Đề tài Ly hôn có yếu tố nước ngoài (file word)

Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành trang để con người hòa nhập vào cộng đồng xã hội .Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hôn nhân là cơ sở để hình thành gia đình - tế bào của xã hội .Mỗi chế độ xã hội , gia đình đều thực hiện chức năng cơ bản mang tính chất xã hội của nó .Gia đình ra đời tồn tại và phát triển trước hết là nhờ nhà nước thừa nhận hôn nhân của nam nữ , đồng thời qui định quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ .Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân từ lâu nhà nước ta từ lâu đã quan tâm tới việc bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, dưới nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài không còn xa lạ với chúng ta nữa. Trong những năm gần đây tình trạng li hôn của nước ta xảy ra rất phổ biến, với những nguyên nhân, lý do đa dạng phức tạp cả về chủ thể và nội dung. Vấn đề giải quyết hậu quả của ly hôn cũng rất phức tạp nhiều hạn chế,vướng mắc. Đặc biệt là vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài. Gỉai quyết tốt và triệt để vấn đề này không những đem lại nhiều lợi ích trong công cuộc quản lý mà còn góp phần hoàn thiện những quyền cơ bản và thiết yếu của người dân.Hiểu được tầm quan trọng cũng như những tác động tiêu cực trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài, em xin chọn đề tài: “Tìm hiểu một số nét về thực trạng, nguyên nhân và cách giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hạn chế thực trạng cũng như thủ tục, cách giải quyết vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài.

doc15 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 5817 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Ly hôn có yếu tố nước ngoài (file word), để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
MỤC LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 15 ĐẶT VẤN ĐỀ Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách của mỗi cá nhân, chuẩn bị hành trang để con người hòa nhập vào cộng đồng xã hội .Gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Hôn nhân là cơ sở để hình thành gia đình - tế bào của xã hội .Mỗi chế độ xã hội , gia đình đều thực hiện chức năng cơ bản mang tính chất xã hội của nó .Gia đình ra đời tồn tại và phát triển trước hết là nhờ nhà nước thừa nhận hôn nhân của nam nữ , đồng thời qui định quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa họ .Để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân từ lâu nhà nước ta từ lâu đã quan tâm tới việc bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình, dưới nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nước ta hiện nay đang trong giai đoạn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong quá trình hội nhập, các quan hệ hôn nhân có yếu tố nước ngoài không còn xa lạ với chúng ta nữa. Trong những năm gần đây tình trạng li hôn của nước ta xảy ra rất phổ biến, với những nguyên nhân, lý do đa dạng phức tạp cả về chủ thể và nội dung. Vấn đề giải quyết hậu quả của ly hôn cũng rất phức tạp nhiều hạn chế,vướng mắc. Đặc biệt là vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài. Gỉai quyết tốt và triệt để vấn đề này không những đem lại nhiều lợi ích trong công cuộc quản lý mà còn góp phần hoàn thiện những quyền cơ bản và thiết yếu của người dân.Hiểu được tầm quan trọng cũng như những tác động tiêu cực trong quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài, em xin chọn đề tài: “Tìm hiểu một số nét về thực trạng, nguyên nhân và cách giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài” để tìm hiểu rõ hơn về vấn đề, trên cơ sở đó đưa ra một số kiến nghị góp phần hạn chế thực trạng cũng như thủ tục, cách giải quyết vấn đề ly hôn có yếu tố nước ngoài. