Đề tài Lý luận về hàng hoá sức lao động của CMác với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay

Trong những năm gần đây, Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Yếu tố con người được đặt ở vị trí trung tâm nên vì vậy việc phát triển thị trường sức lao động sao cho hợp lý là một vấn đề hết sức cần thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Sức lao động được coi là một hàng hoá đặc biệt, tiền lương được coi là mức giá của sức lao động và được quyết định bởi sự thoả thuận giữa hai bên. Cả người lao động và người sử dụng lao động đều có những quyền cơ bản đảm bảo cho việc tham gia thị trường lao động.Trước đổi mới, chúng ta hầu như không thừa nhận thị trường sức lao động. Trong điều kiện hiện nay, việc thừa nhận nó là tất yếu. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề sức lao động, em xin chọn đề tài “Lý luận về hàng hoá sức lao động của C.Mác với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài cho bài tập lớn học kỳ.

doc11 trang | Chia sẻ: ngtr9097 | Lượt xem: 2748 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Lý luận về hàng hoá sức lao động của CMác với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mục lục LỜI MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, Việt Nam hội nhập với nền kinh tế thế giới, kinh tế tri thức trở thành xu hướng phát triển chung của thế giới và Việt Nam cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Yếu tố con người được đặt ở vị trí trung tâm nên vì vậy việc phát triển thị trường sức lao động sao cho hợp lý là một vấn đề hết sức cần thiết đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Sức lao động được coi là một hàng hoá đặc biệt, tiền lương được coi là mức giá của sức lao động và được quyết định bởi sự thoả thuận giữa hai bên. Cả người lao động và người sử dụng lao động đều có những quyền cơ bản đảm bảo cho việc tham gia thị trường lao động.Trước đổi mới, chúng ta hầu như không thừa nhận thị trường sức lao động. Trong điều kiện hiện nay, việc thừa nhận nó là tất yếu. Nhận thấy tầm quan trọng của vấn đề sức lao động, em xin chọn đề tài “Lý luận về hàng hoá sức lao động của C.Mác với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay” để làm đề tài cho bài tập lớn học kỳ. I-Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác. 1. Sức lao động và điều kiện để sức lao động trở thành hàng hóa. Theo C.Mác “Sức lao động, đó là toàn bộ các thể lực và trí lực ở trong thân thể một con , trong nhân cách sinh động của con người, thể lực và trí lực mà con người phải làm cho hoạt động để sản xuất ra những vật có ích” Trong bất cứ xã hội nào, sức lao động cũng đều là điều kiện cơ bản của sản xuất. Nhưng không phải trong bất kỳ điều kiện nào, sức lao động cũng là hàng hóa. Sức lao động chỉ có thể trở thành hàng hóa trong những điều kiện lịch sử nhất định sau đây: Thứ nhất, người có sức lao động phải được tự do về thân thể, làm chủ được sức lao động của mình và có quyền bán sức lao động của mình như một hàng hóa. Thứ hai, người có sức lao động không còn có tư liệu sản xuất cần thiết để tự mình thực hiện lao động và cũng không có của cải gì khác buộc phải bán sức lao động cho người khác sử dụng. Việc sức lao động trở thành hàng hóa đánh dấu bước ngoặt cách mạng trong phương thức kết hợp người lao động với tư liệu sản xuất, là một bước tiến lịch sử so với chế độ nô lệ và phong kiến. Chính sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động đã làm cho sản xuất hàng hóa trở nên có tính chất phổ biến và đã báo hiệu sự ra đời của một thời đại mới