Đề tài Luật Dân sự Việt Nam - Vấn đề quyền được chết (an tử)

Cuộc sống đối với mỗi người có lẽ là tài sản quý giá nhất mà không ai muốn rời bỏ. Tuyên ngôn về nhân quyền của nước Mỹ viết: “Người ta sinh ra ai cũng có quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc”. Tuy nhiên, đối diện với sự sống là cái chết. Sống là quyền, vậy đối với một con người, được chết có phải là quyền hay không? Ra đi trong cô đơn chỉ vài ngày sau khi Tòa án Dijon (Pháp) bác bỏ thỉnh nguyện xin được “ra đi xứng đáng” bằng cách được chích thuốc độc chết (mà người ta vẫn hay gọi là “cái chết êm ái” hay “an tử’), hôm 20/3/2008, người ta đã phát hiện thi thể của bà Chanal Sebire, bị một chứng bệnh có tên esthesioneuroblastoma - một loại khối u ác tính tấn công cơ thể từ khoang mũi gây đau đớn, biến dạng hoàn toàn khuôn mặt tại một căn hộ ở miền Đông nước Pháp. Cái chết của bà Sebire đã gây chấn động toàn thế giới bởi sau nhiều tháng đấu tranh để “được chết” nhưng không thành công. Giữa tháng 3, bà Sebire làm đơn gửi Tòa án xin được chết, sau khi đã thỉnh cầu Tổng thống Sarkozy can thiệp để bác sĩ điều trị có thể kê toa độc dược “giúp” bà được chết trong tỉnh táo và trong vòng tay thân quyến, bạn bè. Sau khi tòa Dijon bác bỏ thỉnh nguyện của bà Sebire với lý do luật hiện hành không cho phép, thủ tướng Pháp đã chỉ thị lập một ủy ban xem xét có thể điều chỉnh luật hay không. Thẩm phán Tòa án nói: “Không!”. Còn bà Bộ trưởng bộ tư pháp - Rachida Dati thì phát biểu trên truyền hình rằng: “Chúng ta đã xây dựng luật pháp dựa trên những thỏa thuận chung của cả Châu Âu về quyền sống và được sống của con người. Y tế là cứu lấy sự sống chứ không phải để tiêu diệt nó”. Tuy nhiên, trong khi cả nước Pháp còn đang bàn cãi về “cái chết êm ái” dưới lăng kính đạo đức thì bà Sebire đã ra đi trong sự cô đơn. Cùng lúc với cái chết của bà Sebire, tại Bỉ - một nước không xa Pháp là bao, người ta cũng đưa tin cái chết của nhà văn Bỉ Hugo Claus, 78 tuổi. Bị mắc chứng alzheimer, ông đã sử dụng “quyền an tử” theo luật pháp Bỉ và đã “được” chết tại Bệnh viện Middelheim bên cạnh người thân, hoàn toàn thoát khỏi mọi đau đớn của bệnh tật. Như vậy, cùng là bệnh nhân bị bệnh nan y, cùng là chết - nhưng một người thì bị từ chối và đã ra phải ra đi trong đau đớn và cô đơn, còn một người khác thì được chọn và ra đi trong trong êm ái giữa những người thân. Sự khác biệt ở đây chính là pháp luật. Đó là vấn đề: Quyền được chết. Trên thế giới hiện nay, quyền được chết là một vấn đề còn để mở, bao hàm nhiều quan niệm khác nhau. Ở Việt Nam, vấn đề này còn xa lạ với nhiều người và luật pháp nước ta cũng chưa hề có quy định nào về quyền được chết. Có thể thấy, quyền được chết là một vấn đề lớn và đặc biệt gây nhiều tranh cãi bởi tính phức tạp của nó trên nhiều lĩnh vực: Y học, chính trị, xã hội, tôn giáo. Về mặt pháp lý, nếu quyền được chết được pháp luật công nhận thì những cuộc chiến pháp lý rắc rối kéo dài sẽ có lối thoát dễ dàng. Về mặt xã hội, quyền được chết càng có ý nghĩa hơn nữa. Trong lời thỉnh cầu xin “quyền được chết” bà Sebire (Pháp), có đoạn: “Ngay