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Khái niệm: 1. Hôn nhân có yếu tố nước ngoài Trong điều 8 (Giải thích từ ngữ) của Luật Hôn nhân và gia đình (năm 2000) có định nghĩa quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài, như sau: “Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình: a) giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài; b) giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; c) giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài”. 2.Ly hôn: Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng trước pháp luật. Dưới mỗi chế độ xã hội,việc quy định về ly hôn có khác nhau. Điều 8 Luật HNGĐ 2000 có giải thích: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn nhân do Toà án công nhận hoặc quyết định theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng”. Xét về mặt xã hội, ly hôn chính là giải pháp giải quyết sự khủng hoảng trong mối quan hệ vợ chồng. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng là mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ còn là hình thức, còn thực chất mối quan hệ vợ chồng đã hoàn toàn tan vỡ, cuộc sống gia đình vợ chồng đã mất hết ý nghĩa. Trong quan hệ tự do hôn nhân, pháp luật không bắt buộc nam nữ kết hôn khi họ không yêu nhau thì cũng không bắt buộc vợ chồng phải chung sống với nhau khi tình yêu giữa họ không còn nữa. Việc ly hôn nhằm giải phóng cho vợ, chồng khỏi cuộc sống chung đầy đau khổ hiện tại, giúp vợ chồng thoát khỏi những mâu thuẫn sâu sắc mà không thể giải quyết được. Ly hôn có yếu tố nước ngoài: Ly hôn có yếu tố nước ngoài là quan hệ ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam; giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ ly hôn ở nước ngoài và bản án, quyết định ly hôn có Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài đã được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam.             Theo quy định tại Điều 104 Luật Hôn nhân và Gia đình quy định về ly hôn có yếu tố nước ngoài như sau:             “1. Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật này.             2. Trong trường hợp bên là công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng; nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam.             3. Việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó.             4. Bản án, quyết định ly hôn của Toà án hoặc cơ quan khác có thẩm quyền của nước ngoài được công nhận tại Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam”. II.THỰC TRẠNG LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI             Khi tiến hành giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam xuất hiện rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, đặc biệt là trong hoạt động ủy thác tư pháp trong một số công việc như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định…             Đối với các vụ án hôn nhân gia đình, bị đơn thường là công dân Việt Nam định cư ở nước ngoài, công dân nước ngoài, hoặc người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đang định cư ở nước ngoài. Việc ủy thác tư pháp để ghi lời khai của những người đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp thì hầu như không có kết quả. Ví dụ bị đơn là công dân Mỹ, đang định cư tại Mỹ, có địa chỉ rõ ràng, văn bản ủy thác ghi lời khai của bị đơn Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội ghi là “Tòa án có thẩm quyền của Hoa Kỳ” gửi đến Bộ Tư pháp kèm theo bản dịch bằng tiếng Anh (do đương sự nộp chi phí dịch thuật) để Bộ Tư pháp gửi Bộ Ngoại