tong lịch sử xã hội-thời đại của chủ nghĩa tư bản. 2. Hai thuộc tính của hàng hóa sức lao động. Giống như mọi hàng hóa khác, hàng hóa sức lao động cũng có hai thuộc tính: giá trị và giá trị sử dụng. Giá trị của hàng hóa sức lao động, cũng do thời gian lao động xã hội cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động quyết định. Giá trị hàng hóa sức lao động được hợp thành bởi các bộ phận: Một là, giá trị những tư liệu sinh hoạt về vật chất và tinh thần cần thiết để tái sản xuất sức lao động, duy trì đời sống của bản thân người công nhân. Hai là, phí tổn đào tạo người công nhân. Ba là, giá trị những tư liệu sinh hoạt vật chất và tinh thần cần thiết cho con cái người công nhân. Là hàng hóa đặc biệt, giá trị hàng hoá sức lao động khác với hàng hóa thông thường ở chỗ: Giá trị hàng hóa sức lao động được đo gián tiếp bằng giá trị của những tư liệu sinh hoạt cần thiết để tái sản xuất ra sức lao động. Giá trị của hàng hóa sức lao động ngoài các yếu tố vật chất còn bao hàm cả yếu tố tinh thần và lịch sử, do đó nó không chỉ phụ thuộc vào các điều kiện tự nhiên mà còn phụ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử từng nước, từng thời kỳ, phụ thuộc vào trình độ văn minh đã đạt được, vào điều kiện lịch sử hình thành giai cấp công nhân. Giá trị hàng hóa sức lao động của các nước khác nhau sẽ có sự khác nhau. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động. Hàng hóa sức lao động không chỉ có giá trị mà còn có giá trị sử dụng như bất kỳ một hàng hóa thông thường nào. Giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động chỉ thể hiện trong quá trình tiêu dùng sức lao động, tức là quá trình lao động của người công nhân. Tuy nhiên giá trị sử dụng của hàng hóa sức lao động đặc biệt ở chỗ: Quá trình tiêu dùng hàng hóa sức lao động là quá trình sản xuất ra một loạt hàng hóa nào đó, đông thời tạo ra một giá trị mới lớn hơn giá trị của bản thân nó, phần giá trị dôi ra so với giá trị sức lao động là giá trị thặng dư mà nhà tư bản sẽ chiếm đoạt. Đây chính là chìa khóa để giải thích mâu thuẫn của công thức chung của tư bản. Chính đặc tính này đã làm cho sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động trở thành điều kiện để tiền tệ chuyển hóa thành tư bản. II-Lý luận về hàng hóa sức lao động của C.Mác với thị trường lao động ở Việt Nam hiện nay. 1. Định nghĩa thị trường lao động. Thị trường sức lao động là thị trường mà trong đó các dịch vụ lao động được mua bán thông qua một quá trình để xác định số lượng lao động được sử dụng cũng như mức tiền công/tiền lương. Tại đây người lao động (bên cung) và người sử dụng lao động (bên cầu) là hai chủ thể của thị trường lao động, có quan hệ ràng buộc với nhau, dựa vào nhau để tồn tại. Sự tác động lẫn nhau của hai loại chủ thể này quyết định tính cạnh tranh của thị trường. Bên cạnh đó cũng như các loại khác thị trường lao động tuân thủ theo những quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, quy luật giá trị và quy luật cạnh tranh. 2. Thực trạng thị trường lao động Việt Nam hiện nay Việc phát triển thị trường lao động nước ta trong thời gian qua đã thu được những thành quả nhất định, làm cơ sở cho việc hoàn thiện quan hệ lao động, phát triển kinh tế - xã hội. Nhưng cũng đặt ra nhiều vấn đề, trước hết cần phải khẳng định rằng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN mà nước ta đang xây dựng là giai đoạn phát triển cao của nền sản xuất hàng hoá nhiều thành phần. Chính sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, chính yêu cầu phát triển đồng bộ các loại thị