cả thú vật cũng không để phải chịu đựng như tôi đang chịu đựng”. Việc từ chối cái chết nhẹ nhàng, trong sự tỉnh táo giữa những người thân chính là sự tiếp tay dung dưỡng, duy trì nỗi đau thể xác và có lẽ là cả tinh thần đối với người bệnh. Chính vì cuộc sống là quý giá nhất, nên hơn ai hết, chính những người bị bệnh muốn chết hẳn hiểu rõ vì sao mình lại muốn chết. Khi sự sống của bệnh nhân không còn được đảm bảo nữa: Mắc bệnh vô phương cứu chữa, đang phải chịu đựng đau đớn kéo dài. thì an tử theo yêu cầu là cách thức hợp lý nhất để chấm dứt đau khổ. Người bệnh được ra đi tự nguyện, thanh thản. Gia đình bệnh nhân không phải chịu những tốn kém không đáng có. Xã hội bớt những cực nhọc, lo toan và được bình yên hơn. Đó là một kết thúc đẹp, một “cái chết nhân đạo”. Với những ý nghĩa đặc biệt như trên, bài luận xin tập trung nghiên cứu về quyền được chết với mong muốn hiểu rõ hơn về bản chất của “cái chết êm ả. Bên cạnh đó, cũng đề cập đến một số vấn đề nhằm góp phần dung hòa mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội để quyền được chết dần được hiểu và tôn trọng như một quyền cơ bản của con người. Từ đó, đề xuất một số ý kiến trong quá trình xây dựng Luật An tử ở Việt Nam.

doc21 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 4067 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Luật Dân sự Việt Nam - Vấn đề quyền được chết (an tử), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Cuộc sống đối với mỗi người có lẽ là tài sản quý giá nhất mà không ai muốn rời bỏ. Tuyên ngôn về nhân quyền của nước Mỹ viết: “Người ta sinh ra ai cũng có quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc”. Tuy nhiên, đối diện với sự sống là cái chết. Sống là quyền, vậy đối với một con người, được chết có phải là quyền hay không? Ra đi trong cô đơn chỉ vài ngày sau khi Tòa án Dijon (Pháp) bác bỏ thỉnh nguyện xin được “ra đi xứng đáng” bằng cách được chích thuốc độc chết (mà người ta vẫn hay gọi là “cái chết êm ái” hay “an tử’), hôm 20/3/2008, người ta đã phát hiện thi thể của bà Chanal Sebire, bị một chứng bệnh có tên esthesioneuroblastoma - một loại khối u ác tính tấn công cơ thể từ khoang mũi gây đau đớn, biến dạng hoàn toàn khuôn mặt tại một căn hộ ở miền Đông nước Pháp. Cái chết của bà Sebire đã gây chấn động toàn thế giới bởi sau nhiều tháng đấu tranh để “được chết” nhưng không thành công. Giữa tháng 3, bà Sebire làm đơn gửi Tòa án xin được chết, sau khi đã thỉnh cầu Tổng thống Sarkozy can thiệp để bác sĩ điều trị có thể kê toa độc dược “giúp” bà được chết trong tỉnh táo và trong vòng tay thân quyến, bạn bè. Sau khi tòa Dijon bác bỏ thỉnh nguyện của bà Sebire với lý do luật hiện hành không cho phép, thủ tướng Pháp đã chỉ thị lập một ủy ban xem xét có thể điều chỉnh luật hay không. Thẩm phán Tòa án nói: “Không!”