giao (Cục Lãnh sự) thực hiện ủy thác đến Hoa Kỳ thì rõ ràng rất khó có kết quả. Tòa án có thẩm quyền ở đây là Tòa án nào, phía Mỹ thực hiện việc ủy thác của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội thì họ có lợi gì trong khi không có phí ủy thác. Gặp những vụ án như thế này thì việc thời hạn để xét xử không đảm bảo, việc kéo dài và bế tắc khi không có kết quả ủy thác sẽ làm thiệt thòi quyền lợi của người đang ở trong nước; nếu họ lấy vợ, chồng khác thì cuộc sống hôn nhân trái pháp luật các quyền lợi về vợ chồng không được đảm bảo             Mặc khác, còn chưa kể đến các đương sự cố tình kéo dài thời gian giải quyết vụ án thậm trí cố tình làm cho vụ án không thể giải quyết được. Ví dụ: bị đơn cố tình vắng mặt tại phiên tòa thì phải hoãn phiên tòa theo Điều 200 Bộ luật Dân sự năm 2005 hoặc bị đơn cố tình để mình không nhận được quyết định mở phiên tòa gây rất nhiều khó khăn cho quá trình giải quyết vụ việc dân sự có yếu tố nước ngoài.             Không những khó khăn đến từ cơ quan được ủy thác từ nước ngoài và các đương sự, mà khó khăn còn đến từ chính những quy định của pháp luật hiện hành Trong nhiều năm qua, số các vụ án ly hôn là một trong số những vụ án có số lượng cao nhất, năm sau luôn cao hơn năm trước, trong đó số các vụ án ly hôn có yếu tố nước cũng khá nhiều. Số vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được xét xử chỉ chiếm tỷ lệ nhỏ so với số vụ án được thụ lý. Tình hình thụ lý của các năm sau có chiều hướng tăng hơn so với năm trước và tỷ lệ giải quyết các vụ án này những năm gần đây có chiều hướng tăng thường là trên 90%, số lượng các vụ án bị hủy giảm lượng án tồn, án quá hạn rất ít. Trong năm qua tại thành phố Hồ Chí Minh, đã xuất hiện trường hợp nguyên đơn là người nước ngoài hoặc Việt kiều về nước xin ly hôn với công dân Việt Nam (21 vụ). Đây là những trường hợp hoàn toàn mới và việc giải quyết án sẽ vất vả, kéo dài hơn thông thường vì phải công chứng, chứng thực đơn, tài liệu, phiên dịch tại tòa…Nội dung giải quyết liên quan đến vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài cũng khá đa dạng, có yêu cầu về giải quyết con chung, giải quyết yêu cầu về phân chia tài sản chung, riêng...Đa số các việc ly hôn do công dân Việt Nam trong nước đứng nguyên đơn và việc xét xử thường là vắng mặt bên phía nước ngoài. Thực tế thụ lý và giải quyết các vụ ly hôn có yếu tố nước ngoài tại các TAND trong nước cho thấy về tố tụng vẫn còn điểm vướng mắc, chủ yếu là về thủ tục. BLTTDS 2004 ra đời đã phần nào cụ thể, đơn giản hoá về thủ tục tố tụng nhưng vẫn gây ra những cản trở không nhỏ cho việc giải quyết. Từ thực tế giải quyết của Toà án chúng ta thấy còn có những điểm vướng mắc như : Việc xác định thế nào là "người Việt Nam định cư ở nước ngoài" rất khó. Vấn đề này đã được ngành Tòa án đưa ra thảo luận lấy ý kiến, hiện có nhiều quan điểm khác nhau và vẫn chưa thống nhất đường lối giải quyết nên cách hiểu và áp dụng ở các tòa chưa thống nhất. Điều này cũng ảnh hưởng đến việc xác định thẩm quyền giải quyết của Tòa án cấp tỉnh hay cấp huyện. Nhiều khó khăn trong thực hiện ủy thác tư pháp: Khi tiến hành giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam xuất hiện rất nhiều khó khăn trong thực tiễn, đặc biệt là trong hoạt động ủy thác tư pháp trong một số công việc như ghi lời khai, tống đạt giấy tờ, thu thập chứng cứ, xác minh địa chỉ, trưng cầu giám định…Việc ủy thác tư pháp để ghi lời khai của những người đang ở những nước mà Việt Nam chưa ký hiệp định tương trợ tư pháp thì hầu như không có kết quả. Những việc mà Tòa án Việt Nam ủy thác tư pháp cho Tòa án nước ngoài kết quả trả lời thường rất