trường khác nhau đã góp phần phân bổ hợp lý, nhanh chóng, có hiệu quả các nguồn lực trong nền kinh tế đã tạo điều kiện cho hàng hoá sức lao động và thị trường lao động. Về mặt phát triển kinh tế, Việt Nam đang chuyển từ sản xuất hàng hoá giản đơn lên sản xuất hàng hoá XHCN, trong đó có vận dụng những thành tựu của sản xuất hàng hoá TBCN. Yếu tố cơ bản để phân biệt sản xuất hàng hoá TBCN với sản xuất hàng hoá theo định hướng XHCN là khả năng phát huy vai trò tạo ra giá trị mới lớn hơn giá trị bản thân của hàng hoá sức lao động. Đây là vấn đề then chốt trong việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác để có thể xây dựng một quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tốt đẹp hơn quan hệ lao động trong nền kinh tế thị trường TBCN. Thực trạng cung lao động Cung lao động là tổng nguồn sức lao động do người lao động tự nguyện đem tham dự vào quá trình tái sản xuất xã hội. Cung lao động được xem xét dưới hai góc độ là số lượng và chất lượng lao động. Số lượng lao động Theo số liệu thống kê của Tổng cục thống kê thì đến hết năm 2010 dân số Việt Nam là 86.927.700 người. Trong đó số người trong độ tuổi lao động là 50.392.900 người, mức tăng trung bình hàng năm là 2.3% So với tốc độ tăng dân số (1,7%/năm) thì tốc độ tăng dân số trong độ tuổi lao động cao hơn nhiều. Kết quả là mỗi năm nước ta có khoảng 1,4 triệu người bước vào độ tuổi lao động. Và nếu so với mức tăng việc làm trong cùng thời kỳ thì ở nước ta (khoảng từ 1,4% đến 2%) thì có thể thấy rõ rằng hiện có một bộ phận người lao động trong độ tuổi không thể tìm kiếm được việc làm. Về cơ cấu lực lượng lao động theo giới tính: Trong khi tỷ lệ nam giới trong lực lượng lao động ở nước ta hầu như tương đương với các nước trong khu vực thì tỉ lệ nữ giới lại lớn hơn hẳn. Ví dụ: nếu ở Việt Nam năm 2009-2010 tỷ lệ nữ tham gia vào lực lượng lao động xã hội chiếm 80,5% thì theo tố liệu của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) ở Philippines, Indonesia, Hàn Quốc tỷ lệ này chỉ trên dưới 50%. Đặc biệt ở các vùng nông thôn, tỷ lệ tham gia của lao động nữ vào lực lượng lao động ở mọi độ tuổi đều gần như ngang bằng với nam giới. Chất lượng lao động Thứ nhất, về mặt sức khỏe, thể lực của người kém xa so với các nước trong khu vực về cân nặng, chiều cao, sức bền…Theo số liệu điều tra thì số người không đủ tiêu chuẩn về cân nặng ở Việt Nam chiếm tới 48,7%, số lượng người lớn suy dinh dưỡng là 28%, phụ nữ thiếu máu là 40% (số liệu điều tra năm 2009). Các số liệu điều tra năm 2008 đối với người lao động trong một số doanh nghiệp vừa và nhỏ cho thấy số người mắc bệnh nghề nghiệp chiếm 54%. Thứ hai,tỷ lệ lao động lao động đã qua đào tạo của chúng ta hiện nay còn rất thấp. Tỷ lệ lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo(%) (Nguồn:Tổng cục thống kê) Năm 2005 2007 2008 2009 2010 Tỷ lệ 12.5 13.6 14.3 14.8 14.6 Qua bảng trên ta có thể thấy được số lượng lao động đã qua đào tạo ở nước ta là rất thấp. Mặc dù cả nước có khoảng 1.300 trường cao đẳng, trung cấp nghề, trung tâm dạy nghề nhưng chất lượng đào tạo chưa đạt chuẩn quốc tế, chương trình giảng dạy không phù hợp, chưa đáp ứng được yêu cầu cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và cho xuất khẩu lao động.Hơn nữa nó một sự chênh lệch rất lớn giữa tỷ lệ lao động đã qua đào tạo giữa thành thị và nông thôn. Trong khi ở thành thị là 30.6% thì ở nông thôn chỉ chiếm 8.5%. Về ý thức kỷ luật lao động của người lao động còn thấp do nước ta là một nước nông nghiệp nên phần lớn người lao động còn mang nặng tác phong sản xuất của