. Còn bà Bộ trưởng bộ tư pháp - Rachida Dati thì phát biểu trên truyền hình rằng: “Chúng ta đã xây dựng luật pháp dựa trên những thỏa thuận chung của cả Châu Âu về quyền sống và được sống của con người. Y tế là cứu lấy sự sống chứ không phải để tiêu diệt nó”. Tuy nhiên, trong khi cả nước Pháp còn đang bàn cãi về “cái chết êm ái” dưới lăng kính đạo đức thì bà Sebire đã ra đi trong sự cô đơn. Cùng lúc với cái chết của bà Sebire, tại Bỉ - một nước không xa Pháp là bao, người ta cũng đưa tin cái chết của nhà văn Bỉ Hugo Claus, 78 tuổi. Bị mắc chứng alzheimer, ông đã sử dụng “quyền an tử” theo luật pháp Bỉ và đã “được” chết tại Bệnh viện Middelheim bên cạnh người thân, hoàn toàn thoát khỏi mọi đau đớn của bệnh tật. Như vậy, cùng là bệnh nhân bị bệnh nan y, cùng là chết - nhưng một người thì bị từ chối và đã ra phải ra đi trong đau đớn và cô đơn, còn một người khác thì được chọn và ra đi trong trong êm ái giữa những người thân. Sự khác biệt ở đây chính là pháp luật. Đó là vấn đề: Quyền được chết. Trên thế giới hiện nay, quyền được chết là một vấn đề còn để mở, bao hàm nhiều quan niệm khác nhau. Ở Việt Nam, vấn đề này còn xa lạ với nhiều người và luật pháp nước ta cũng chưa hề có quy định nào về quyền được chết. Có thể thấy, quyền được chết là một vấn đề lớn và đặc biệt gây nhiều tranh cãi bởi tính phức tạp của nó trên nhiều lĩnh vực: Y học, chính trị, xã hội, tôn giáo... Về mặt pháp lý, nếu quyền được chết được pháp luật công nhận thì những cuộc chiến pháp lý rắc rối kéo dài sẽ có lối thoát dễ dàng. Về mặt xã hội, quyền được chết càng có ý nghĩa hơn nữa. Trong lời thỉnh cầu xin “quyền được chết” bà Sebire (Pháp), có đoạn: “Ngay cả thú vật cũng không để phải chịu đựng như tôi đang chịu đựng”. Việc từ chối cái chết nhẹ nhàng, trong sự tỉnh táo giữa những người thân chính là sự tiếp tay dung dưỡng, duy trì nỗi đau thể xác và có lẽ là cả tinh thần đối với người bệnh. Chính vì cuộc sống là quý giá nhất, nên hơn ai hết, chính những người bị bệnh muốn chết hẳn hiểu rõ vì sao mình lại muốn chết. Khi sự sống của bệnh nhân không còn được đảm bảo nữa: Mắc bệnh vô phương cứu chữa, đang phải chịu đựng đau đớn kéo dài... thì an tử theo yêu cầu là cách thức hợp lý nhất để chấm dứt đau khổ. Người bệnh được ra đi tự nguyện, thanh thản. Gia đình bệnh nhân không phải chịu những tốn kém không đáng có. Xã hội bớt những cực nhọc, lo toan và được bình yên hơn. Đó là một kết thúc đẹp, một “cái chết nhân đạo”. Với những ý nghĩa đặc biệt như trên, bài luận xin tập trung nghiên cứu về quyền được chết với mong muốn hiểu rõ hơn về bản chất của “cái chết êm ả. Bên cạnh đó, cũng đề cập đến một số vấn đề nhằm góp phần dung hòa mối quan hệ giữa pháp luật và xã hội để quyền được chết dần được hiểu và tôn trọng như một quyền cơ bản của con người. Từ đó, đề xuất một số ý kiến trong quá trình xây dựng Luật An tử ở Việt Nam. A. Một số vần đề lý luận cơ bản về quyền được chết Khái niệm “Quyền được chết” Lịch sử của thuật ngữ euthanasia (Tiếng Anh) hay euthanasie (Tiếng Pháp), an tử (Tiếng Trung) hay vẫn thường được gọi là “cái chết êm ả” bắt nguồn từ một từ Hy Lạp là euthanatos. Trong đó, eu có nghĩa là tốt, thanatos là cái chết. Nghĩa của từ này theo tiếng Hy Lạp là chấm dứt cuộc sống của ai đó một cách ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp họ khỏi kéo dài cuộc sống trong những điều kiện không mong