chậm, thậm chí nhiều trường hợp không nhận được sự trả lời. Chính vì vậy việc lấy lời khai, tống đạt các văn bản của Tòa án hoặc xác định tài sản ở nước ngoài là không thực hiện được làm cho vụ án kéo dài, vi phạm thời hạn xét xử. Nhiều vụ không thể thụ lý giải quyết do công dân Việt Nam xin ly hôn chỉ cung cấp cho Tòa án bản đăng ký kết hôn có địa chỉ của bên kia, ngoài ra không có một thông tin nào khác. Điều này dẫn đến thực tế nhiều cuộc hôn nhân chỉ mang tính hình thức vẫn bị kéo dài ảnh hưởng đến cuộc sống vật chất cũng như tinh thần của nguyên đơn. Bên cạnh đó thủ tục hợp thức hóa lãnh sự đối với các việc mà Tòa án Việt Nam yêu cầu thì nhiều Tòa án nước ngoài chưa đáp ứng kịp thời cũng gây khó khăn cho việc xét xử. Trình độ thẩm phán cũng còn nhiều bất cập. Do không được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức thường xuyên nên nhiều thẩm phán không nắm vững, không thường xuyên cập nhật được chuyên môn của tư pháp quốc tế. Mặt khác, trình độ ngoại ngữ của đội ngũ thẩm phán còn hạn chế, rất khó khăn trong việc tiếp cận với pháp luật nước ngoài cũng như khi tiến hành tố tụng trong những vụ án có công dân nước ngoài, pháp nhân nước ngoài. II. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN THỰC TRẠNG TRÊN Nguyên nhân ly hôn là những hiện tượng, sự việc tác động đến hôn nhân là cho hôn nhân tan vỡ. Nguyên nhân dẫn đến tình hình vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài hiện nay rất đa dạng và phong phú. Ly hôn có yếu tố nước ngoài mang đầy đủ những nguyên nhân của các vụ án ly hôn bình thường. Trong cuộc sống hiện nay, thế hệ trẻ chưa có được những nhận thức đầy đủ và đúng đắn về ý nghĩa và tầm quan trọng của hôn nhân, từ đó họ không có ý thức chăm lo đến sự tồn taị, ổn định của các quan hệ này, dẫn đến vợ chồng đối xử với nhau tùy tiện không coi trọng tình cảm, nhân phẩm, uy tín danh dự của nhau. Nguyên nhân ly hôn cũng có thể là do thiếu trách nhiệm của vợ hay chồng, hoặc là do sự xuống cấp về đạo đức, bạo hành gia đình. Một bên ngoại tình, một bên bỏ nhà đi quá 2 năm không có duyên cớ chính đáng. Một bên mặc bệnh điên hoặc mọt bệnh khó chữa khỏi; Vợ chồng tính tình không phù hợp hoặc đối xử với nhau đến nỗi không thể chung sống được.... Bên cạnh đó nguyên nhân dẫn đến các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài còn có thêm nguyên nhân riêng: do mục đích hôn nhân không thành có thể họ lấy nhau vì tiền, vì tâm lý sính ngoại...; do mỗi nước có một phong tục tập quán và ngôn ngữ khác nhau, nên quan niệm sống và quan niệm về hôn nhân không giống nhau cũng dẫn đến nhiều mâu thuẫn trong những gia đình người Việt Nam lấy người nước ngoài, dẫn đến ly hôn. Đối với những người thường xuyên làm việc và cư trú ở nước ngoài, thì việc di cư của con người là một trong những nguyên nhân chính làm cho số lượng các quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài nói riêng ngày càng tăng nhanh. Việc ly hôn có yếu tố nước ngoài này là một vấn đề được đặt ra đối với chính phủ của nhiều nước trên thế giới, đòi hỏi chỉ có thể thực hiện bằng pháp luật. Vấn đề cần phải hoàn thiện pháp luật, trong đó có pháp luật điều chỉnh quan hệ ly hôn có yếu tố nước ngoài là một điều cần thiết. Rất nhiều vụ án trở nên phức tạp do chính sự bất cẩn của chính nguyên đơn khi họ không tìm hiểu kỹ "đối tác" của mình (về nhân thân, địa chỉ...). Điều này đã khiến cho các cơ quan Tòa án khó có thể giải quyết các vụ việc liên quan đến hôn nhân và phải giải quyết theo thủ tục ly hôn theo quy định. Ngoài ra, việc kí kết các HĐTTTP, ĐƯQT của nước ta tuy đã được chú trọng nhưng vẫn còn ở mức hạn chế...  