một nền nhà nước tiểu nông. Người lao động chưa được trang bị các kiến thức và kỹ năng làm việc theo nhóm, không có khả nặng hợp tác và gánh chịu rủi ro, ngại phát huy sáng kiến và chia sẻ kinh nghiệm làm việc. Thực trạng cầu lao động Cầu lao động là nhu cầu về sức lao động của một quốc gia, một địa phương, một ngành hay một doanh nghiệp trong một khoảng thời gian xác định. Nhu cầu này thể hiện qua khả năng thuê mướn lao động trên thị trường lao động Tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ thiếu việc làm của lực lượng lao động trong độ tuổi(%) ( Nguồn: Tổng cục thống kê) Năm 2008 2009 2010 Tỷ lệ lao động thất nghiệp 2.38 2.90 2.88 Tỷ lệ lao động thiếu việc làm 5.10 5.61 3.57 Trong thời gian vừa qua do khủng hoảng kinh tế, cầu về lao động đã giảm, tỷ lệ thất nghiệp đang dần tăng lên, điều này tạo nên một gánh nặng cho xã hội rất lớn. Giá cả sức lao động Trên thị trường lao động giá cả hàng hóa sức lao động được thể hiện dưới dạng tiền lương/tiền công. Cũng giống như các loại hàng hóa khác, giá cả hàng hóa sức lao động cũng bị quy định bởi giá trị của nó và của các quy luật kinh tế như quy luật cung-cầu. Ở nước ta, cải cách trong chính sách tiền lương năm 1993 đã đem lại những thay đổi bước đầu trong hệ thống trả công lao động, tạo nên sự hài hòa giữa người lao động với người sử dụng lao động. Chính sách cải cách tiền lương quy định về mức lương tối thiểu; quan hệ tiền lương giữa các khu vực; các chế độ phụ cấp tiền lương, thu nhập, trong đó xác định mức tiền công, tiền lương tối thiểu là căn cứ nền tảng để xác định giá cả sức lao động. Hệ thống thang bảng lương cũng đã dần dần được điều chỉnh. Đối với các doanh nghiệp nhà nước, Nhà nước đã ban hành hệ thống thang bảng lương, bảng lương (Nghị định 26/CP ngày 13/5/1993) để các doanh nghiệp nhà nước áp dụng thống nhất, và trở thành thang giá trị chung cho việc tính lương như một yếu tố đầu vào. Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, cơ quan, tổ chức nước ngoài, tổ chức quốc tế hoạt động tại Việt Nam và các doanh nghiệp hoạt động theo Luật doanh nghiệp, nhà nước đã thể chế hóa chính sách tiền lương bằng cách ban hành mức lương tối thiểu, còn các nội dung khác của chính sách tiền lương chỉ mang tính hướng dẫn để các doanh nghiệp, cơ quan hay tổ chức đó quyết định trên cơ sở quan hệ cung cầu lao động trên thị trường và điều kiện của từng bên tham gia thị trường. Mức lương tối thiểu luôn được điều chỉnh theo sự biến động của giá trên thị trường, cụ thể: mức tiền lương tối thiểu áp dụng chung từ 01/01/1993 là 120.000 đồng/tháng/người; từ 01/07/1997 là 144.000 đồng/tháng; từ 01/01/2000 là 180.000 đồng/tháng; từ 01/01/2001 là 210.000 đồng/tháng; từ 01/01/2002 là 290.000 đồng/tháng. Theo Nghị định số 118/2005/NĐ-CP ngày 15/09/2005 của Chính phủ là 350.000 đồng/tháng (từ ngày 01/10/2005) và từ 01/10/2006 theo Nghị định 94/2006/NĐ-CP là 450.000 đồng/tháng. Dự kiến giai đoạn 2008 – 2012 điều chỉnh từ 450.000 đồng lên 990.000 đồng/tháng (từ ngày 01/01/2008 đã điều chỉnh từ 450.000 đồng lên 540.000 đồng/tháng theo Nghị định 166/2007/NĐ-CP ngày 16/11/2007 quy định mức lương tối thiểu chung) Sự chuyển dịch lao động Chuyển dịch lao động nội địa Chuyển dịch theo ngành: Với sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa thì sự chuyển dịch cơ cấu lao động giữa các ngành kinh tế là rất quan trọng. Nhìn chung sự chuyển dịch cơ cấu lao động theo các ngành kinh tế đã có sự chuyển biến tích cực. Cơ cấu lao động phân theo ngành kinh tế (%) (Nguồn: Tổng cục thống kê ) Ngành 2005 2008 2010 Cả