muốn. Ra đời vào khoảng thế kỷ XVII, thuật ngữ này được hiểu là ám chỉ một hành động đặc biệt của bác sỹ nhằm tạo ra cái chết của những bệnh nhân được coi là “vô phương cứu chữa”. Từ khi xuất hiện đến nay, “cái chết êm ả” đã có những thay đổi khác nhau gắn liền với những phát triển của nền y khoa và văn minh nhân loại. Và dần dần, khái niệm quyền được chết ra đời, kéo theo nhiều vấn đề liên quan một cách phức tạp. Thực ra, “cái chết êm ả” là kết quả sau cùng của “quyền được chết” của một cá nhân nào đó. Cho nên, nếu nói đến quyền được chết thì khái niệm cái chết êm ả cũng đi liền, gắn bó hữu cơ với nhau. Hiện nay chưa có định nghĩa cụ thể về quyền được chết. Tuy nhiên, nếu dựa vào nội dung của quyền được chết hiện nay được đa số quan điểm đồng tình và theo các đạo luật của các nước đã thông qua “cái chết êm ả” thì có thể rút ra khái niệm quyền được chết như sau: Quyền được chết là một quyền nhân thân của người đã thành niên đang phải chịu sự đau đớn về thể chất hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một bệnh lý không thể cứu chữa, rơi vào tình huống y tế không lối thoát. Các tiêu chí cần thiết để thực hiện quyền được chết Tiêu chí về y học 1.1. Về phạm vi bệnh nhân: Giới y học hầu hết thống nhất có 2 dạng bệnh nhân thuộc loại không thể cứu chữa được: Những trường hợp chết não: Khoản 9 Điều 3 Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác Việt Nam ngày 29/11/2006 quy định chết não là “tình trạng toàn não bộ bị thương tổn nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể sống lại được”. Trường hợp này, bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như hô hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo... nếu rút máy thì coi như sự sống chấm dứt. Hoạt động não là điều kiện cần của sự tồn tại của một cá nhân về mặt pháp lý, và có lẽ chỉ trừ các phôi thai, nó cũng đồng thời là điều kiện đủ. “Một khi sự chết não đã được khẳng định, việc ngưng sử dụng các thiết bị hỗ trợ sự sống không cấu thành một tội dân sự hay hình sự”. (Dority, tại tòa án tối cao hạt San Bernardino, tr. 288, 291 (1983)). 1.1.2. Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả năng hồi phục: Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình. Đôi lúc người bệnh biểu lộ được ý chí của mình và hoàn toàn không sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng không mất ý thức thường xuyên. Nguyên nhân để dẫn đến các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay bị mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa. Tại Hà Lan, nước này còn quy định cái chết êm ả đối với trẻ em nhưng với những quy định này, luật quy định rất chặt chẽ và giới hạn hành vi. Nhìn chung, đa số đều chống lại an tử đối với trẻ em nên chủ yếu vẫn là hai dạng bệnh nhân ở trên. 1.2. Cách thức thực hiện: 1.2.1. Cái chết êm ả chủ động: Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu của bệnh nhân. Ở một bệnh viện trợ giúp an tử của Thụy Sỹ, người bệnh được uống cooktail pha một hỗn hợp độc dược được chuẩn bị sẵn hoặc được tiêm thuốc. Hay như cách thức mà người được mệnh danh là “Bác