III. CÁC TRƯỜNG HỢP LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI 1. Trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với công dân Việt Nam đã ra nước ngoài (bị đơn) 2. Người Việt Nam ở nước ngoài kết hôn với người nước ngoài và việc kết hôn đó đã được công nhận tại Việt Nam. Nay người Việt Nam về nước và người nước ngoài xin ly hôn 3. Trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI QUYẾT VIỆC LY HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI Về thủ tục ly hôn thì nhiều nước quy định chỉ cần đăng kí tại cơ quan hộ tịch khi vợ chồng thuận tình ly hôn; chỉ khi một bên yêu cầu hoặc có tranh chấp về việc ly hôn thì mới thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Ở nước ta, chỉ có Tòa án mới được giao thẩm quyền giải quyết việc ly hôn. -Vấn đề thẩm quyền của Toà án Việt Nam trong việc giải quyết vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, được quy định tại điểm g khoản 2 Điều 410 BLTTDS: Toà án Việt Nam giải quyết các vụ việc ly hôn mà nguyên đơn hoặc bị đơn là công dân Việt Nam. Hay trong khoản 3 Điều 102 LHNGĐ năm 2000 thẩm quyền giải quyết các vụ việc ly hôn có yếu tố nước ngoài quy định: Toà án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương giải quyết việc ly hôn có yếu tố nước ngoài, xem xét việc công nhận hoặc không công nhận bản án, quyết định về hôn nhân và gia đình của Toà án hoặc cơ quan có thẩm quyền khác của nước ngoài; Toà án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh nơi cư trú của công dân Việt Nam giải quyết việc ly hôn giữa công dân Việt Nam cư trú ở khu vực biên giới với công dân của nước láng giềng cùng cư trú ở khu vực biên giới với Việt Nam. Trong nghị quyết số 01/2003/NQ-HĐTP ngày 16/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng pháp luật trong việc giải quyết một số loại tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, trong đó có quy định riêng về ly hôn có yếu tố nước ngoài ( mục 2 Nghị quyết), cụ thể như sau: - Đối với trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với công dân Việt Nam đã đi ra nước ngoài, cần phân biệt: + Trường hợp ủy thác tư pháp không có kết quả vì lý do bị đơn giống lưu vong, không có cơ quan nào quản lý...không thể liên lạc được với họ thì Tòa án yêu cầu thân nhân của bị đơn đó gửi cho họ lời khai của nguyên đơn. Tòa án căn cứ vào những lời khai và tài liệu do thân nhân của bị đơn gửi mà xét xử theo thủ tục chung. + Trường hợp bên đơn sự là bị đơn đang ở nước ngoài không có địa chỉ, không có tin tức hoặc giấu địa chỉ nên nguyên đơn trong nước không thể biết được địa chỉ và tin tức: * Nếu qua thân nhân của họ mà không có địa chỉ, không có tin tức gì về họ thì Toà án ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết vụ án. Và nguyên đơn có quyền khởi kiện yêu cầu Toà án cấp huyện nơi họ thường trú tuyên bố bị đơn mất tích hoặc đã chết theo quy định của pháp luật về tuyên bố mất tích, tuyên bố chết. (đoạn 1, điểm b, mục 2.1); * Nếu thông qua thân nhân của họ mà biết rằng họ vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước, nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án, cũng như không thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Toà án, thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. Nếu Toà án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Toà án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Toà án thông báo cho bị đơn biết, thì Toà án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung(đoạn 2, điểm b, mục 2.1) - Đối với trường hợp các bên đều là công dân Việt Nam kết hôn ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài, nay về Việt Nam xin ly hôn và người nước ngoài