoa,), mô tả kĩ các thiết bị, Ông đã dùng lửa để kiểm tra các mẫu vàng, bạc của các nhà giả kim thuật điều chế ra, và kết luận vàng, bạc đó đều là giả. Rôgiơ Bêcơn (Roger Bacon), 1220-1292, là một nhà giả kim thuật người Anh, được mệnh danh là “tiến sĩ kì diệu” (doctor mirabilis) do có những khả năng xuất sắc. Bêcơn có một trình độ vượt trình độ thời bấy giờ ông cho toán học có vị trí cơ bản trong các khoa học, một khoa học nào muốn tiến bộ phải kết hợp thí nghiệm với các phương pháp toán học. Theo ông có 2 phương pháp nghiên cứu là phương pháp lập luận trừu tượng và phương pháp thí nghiệm cụ thể; phương pháp thí nghiệm quan trọng vô cùng vì nố cần thiết để kiểm tra những lập luận trừu tượng không đủ tin cậy,. Bêcơn học ở Ôcpho (Oxford) nước Anh, tại Pari nước Pháp đỗ tiến sĩ, về ở tu viện Coocđơliê (Cordeliers) tại Pari ông bắt đầu nghiên cứu khoa học và giả kim thuật. Ông có tư tưởng tiến bộ chống lại triết học kinh viện nên bị các giáo phái nghi ngờ, tìm cách trù dập, đuổi đi, bắt giam, hành hạ, khủng bố nhiều năm, đến tàn tật thì ông được trả thự do. Sách “tấm gương giả kim thuật” của ông trở thành sách giáo khoa thực hành cho nhiều thế hệ các nhà giả kim thuật sau này. Các đại diện giả kim thuật của Pháp là; Vanhxăng đơ Bôve (Vincent de Beauvais, Xanh Tôma Đacanh (Saint Thomas d’ Aqin), 1225-1274, và của Tây Ba Nha là Acnôn đơ Vinlơnơvơ (Arnauld de Vinleneuve), 1240-1319,  Raymông Luyn (Raymond Lulle), 1235-1315, cả hai đều vừa là bác sĩ, vừa là nhà giả kim thuật. Chúng ta hãy đánh