sỹ tử thần” – Jack Kevorkian đã thực hiện: Dùng “chiếc máy giết người” (Mercitrion) do ông chế tạo để truyền các độc tố vào máu người bệnh. Ông còn dùng biện pháp khác là cho người bệnh đeo mặt nạ và để họ tự ngửi khí ga độc mà chết. 1.2.2. Cái chết êm ả thụ động: Không điều trị. Bác sỹ ngưng mọi biện pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân (rút ống dẫn...). Ngoài ra còn một hành vi là tự tử dưới sự trợ giúp của bác sỹ. Hành vi này về mặt hình thức có điểm khác với 2 hình thức trên như: có thể chỉ là sự tư vấn, người bệnh tự rút ống dẫn... Bác sỹ không trực tiếp thực hiện hành vi mà chỉ là trợ giúp. 2. Tiêu chí về luật pháp: 2.1. Tính hợp pháp của hành vi: Trước hết, có thể thấy, hành vi của quyền được chết có sự tự nguyện của những bệnh nhân đang ở trong những tình huống y tế không lối thoát và mong muốn thoát khỏi những đau đớn về tinh thần và thể xác kéo dài. Bác sỹ thực hiện quyền được chết hoàn toàn dựa trên yêu cầu của bệnh nhân và theo những quy trình nghiêm ngặt do luật định. Bởi vậy, hành vi của quyền được chết là hành vi hợp pháp (trừ khi luật pháp chưa công nhận hành vi của quyền được chết là hợp pháp). Vì thế, cũng cần phân biệt hành vi này với các hành vi khác có liên quan để tránh sai sót trong việc xét xử các vụ án. 2.2. Phân biệt hành vi thực hiện quyền được chết với các hành vi khác: Một trong những lý do để có nhiều tranh cãi về quyền được chết dẫn đến việc hầu hết các quốc gia đều chưa cho phép và thông qua quyền được chết là nhận thức sai về hành vi của bác sỹ trong việc thực hiện cái chết êm ả. Bởi vậy, cần phân biệt rõ hành vi của quyền được chết với một số hành vi sau: 2.2.1. Hành vi tự sát: Hành vi của quyền được chết có thể được thực hiện bởi chính bác sỹ và chính bệnh nhân (dưới sự trợ giúp của bác sỹ). Với hình thức do bác sỹ thực hiện thì rõ ràng nó hoàn toàn khác hành vi tự sát về chủ thể thực hiện. Với hình thức do chính tay bệnh nhân thực hiện có bác sỹ hỗ trợ thì điểm để phân biệt với hành vi tự sát là: Điều kiện sống của bệnh nhân đó không còn được đảm bảo, bệnh nhân đang ở giai đoạn cuối của bệnh vô phương cứu chữa, phải chịu nhiều đau đớn thể xác và tinh thần. Với hành vi tự sát, người đó có thể do sự ức chế quá sức về tinh thần hay sai lệch về ý chí dẫn đến hành vi, còn với hành vi của quyền được chết, đó là sự tự nguyện đến với cái chết của bệnh nhân do không mong muốn kéo dài cuộc sống trong điều kiện không còn được đảm bảo. 2.2.2. Tội giúp người khác tự sát: Điều 101 Bộ Luật Hình Sự Việt Nam năm 1999 có quy định Tội xúi giục hoặc giúp người khác tự sát. Về hành vi xúi giục người khác tự sát rõ ràng khác hành vi trong quyền được chết bởi trong quyền được chết, bác sỹ chỉ làm theo yêu cầu của bệnh nhân chứ không xúi giục bệnh nhân. Về hành vi giúp người khác tự sát, xét về chủ thể thực hiện, đó có thể là bất cứ ai chứ không chỉ bó hẹp là bác sỹ như trong chủ thể của quyền được chết. Cách thức thực hiện hành vi giúp người khác tự sát cũng phong phú hơn nhiều so với quyền được chết. Đặc biệt, ở trường hợp quyền được chết, bệnh nhân đang ở trong