xin ly hôn ( điểm a, mục 2.3): + Người nước ngoài đang ở nước ngoài xin ly hôn, người Việt Nam còn quốc tịch Việt Nam và đang cư trú tại Việt Nam: Người nước ngoài là công dân của nước đã ký kết HĐTTTP với Việt Nam mà trong HĐTTTP có quy định khác với Luật hôn nhân và gia đình 2000 (LHNGĐ 2000) thì áp dụng quy định của HĐTTTP; nếu không có quy định khác thì áp dụng Luật hôn nhân và gia đình để giải quyết. Người nước ngoài là công dân của nước chưa ký kết HĐTTTP với Việt Nam thì áp dụng quy định LHNGĐ 2000 để giải quyết. Nếu tài sản là bất động sản ở nước ngoài thì tuân theo pháp luật của nước nơi có bất động sản đó. + Người Việt Nam không còn quốc tịch Việt Nam nhưng đang cư trú ở Việt Nam thì Tòa án Việt Nam không thụ lý giải quyết vì việc này không thuộc thẩm quyền của Tòa án. - Đối với trường hợp công dân Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người nước ngoài đang cư trú ở nước ngoài (mục 2.4): Người nước ngoài đã về nước mà không còn liên hệ với công dân Việt Nam, nay công dân Việt Nam xin ly hôn, thì Toà án thụ lý giải quyết. Theo quy định Điều 18 LHNGĐ 2000 nếu người nước ngoài bỏ về nước không thực hiện nghĩa vụ vợ chồng theo quy định, thời gian không có tin tức cho vợ hoặc chồng là công dân Việt Nam từ một năm trở lên mà đương sự, thân nhân của họ và các cơ quan có thẩm quyền sau khi đã điều tra xác minh địa chỉ mà không biết tin tức, địa chỉ của họ, thì được coi là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ và xử cho ly hôn. Thẩm quyền theo lãnh thổ để giải quyết vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài được xác định theo Điều 35 BLTTDS là Tòa án nhân dân nơi cư trú hoặc làm việc của bị đơn, có thể thỏa thuận Tòa án nơi cu trú hoặc làm việc của một trong hai bên nếu các bên thuận tình ly hôn. Thẩm quyền theo sự lựa chọn của nguyên đơn, người yêu cầu được quy định tại Điều 36 BLTTDS : có thể là Tòa án nơi bị đơn hoặc đương sự cư trú, làm việc; Tòa án nơi một trong các bên đăng ký kết hôn trái pháp luật giải quyết; Tòa án nơi người con cư trú giải quyết...trong từng trường hợp cụ thể. Trong Điều 104 LHNGĐ 2000 đã quy định cụ thể việc lựa chọn áp dụng luật theo từng trường hợp: Việc ly hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam được giải quyết theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình 2000 ( ĐIều 85 đến Điều 99) Công dân Việt Nam không thường trú tại Việt Nam vào thời điểm yêu cầu ly hôn thì việc ly hôn được giải quyết theo pháp luật của nước nơi thường trú chung của vợ chồng, nếu họ không có nơi thường trú chung thì theo pháp luật Việt Nam. Đối với việc giải quyết tài sản là bất động sản ở nước ngoài khi ly hôn sẽ tuân theo pháp luật nơi có bất động sản đó( Điểm c khoản 14 ĐIều 8 Luật hôn nhân và gia đình 2000) Ngoài ra, thẩm quyền giải quyết các vụ án ly hôn có yếu tố nước ngoài còn được giải quyết theo quy định của các HĐTTTP mà Việt Nam đã ký kết với các nước trong từng trường hợp cụ thể như sau: Trường hợp các bên cùng quốc tịch thông thường sẽ áp dụng theo luật quốc tịch của vợ chồng ( khoản 1 Điều 27 HĐTTTP Việt Nam- CHDVND Lào, khoản 1 Điều 22 HĐTTTP Việt Nam-Bungari, khoản 1 Điều 26 HĐTTTP Việt Nam-Ba Lan, khoản 1 Điều 33 HĐTTTP Việt Nam-Hungari). Theo quy định này Luật quốc tịch đã được áp dụng, theo đó pháp luật của nước mà các mang quốc tịch sẽ được áp dụng để giải quyết vấn đề ly hôn. Trong trường hợp vợ chồng khác quốc tịch mà chồng cư trú trên lãnh thổ nước ký kết này và vợ cư trú trên lãnh thổ ký kết của nước kia thì pháp luật để giari quyết ly hôn là pháp luật của nước mà có tòa án thụ lý đơn ly hôn (khoản 2 Điều 33 HĐTTTP Việt
Luận văn liên quan