nước 100 100 100 Nông-lâm-ngư nghiệp 55.1 52.3 48.7 Công nghiệp-xây dựng 14.9 15.3 15.9 Dịch vụ 30 32.4 35.4 Chuyển dịch theo lãnh thổ: Các dòng lao động nước ta có xu hướng di chuyển từ Bắc vào Nam do một số tỉnh miền Nam hiện đang có điều kiện phát triển kinh tế tốt hơn đặc biệt là về trịn độ phát triển kinh tế. Nhưng dòng di chuyển lao động mạnh nhất hiện nay vẫn là từ nông thôn ra thành thị: có đên gần ½ dân số hiện đang sống ở các vùng đô thị có nguồn gốc từ nông thôn, chưa kể số lao động đến làm việc theo ngày, hoặc theo thời vụ…Trong khi đó, người có nguồn gốc từ thành thị chuyển đến sinh sống và làm việc ở các vùng nông thôn chỉ chiếm con số rất nhỏ (gần 8%). Di chuyển lao động quốc tế Sau một số trục trặc cuối năm 2007 và khủng hoảng kinh tế 2008 đã khiến thị trường tiếp nhận lao động số một của Việt Nam một thời là Malaysia bị ảnh hưởng tiêu cực và gần như “đóng cửa”. Phía nước sở tại đã ban hành chính sách tạm ngừng tiếp nhận lao động nước ngoài ở một số lĩnh vực. Theo thống kê của Cục Quản lý lao động ngoài  nước, năm 2009 và năm 2010,mỗi năm cả nước đưa được 75.000 lao động đi làm việc ở nước ngoài. .Có được điều đó là nhờ những chính sách của nhà nước tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động vay vốn đi lao động ở nước ngoài, nâng cao năng lực của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và tăng cường công tác tuyên truyên… Tuy nhiên chất lượng lao động của Việt Nam còn hạn chế về trình độ chuyên môn, ngoại ngữ và ý thức kỷ luật nên giảm tính hấp dẫn so với nguồn nhân lực của các nước khác: Trung Quốc, Phillipin, Indonexia… Nhận xét về thực trạng hàng hoá sức lao động tại Việt Nam hiện nay: Nền kinh tế thị trường ở nước ta vận động và phát triển gắn liền với quá trình CNH, HĐH. Vì vậy, khi vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động vào phát triển thị trường lao động cần phải quan tâm giải quyết vấn đề nguồn cung lao động chất lượng cao cho quá trình CNH, HĐH. Mặt khác, trong xu thế hội nhập quốc tế nền kinh tế thị trường ở các nước phát triển là hướng đến nền kinh tế tri thức. Đây là nền kinh tế đòi hỏi lao động trí tuệ cao, vì vậy, người lao động phải biết nắm bắt và xử lý thông tin nhanh nhạy, đặc biệt là trong những ngành công nghệ mới. Xu thế này của nền kinh tế thị trường đòi hỏi việc vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải đặc biệt quan tâm nhằm nâng cao giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động. Tuy nhiên, quá trình nhận thức và vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động của C.Mác vẫn còn những giới hạn nhất định, chưa đáp ứng được những yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong tiến trình toàn cầu hoá kinh tế, cụ thể như: về giá trị sử dụng của hàng hoá sức lao động còn thấp làm hạn chế phần nào sự cạnh tranh của nước ta trên thị trường thế giới, giá trị hàng hoá sức lao động còn bất cập, chưa bao hàm hết những yếu tốt đáp ứng yêu cầu tái sản xuất mở rộng sức lao động cho một bộ phận lớn những người làm công ăn lương. Hệ thống thông tin lao động, việc làm chưa được quản lý chặt chẽ. Hệ thống giáo dục - đào tạo chưa đủ khả năng cung ứng nguồn lao động chất lượng cao cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. 