điều kiện sống quá hiểm nghèo, không thể chịu đựng đau đớn kéo dài hơn được nữa, mong muốn được bác sỹ giúp chấm dứt cuộc sống một cách nhẹ nhàng và nhanh chóng, khác hẳn điều kiện của người muốn tự sát và giúp tự sát. 2.2.3. Tội giết người: Đây là vấn đề được tranh cãi nhiều nhất tại hầu hết các nước chưa quy định Luật An tử. Điển hình là trường hợp “bác sỹ tử thần” Jack Kevorkian (bang Michigan – Mỹ) bị truy tố về tội giết người do đã "giúp" tới 130 bệnh nhân được “ra đi”. Jack Kevorkian bị kết án tới 25 năm tù. Tuy nhiên, ông được giảm án, trả tự do trước thời hạn sau 8 năm ngồi tù vì lý do sức khỏe và chấp hành tốt nội quy nhà tù. Có thể thấy, nếu trong tội giết người, nạn nhân hoàn toàn bị động về cái chết của mình thì trong hành vi của bác sỹ khi thực hiện quyền được chết thì hoàn toàn có sự chủ động đồng ý của bệnh nhân để “được chết”. Hành vi của tội giết người cũng được thực hiện hoàn toàn khác so với hành vi thực hiện quyền được chết, thậm chí, hành vi giết người nhiều trường hợp là hết sức dã man. Mục đích của hành vi thực hiện quyền được chết là nhằm hướng tới một sự “giải thoát” cho người bệnh khỏi đau đớn kéo dài, đưa tới một cái chết nhẹ nhàng, khác với hành vi giết người nhằm mục đích tước đoạt mạng sống của người khác. Như vậy, hành vi giết người và hành vi thực hiện quyền được chết là hoàn toàn khác nhau. B. Những quan điểm và Pháp luật quy định về quyền được chết trên thế giới I. Những quan điểm xung quanh vấn đề quyền được chết 1. Quan điểm phản đối: Đây là quan điểm đang chiếm ưu thế trong cuộc tranh cãi kéo dài về quyền được chết. Tổng hợp những quan điểm này, có thể thấy nổi bật lên là một số lý do chống lại: - Công nhận cái chết êm ả làm mất đi tính thống nhất luật pháp trong xã hội. Quan điểm này là của Lucke Gormally – một nhà khoa học Hà Lan. Ông cho rằng, công lý trong xã hội không nhận biết con người là đối tượng của nó một cách tùy tiện và phân biệt đối xử. Cách thức duy nhất tránh sự tùy tiện đó là phải cho rằng: Tất cả con người tồn tại, được cho quyền chữa bệnh và là đối tượng của những quyền con người cơ bản. Cái chết êm ả không thể hòa hợp với pháp luật trên cơ sở luôn tin tưởng rằng giá trị của con người đang tồn tại là nguyên tắc cơ bản. Do đó, pháp luật trong xã hội không thể được thống nhất một khi yêu cầu xin được chết, từ chối quyền sống của con người vẫn tiếp diễn. - “Việc tạo ra quyền được chết sẽ xói mòn quyền cơ bản được sống, thông qua việc hình thành danh sách những người coi cuộc sống không đáng giá.” - Paul Tully, Tổng thư ký Hiệp hội Bảo vệ Thai nhi Anh Quốc. - Nếu thông qua cái chết êm ả thì sẽ bị lạm dụng để thực hiện tội ác vô nhân đạo. Tình trạng sẽ lớn hơn ở các nước có hệ thống pháp luật lỏng lẻo, không kiểm soát được tình hình phạm tội. Tuy nhiên, cần thấy rằng, khi Luật đã được xây dựng thì chắc chắn sẽ có dự liệu về những trường hợp xấu có thể xảy ra và như vậy, việc Luật bị lạm dụng sẽ ít nhiều bị loại trừ. - Nếu có Luật An tử, nhiều người bệnh sẽ giảm ý chí, mất niềm tin vào cuộc sống vì cho rằng đã có Luật này thì không cần điều trị vô ích nữa. - Cái chết êm ả làm suy yếu dần những thiên chức của bác sỹ và vì thế có thể phá hỏng những truyền thống của y khoa. Đa số bác sỹ cho rằng, thực hiện cái chết êm ả là giết người bởi chức năng của bác sỹ phải là cứu người. Tuy nhiên, quan điểm này chỉ đúng khi quyền được chết chưa được pháp luật công nhận bởi nếu đã có luật, bác sỹ không thể bị coi là có tội nếu giúp người bệnh thực hiện cái chết êm ả. Bác sỹ khi được bệnh nhân yêu cầu cũng hoàn toàn có thể từ chối thực hiện an tử. Hành vi của bác sỹ là hành vi mang tính chất nhân đạo chứ hoàn toàn không mưu toan lợi ích cá nhân hay phá hỏng truyền thống y khoa bởi xét cho cùng, việc bác sỹ thực hiện một số biện pháp nhằm giúp bệnh nhân chết được dễ dàng hơn cũng chính là để chấm dứt mọi đau đớn mà họ phải chịu đựng, mang lại sự giải thoát thanh thản cho họ. 2. Quan điểm ủng hộ: Một số lý do nên ủng hộ quyền được chết và an tử: - Bản chất của an tử là hướng đến mục đích tốt đẹp, có tính nhân đạo là giúp những bệnh nhân ở trong tình trạng đau đớn kéo dài, bệnh nan y vô phương cứu chữa ở giai đoạn cuối được “ra đi” thanh thản. Chấm dứt nỗi đau đớn cho bệnh nhân cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt gánh nặng vật chất cũng như tinh thần cho gia đình họ, từ đó, tạo sự ổn định cho xã hội. - Luật An tử ra đời sẽ giải tỏa nỗi bức xúc của giới bác sỹ trong hoàn cảnh: Bệnh nhân đang phải chịu đau đớn kéo dài xin được chết mà họ thì không thể “giết người”. Nếu luật cho phép, họ sẽ có định hướng tốt và có thể yên tâm giúp đỡ bệnh nhân được toại nguyện nếu muốn. - Nếu không công nhận quyền được chết, ban hành Luật An tử thì quyền được chết sẽ mãi nằm trong bế tắc, các vụ việc liên quan sẽ không có lối thoát, thậm chí kéo dài và gây ra tranh cãi, chia rẽ trầm trọng bởi vấn đề này không chỉ còn gói gọn trong lĩnh vực y học hay luật pháp mà đã lan sang cả nhiều lĩnh vực khác như chính trị, xã hội, tôn giáo... Tiêu biểu là vụ Cuối năm 2006, ở Ý có một sự kiện làm dấy lên sự tranh cãi và ồn ào trên cả nước liên quan đến một cái chết được thực hiện theo kiểu “an tử” nhưng... trái pháp luật. Bệnh nhân 60 tuổi là nhà thơ Piergiorgio Welby, bị teo cơ làm liệt các ngón tay, đau đớn và hạn chế nhiều trong giao tiếp. Ông đã gửi thư lên Tổng thống Giorgio Napotalino xin được chết. Sau một thời gian dài tranh cãi, Tòa án không thể đưa ra phán quyết mà chuyển lại hồ sơ về Quốc hội với lý do không tìm ra luật nào giải quyết trường hợp này. Ngày 20/12/2006, bác sĩ điều trị của Welby là Mario Riccio khẳng định nguyện vọng xin được chết của Welby không bị một cản trở pháp lý nào. Và ông đã tắt máy trợ thở, “giúp” an tử. Tuy vậy, cái chết của Welby không giải quyết được vấn đề đạo đức nói trên mà thậm chí còn gây chia rẽ ngay trong nước Ý nhiều hơn. Trong khi một số người khẳng định cái chết là sự giải thoát cho Welby, thì những người khác gọi bác sĩ Riccio là kẻ sát nhân. Nhà thờ đã từ chối phục vụ các nghi thức tôn giáo cho lễ tang Welby. II. Quy định về An tử ở một số nước trên thế giới Trên thế giới hiện nay, đã có một số nước công nhận quyền được