3.Giải pháp cho thị trường lao động tại Việt Nam hiện nay Theo phân tích ở trên có thể thấy rằng nước ta có rất nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển thị trường lao động tuy nhiên giá trị của hàng hóa sức lao động còn thấp. Nguyên nhân chủ yếu là do người lao động Việt Nam còn nhiều hạn chế về chất lượng, quy mô và mức độ tham gia thị trường lao động còn thấp, đặc biệt quan hệ cung-cầu trên thị trường còn nhiều hạn chế dẫn đến sự không ổn định. Trước các vấn đề trên, tôi xin đưa ra một số giải pháp cơ bản vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động để đảm bảo nguồn nhân lực cho thị trường lao động trong thời kỳ hội nhập quốc tế như sau: Thứ nhất, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với quá trình hội nhập quốc tế và xu thế phát triển của nền kinh tế tri thức. Điều đó đòi hỏi các hệ thống giáo dục của chúng ta phải được hoàn thiện, xây dựng và phát triển nguồn nhân lực cả về số lượng và chất lượng, nhất là về trình độ chuyên môn, kỹ thuật, về phẩm chất, năng lực thì mới có thể tiếp cận được nền kinh tế tri thức và hội nhập quốc tế.  Thứ hai, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể nền kinh tế thị trường sự định hướng xã hội chủ nghĩa: Vì lợi ích của người sử dụng lao động và lợi ích của người lao động phải có sự hài hoà. Quan hệ lao động ở các doanh nghiệp cần được được luật hoá, theo đó, quan hệ giữa người sử dụng lao động và người lao động không phải là quan hệ đối kháng, lợi ích tư nhân của người sử dụng lao động và lợi ích cá nhân của người lao động không mâu thuẫn gay gắt với nhau mà được chuyển hoá để kết hợp thành một thể thống nhất, tạo hợp lực chung vì sự phát triển của xã hội, sự gắn kết hài hoà giữa các lợi ích là yếu tố cơ bản để tạo lập mối quan hệ lao động thân thiện giữa người sử dụng lao động. Thứ ba, vận dụng lý luận hàng hoá sức lao động phải gắn liền với việc hình thành đội ngũ lao động có trình độ và cơ cấu hợp lý đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Điều đó có nghĩa là phải xây dựng và phát triển nguồn nhân lực mới đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Đó là những người biết nắm bắt và sử dụng có hiệu quả những phương tiện kỹ thuật hiện đại; những người có năng lực sáng tạo trong nghiên cứu khoa học, trong quản lý vĩ mô và vi mô; là những người ứng xử có văn hoá cũng như có đạo đức nghề nghiệp... Đi đôi với đào tạo nghề, đào tạo chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ thuật cho người lao động, cần quan tâm giáo dục phẩm chất đạo đức, ý thức trách nhiệm, lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, cho dù người lao động đó làm việc trong bất cứ doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế nào.  Thứ tư, thúc đẩy giao dịch trên thị trường lao động bằng các hình thức như; phát triển hệ thống trung tâm giới thiệu việc làm, tăng cường quản lý Nhà nước, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động, phát triển hệ thống thông tin, thống kê thị trường lao động; hoàn thiện hệ thống pháp luật về thị trường lao động, hoàn thiện bộ máy quản lý và vận hành có hiệu quả thị trường lao động, nâng cao hơn nữa vai trò của các tổ chức đại diện cho người lao động và tổ chức đại diện cho chủ sử dụng lao động, tiếp tục hoàn thiện các chính sách thị trường lao động, chính sách tiền lương.  Tóm lại, sự tồn tại và phát triển của hàng hoá sức lao động và thị trường sức lao động là một tất yếu khách quan, việc thừa nhận sức lao động là hàng hoá không cản trở việc xây dựng CNXH mà còn giúp kích thích cả người sở hữu sức lao động lẫn người sử dụng lao động đóng góp tích cực hơn vào sự nghiệp phát triển chung của đất nước. KẾT THÚC Qua bài tiểu luận trên, ta có thấy được tầm quan trọng của hàng hoá sức lao động. Đối với Việt Nam hiện nay, việc phát triển nền kinh tế tri thức cần có một nguồn lao động với
Luận văn liên quan