chết và ban hành Luật An tử. Có nhiều nước không công nhận quyền được chết là quyền nhân thân và tất nhiên không ban hành Luật An tử. Có nước công nhận nó là quyền nhân thân nhưng chưa ban hành Luật vì chưa phù hợp hay chỉ chấp nhận hành vi tự tử dưới sự trợ giúp của bác sỹ. Các quốc gia đã hợp pháp hóa quyền được chết và Luật An tử: Hà Lan là Quốc gia đầu tiên áp dụng đạo luật “cái chết êm ả”. Tháng 11 năm 2000, Hạ Viện Hà Lan đã thông qua dự Luật An tử. Đến ngày 10 tháng 04 năm 2001, với tỷ lệ áp đảo 46/28, Thượng viện Hà Lan đã bỏ phiếu thông qua đạo luật. Điều tra toàn quốc cho thấy gần 90% người dân nước này ủng hộ Luật An tử vì nó đảm bảo quyền cá nhân. Năm 2006, Hà Lan còn cho phép an tử đối với trẻ em, trẻ sơ sinh mắc bệnh nặng không thể cứu chữa. Những bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi cũng có quyền được chết êm ả nếu có sự đồng ý của cha mẹ. Đối với trẻ trên 16 tuổi, ý kiến gia đình là không cần thiết. Quốc gia thứ hai hợp pháp hóa “cái chết êm ả” là Bỉ. Với 86 phiếu thuận, 51 phiếu chống và 10 phiếu trắng, tối 16/05/2002, Thượng viện Bỉ đã chấp thuận đạo luật cho phép bệnh nhân bị bệnh rất nặng có quyền được chết dưới những điều kiện nhất định. Điều tra tiến hành năm 2001 có tới 72% người dân đồng tình với cái chết êm ả. Tại Mỹ, Luật Liên bang cấm thực hiện cái chết êm ả. Bang Oregon là bang đầu tiên từ năm 1994 cho phép bệnh nhân yêu cầu được chết nhưng tòa án bang đã chống lại việc thực thi điều luật này và đến năm 1997 thì Tòa án tối cao của bang đã chấp nhận. Năm 1999, Bang Texas cũng cho phép an tử. Và đến hết năm 2006, ở cả 50 bang của Mỹ đã có đạo luật cho phép bệnh nhân ở trong các điều kiện nhất định được xin chết. 2. Các quốc gia chưa hợp pháp hóa Luật An tử hoặc quy định một phần: Cho đến hiện tại, một số quốc gia ở Châu Âu như Tây Ban Nha vẫn ngầm chấp nhận việc tự tử có sự hỗ trợ nhưng phần lớn không hợp pháp hóa nó. Tại Đan Mạch, pháp luật cho phép bệnh nhân mắc các bệnh nan y tự quyết định dừng việc điều trị; từ ngày 01/10/1992, trong trường hợp bị bệnh không thể cứu chữa khỏi hoặc bị tai nạn nặng, bệnh nhân có thể làm một bản chúc thư y tế mà bác sỹ phải tôn trọng. Tại Thụy Điển, “hỗ trợ tự tử” là một tội không bị xử phạt. Trong một số trường hợp bác sỹ có thể rút máy thở của bệnh nhân. Tại Anh, cái chết êm ả là bất hợp pháp. Tuy nhiên, vào các năm 1993 và 1994, luật pháp đã cho phép bác sỹ rút ngắn cuộc đời của những bệnh nhân sống nhờ các phương pháp nhân tạo. Tại Pháp, cái chết êm ả là bất hợp pháp. Tuy nhiên, theo kết quả một cuộc thăm dò do Viện IFOP thực hiện thì có đến 88% dân Pháp tán thành việc ban hành một đạo luật cho phép bác sỹ giúp những người mắc bệnh nan y “ra đi” một cách nhẹ nhàng nhằm tránh đau đớn kéo dài nếu họ yêu cầu. Tại Châu Mỹ La tinh, Tòa án Colombia đã chấp nhận áp dụng cái chết êm ả vào tháng 05 năm 1997 với những bệnh nhân mắc bệnh nan y ở giai đoạn cuối. Như vậy, đa phần các nước đều xem hành vi của cái chết êm ả là một tội, có nước không xử phạt nó nhưng lại không thông qua hay ngấm ngầm chấp nhận mà
Luận văn liên quan